những chiếc lông chim
Bạn cùng chỗ làm với tôi, Bud, hắn mời Fran và tôi tới ăn tối. Tôi không biết vợ hắn còn hắn không biết Fran. Thế là công bằng. Nhưng Bud với tôi là bạn. Và tôi biết còn có một đứa bé con ở nhà Bud nữa. Khi Bud mời bọn tôi tới ăn tối thì đứa bé đã tám tháng. Tám tháng ấy đã đi đâu? Quỷ thật, thời gian đã đi đâu mất kể từ hồi ấy? Tôi nhớ cái ngày Bud tới chỗ làm với một hộp xì gà. Hắn mời mọi người trong phòng ăn trưa. Đấy là xì gà hàng chợ. Loại Dutch Master. Nhưng trên mỗi điếu đều dán một mẩu giấy đỏ và giấy cuốn ngoài viết MỘT THẰNG CU! Tôi không hút xì gà, nhưng vẫn lấy một điếu. “Lấy hai điếu đi,” Bud nói. Hắn lắc chiếc hộp. “Tôi cũng không thích xì gà. Đây là ý của cô ấy thôi.” Hắn đang nói về vợ hắn. Olla.
Tôi chưa bao giờ gặp vợ Bud, nhưng có lần đã nghe giọng cô ta trên điện thoại. Hôm đó là chiều thứ Bảy, và tôi chẳng có việc gì muốn làm. Thế là tôi gọi cho Bud xem hắn muốn làm gì không. Một người phụ nữ nhấc máy và nói, “A lô.” Tôi ngơ ra và không thể nhớ được tên cô ta. Vợ của Bud. Bud đã nói cho tôi tên cô ta không biết bao nhiêu lần. Nhưng nó vào tai này rồi lại ra tai kia. “A lô!” giọng nữ nhắc lại. Tôi có thể nghe tiếng ti vi đang bật. Rồi cô ta nói, “Ai đó?” Tôi nghe tiếng trẻ con bắt đầu khóc. “Bud!” người phụ nữ gọi. “Gì?” tôi nghe Bud nói. Tôi vẫn không tài nào nhớ ra tên cô ta. Thế là tôi gác máy. Hôm sau gặp Bud ở chỗ làm tôi chắc như đinh đóng cột sẽ không cho hắn biết tôi đã gọi. Nhưng tôi nhất định phải bắt hắn nhắc đến tên vợ. “Olla,” hắn nói. Olla, tôi tự nói với mình. Olla.
“Chả có gì to tát,” Bud nói. Chúng tôi ngồi trong phòng ăn trưa uống cà phê. “Chỉ có bốn đứa bọn mình thôi. Ông với bà xã, và tôi với Olla. Không có gì đặc biệt cả. Đến tầm bảy giờ nhé. Sáu giờ cô ấy cho con ăn. Sau đó cho nó ngủ, rồi bọn mình ăn. Chỗ bọn tôi không khó tìm. Nhưng có bản đồ đây.” Hắn đưa cho tôi một tờ giấy với đủ nét vạch chỉ các loại đường to đường nhỏ, làn nọ làn kia, với những mũi tên chỉ rõ bốn cực của la bàn. Một dấu X to đánh dấu vị trí nhà hắn. Tôi bảo, “Bọn tôi nóng lòng lắm rồi đây.” Nhưng Fran chẳng mấy hào hứng.
Tối đó, khi đang xem ti vi, tôi hỏi nàng xem có nên mang gì đến nhà Bud hay không.
“Cái gì bây giờ?” Fran nói. “Anh ta có bảo mang gì đến không? Làm sao em biết được? Em không nghĩ ra cái gì hết.” Nàng nhún vai và đưa mắt nhìn tôi. Chủ đề Bud thì trước đây nàng đã nghe tôi kể. Nhưng nàng không biết hắn và nàng cũng chẳng thích được biết hắn. “Mình mang một chai rượu cũng được,” nàng nói. “Nhưng em không quan tâm. Sao anh không mang rượu đi?” Nàng lắc đầu. Mái tóc dài của nàng đưa qua đưa lại trên bờ vai. Tại sao mình lại cần những kẻ khác nữa chứ? Nàng có vẻ như đang nói vậy.
Bọn tôi luôn có nhau. “Lại đây,” tôi nói. Nàng dịch lại gần hơn một chút để tôi có thể ôm nàng. Fran cao lớn. Nàng có mái tóc vàng dài buông xõa xuống lưng. Tôi nâng một ít tóc nàng lên hít hà. Tôi quấn tóc nàng quanh bàn tay. Nàng để tôi ôm. Tôi áp mặt lên tóc nàng và ôm nàng thêm ít nữa.
Đôi lúc khi mái tóc trở nên vướng víu nàng phải cầm hất nó qua vai. Nàng bực mái tóc. “Mớ tóc này,” nàng nói. “Chỉ được mỗi cái phiền phức.” Fran làm việc trong một xưởng bơ sữa và phải cuộn tóc lên khi đi làm. Nàng phải gội đầu mỗi tối và chải tóc khi bọn tôi ngồi trước ti vi. Có lúc nàng dọa sẽ cắt mái tóc đi. Nhưng tôi không nghĩ nàng sẽ làm thế. Nàng biết tôi thích nó lắm. Nàng biết tôi phát cuồng vì nó. Tôi nói với nàng tôi phải lòng nàng vì mái tóc. Tôi nói với nàng tôi có thể sẽ thôi không yêu nàng nữa nếu như nàng cắt nó đi. Đôi lúc tôi gọi nàng là “nàng Thụy Điển”. Nàng có thể bị nhầm với người Thụy Điển. Những buổi tối bên nhau nàng chải tóc và bọn tôi nói ra điều ước về những thứ bọn tôi không có. Bọn tôi ước một chiếc ô tô mới, đấy là một trong những thứ bọn tôi mơ ước. Bọn tôi ước có hai tuần ở Canada. Nhưng có một thứ mà bọn tôi không ước, là lũ trẻ. Lý do bọn tôi chưa có con là vì bọn tôi không muốn. Có lẽ để một lúc nào đấy, bọn tôi nói với nhau như thế. Nhưng ngay hồi ấy bọn tôi đã trì hoãn. Bọn tôi nghĩ mình nên tiếp tục trì hoãn. Một vài buổi tối bọn tôi đi xem phim. Những tối khác bọn tôi chỉ ở nhà xem ti vi. Đôi khi Fran nướng đồ và dù nó là gì thì bọn tôi cũng chén sạch ngay trong bữa.
“Biết đâu họ không uống rượu,” tôi nói.
“Cứ mang vang đi,” Fran nói. “Họ không uống thì mình uống.”
“Trắng hay đỏ?” tôi hỏi.
“Mình sẽ mang đồ ngọt nữa,” nàng nói, không mảy may để ý đến tôi. “Nhưng em chẳng quan tâm mình có mang gì hay không. Đây là cuộc hẹn của anh mà. Đừng có phức tạp hóa nó lên, không là em chẳng muốn đi nữa đâu. Em có thể làm bánh vòng cà phê với quả mâm xôi. Không thì một ít bánh nướng nhỏ.”
“Họ sẽ có đồ tráng miệng,” tôi nói. “Chẳng ai mời người khác đến nhà ăn tối mà lại không chuẩn bị đồ tráng miệng cả.”
“Họ có thể có bánh pudding gạo. Hoặc là thạch Jell-O! Những thứ mình không thích,” nàng nói. “Em không biết tí gì về cô kia. Làm sao mình biết được cô ta sẽ có những gì? Nhỡ cô ta đãi mình Jell-O thì sao?” Fran lắc đầu. Tôi nhún vai. Nhưng nàng nói đúng. “Mấy điếu xì gà cũ mà anh ta cho anh ấy,” nàng nói. “Mang đi. Như thế thì ăn tối xong anh với anh ta có thể ra ngoài phòng khách hút xì gà uống rượu poóctô hoặc cái loại gì người ta hay uống trong phim ấy.”
“Được rồi, vậy mình sẽ chỉ mang thân đến thôi,” tôi nói.
Fran nói, “Mình sẽ mang một ổ bánh mì của em đi.”
Bud và Olla sống cách thị trấn hai mươi dặm. Bọn tôi sống trong thị trấn đó đã ba năm, nhưng, khốn thay, Fran và tôi thậm chí chưa từng rong ruổi về vùng quê bao giờ. Cảm giác lái xe trên những con đường nhỏ ngoằn ngoèo thật thích. Lúc ấy mới sẩm tối, ấm áp dễ chịu, bọn tôi trông thấy đồng cỏ cho gia súc, hàng rào trang trại, đám bò sữa chậm rãi đi về phía những chuồng trại cũ kỹ. Bọn tôi trông thấy những con chim hét cánh đỏ trên hàng rào, lũ bồ câu lượn vòng quanh vựa cỏ khô. Có vườn tược và những thứ tương tự, hoa dại đang nở rộ, và những ngôi nhà nhỏ thấp thoáng phía xa đường. Tôi nói, “Giá mà mình có một chỗ ngoài này.” Đấy chỉ là một ý nghĩ vu vơ, thêm một điều ước chẳng đi đến đâu. Fran không trả lời. Nàng đang bận nhìn bản đồ của Bud. Bọn tôi đến cái mốc ngã tư mà Bud đánh dấu. Bọn tôi rẽ phải theo bản đồ rồi lái thêm đúng ba phần mười dặm. Bên trái đường, tôi trông thấy một đồng ngô, một thùng thư, một lối xe dài rải sỏi. Cuối lối xe, đằng sau mấy cái cây là một ngôi nhà có hàng hiên trước. Trên mái có ống khói. Nhưng đang là mùa hè, nên tất nhiên chả có tí khói nào từ ống khói bốc lên. Nhưng tôi nghĩ đó là một bức tranh xinh xắn, và tôi nói thế với Fran.
“Ở đây rõ quê mùa,” nàng nói.
Tôi rẽ vào lối xe. Ngô mọc ở hai bên lối đi. Ngô cao hơn cả xe. Tôi có thể nghe được tiếng sỏi kêu lạo xạo dưới lốp xe. Khi tiến đến gần ngôi nhà, bọn tôi thấy một khu vườn với những thứ màu xanh lá to bằng quả bóng chày treo lơ lửng trên giàn dây leo.
“Cái gì thế kia?” tôi hỏi.
“Sao em biết được chứ?” nàng nói. “Bí chăng. Em chịu.”
“Fran này,” tôi nói. “Thư giãn đi.”
Nàng không nói gì. Nàng bặm môi dưới vào rồi lại thôi. Nàng tắt đài khi chúng tôi tới gần nhà.
Một bộ xích đu cho trẻ con đặt trong mảnh vườn trước nhà và vài thứ đồ chơi nằm trên hiên.
Tôi đỗ xe trước cửa và tắt máy. Đúng lúc ấy bọn tôi nghe thấy cái tiếng kêu khủng khiếp. Trong nhà có em bé, phải rồi, nhưng tiếng thét này quá to so với một đứa bé.
“Tiếng gì thế?” Fran hỏi.
Và rồi có cái gì đó to như con kền kền đập cánh nặng nề từ một trong mấy cái cây nọ bay xuống đỗ ngay sát trước xe. Nó lắc mình. Nó quay cái cổ dài về phía chiếc xe, ngỏng đầu lên ngắm nghía bọn tôi.
“Mẹ kiếp,” tôi nói. Tôi ngồi im, hai tay đặt nguyên trên vô lăng, chằm chằm nhìn nó.
“Anh tin được không?” Fran nói. “Em chưa thấy một con thật bao giờ cả.”
Bọn tôi đều biết nó là con công, hẳn rồi, nhưng bọn tôi không nói ra một lời nào. Bọn tôi chỉ nhìn nó. Con chim ngẩng đầu lên không trung và lại kêu cái tiếng kêu chói tai ấy. Nó đã xù lông ra và trông to gấp đôi so với lúc vừa đậu xuống. “Chết tiệt,” tôi lại nói. Bọn tôi ngồi nguyên trên ghế trước.
Con chim tiến một chút về phía trước. Rồi nó quay đầu sang bên mà gại mình. Nó trông chừng bọn tôi bằng con mắt hoang dại và sáng rực. Cái đuôi của nó nâng lên, trông như cái quạt lớn gấp vào mở ra. Có đủ sắc cầu vồng tỏa ra từ cái đuôi ấy.
“Ôi trời,” Fran khẽ nói. Nàng đưa bàn tay đặt lên đầu gối tôi.
“Chết tiệt,” tôi nói. Không còn gì khác để nói.
Con chim kêu cái tiếng rền rĩ kỳ lạ ấy một lần nữa.
Nó thế này, “mayawe, may-awe!”. Tôi mà nghe thấy cái tiếng này vào ban đêm và vào lần đầu tiên, tôi sẽ nghĩ có người nào sắp chết, không thì đó là âm thanh phát ra từ một cái gì thật man rợ và nguy hiểm.
Cửa trước mở và Bud bước ra hiên. Hắn đang cài nốt khuy áo. Tóc hắn ướt. Có vẻ hắn vừa mới tắm xong.
“Câm đi, Joey!” hắn nói với con công. Hắn vỗ tay về phía con chim, cái thứ ấy liền lùi ra sau một chút. “Đủ rồi đấy. Phải rồi, câm lại! Mày câm lại, đồ quỷ già!” Bud bước xuống bậc cửa. Hắn vừa nhét áo vào trong quần vừa tiến lại chỗ xe. Hắn mặc những thứ hắn vẫn mặc đi làm - quần bò xanh, áo bò xanh. Tôi diện quần âu và áo thể thao ngắn tay. Đôi giày lười không dây đẹp đẽ của tôi. Khi trông thấy những thứ Bud mặc, tôi cảm thấy không thích vì mình đã chải chuốt.
“Rất vui là hai người đã đến được,” Bud nói khi tới bên cạnh xe. “Vào nhà đi.”
“Chào, Bud,” tôi nói.
Fran và tôi ra khỏi xe. Con công lùi sang một bên, lạng cái đầu xấu xí của nó hết bên nọ đến bên kia. Bọn tôi cẩn thận giữ một khoảng cách với nó.
“Có vấn đề gì lúc tìm đường không?” Bud nói với tôi. Hắn chưa nhìn sang Fran. Hắn đang chờ được giới thiệu.
“Chỉ dẫn tốt lắm,” tôi nói. “Này, Bud, đây là Fran. Fran, đây là Bud. Cô ấy đã nghe tai tiếng của ông rồi đấy, Bud.”
Hắn cười to và họ bắt tay. Fran cao hơn Bud. Bud phải ngẩng lên.
“Anh ấy hay nói chuyện về anh” Fran nói. Nàng rút tay lại. “Bud thế này, Bud thế kia, Anh gần như là người duy nhất ở dưới đó mà anh ấy nhắc đến. Tôi có cảm giác như đã biết anh rồi vậy.” Nàng vẫn để ý đến con công. Nó đã tiến về phía hiên nhà.
“Bạn tôi mà,” Bud nói. “Hắn phải nhắc đến tôi chứ.” Nói đoạn Bud nhe răng cười và đấm nhẹ vào tay tôi.
Fran vẫn ôm ổ bánh mì. Nàng không biết phải làm gì với nó. Nàng đưa cho Bud. “Chúng tôi mang cho anh đây.”
Bud cầm lấy ổ bánh. Hắn xoay nó lại mà nhìn như thể đó là ổ bánh mì đầu tiên hắn từng thấy. “Hai người thật chu đáo quá.” Hắn đưa ổ bánh lên gần mặt hít hà.
“Fran nướng đấy,” tôi bảo Bud.
Bud gật đầu. Rồi hắn bảo, “Vào trong nhà gặp bà vợ và bà mẹ kia thôi.”
Hắn đang nói về Olla, hẳn rồi. Olla là bà mẹ duy nhất ở quanh đây. Bud từng nói với tôi rằng mẹ hắn đã mất và cha hắn bỏ đi từ hồi hắn còn bé.
Con công lóc cóc chạy trước bọn tôi rồi nhảy phốc lên thềm nhà khi Bud mở cửa. Nó đang cố vào trong nhà.
“Ôi,” Fran kêu lên khi con công tì thân mình vào chân nàng.
“Joey, chết tiệt,” Bud nói. Hắn cốc đầu con chim một phát. Con công lùi lại trên thềm nhà và lắc mình. Lông đuôi của nó kêu sột soạt khi nó lắc. Bud làm ra vẻ như đá nó, con công bèn lùi lại ít nữa. Rồi Bud giữ cửa cho bọn tôi. “Cô ấy cho cái thứ quỷ này vào trong nhà. Chả bao lâu nữa nó sẽ còn muốn được ăn ở cái bàn chết tiệt kia và ngủ trên cái giường chết tiệt kia nữa.”
Fran dừng lại ngay bên trong cửa. Nàng quay đầu nhìn đồng ngô. “Anh có một chỗ đẹp đấy,” nàng nói. Bud vẫn đang giữ cửa. “Phải không, Jack?”
“Hẳn rồi,” tôi nói. Tôi ngạc nhiên khi nghe nàng nói vậy.
“Một chỗ như thế này không hoàn toàn như người ta tưởng đâu,” Bud nói, vẫn giữ cửa. Hắn làm động tác dọa con công. “Luôn buộc ta phải săn sóc. Không được lơ là một phút nào.” Rồi hắn nói, “Bước vào trong đi, hai người.”
Tôi nói, “Này, Bud, cái gì trồng đằng kia thế?”
“Lũ cà chua đấy,” Bud nói.
“Nông dân chính hiệu,” Fran nói, rồi lắc đầu.
Bud cười lớn. Bọn tôi đi vào trong. Một phụ nữ nhỏ nhắn tròn trịa, tóc búi cao đang chờ bọn tôi trong phòng khách. Cô ta quấn hai tay trong tấm tạp dề. Hai má đỏ bừng lên. Ban đầu tôi nghĩ cô ta bị hụt hơi, không thì cũng đang giận dữ. Cô ta nhìn tôi một lượt từ đầu đến chân, rồi đưa mắt sang Fran. Không phải không thân thiện, chỉ là nhìn thôi. Cô ta nhìn Fran chằm chằm và tiếp tục đỏ bừng mặt.
Bud nói, “Olla, đây là Fran. Và đây là anh bạn Jack của anh. Em biết hết về Jack rồi đấy. Các bạn ạ, đây là Olla.” Hắn đưa cho Olla ổ bánh mì.
“Cái gì đây?” cô ta hỏi. “Ồ, là bánh mì tự làm. Ôi, cảm ơn. Ngồi chỗ nào cũng được. Cứ tự nhiên như ở nhà nhé. Bud, sao anh không hỏi mọi người thích uống gì đi. Em còn vài thứ trên bếp.” Olla nói thế và quay vào bếp cùng ổ bánh.
“Ngồi xuống đi,” Bud nói. Fran và tôi thả mình xuống chiếc xô pha. Tôi tìm mấy điếu thuốc lá. Bud nói, “Gạt tàn đây.” Hắn cầm lấy một thứ gì nằng nặng trên nóc ti vi. “Dùng cái này,” hắn nói, đoạn hắn đặt nó xuống bàn nước trước mặt tôi. Nó là một cái gạt tàn thủy tinh hình giống con thiên nga. Tôi châm thuốc và thả que diêm vào lỗ hở trên lưng con thiên nga. Tôi nhìn sợi khói nhỏ lửng lơ bay lên khỏi con thiên nga.
Chiếc ti vi màu đang bật, vì thế bọn tôi nhìn nó khoảng một phút. Trên màn hình, những chiếc xe đua đang xé gió chạy quanh đường đua. Người thuyết minh nói bằng giọng trầm trầm. Nhưng nghe như thể ông ta cũng đang phải kìm lại sự hào hứng của mình. “Chúng tôi vẫn đang chờ xác nhận chính thức,” người thuyết minh nói.
“Hai người muốn xem cái này không?” Bud nói. Hắn vẫn đang đứng.
Tôi nói tôi không quan tâm. Và đúng là tôi không quan tâm. Fran nhún vai. Muốn hay không thì có gì khác với nàng chứ? Nàng có vẻ như muốn nói vậy. Đằng nào thì ngày hôm nay coi như đã đi tong rồi.
“Chỉ còn hai mươi vòng nữa thôi,” Bud nói. “Sắp xong rồi. Vừa nãy có một vụ va chạm lớn. Hạ bay đến sáu cái. Vài tay đua bị thương. Người ta còn chưa xác định được đến mức độ nào.”
“Cứ để đấy đi,” tôi nói. “Xem xem sao.”
“Có thể một trong mấy cái xe chết tiệt ấy sẽ nổ tung ngay trước mặt bọn mình,” Fran nói. “Không thì có thể một chiếc sẽ chạy tuốt lên khán đài rồi đâm sầm vào cái gã bán lũ xúc xích vớ vẩn kia.” Nàng luồn một lọn tóc vào giữa mấy ngón tay và dán mắt vào ti vi.
Bud nhìn Fran xem có phải nàng đang đùa hay không. “Cái vụ ấy, vụ va chạm ấy, ghê thật đấy. Cái này kéo theo cái kia. Xe, phụ tùng xe, người, văng ra khắp nơi. Chậc, tôi mang gì cho hai người được đây? Bọn tôi có bia đắng, và có một chai Old Crow nữa.”
“Ông đang uống gì đấy?” tôi hỏi Bud.
“Bia đắng,” Bud nói. “Ngon và lạnh.”
“Tôi uống bia đắng,” tôi nói.
“Tôi uống chút Old Crow với ít nước,” Fran nói. “Đựng trong cốc cao nhé. Với ít đá nữa. Cảm ơn anh, Bud.”
“Được mà,” Bud nói. Hắn liếc nhìn ti vi một lần nữa rồi quay vào trong bếp.
Fran huých tôi và hất hàm về phía chiếc ti vi. “Nhìn lên nóc kìa,” nàng thì thầm. “Anh có thấy cái em thấy không?” Tôi nhìn lên chỗ nàng đang nhìn. Có một cái bình hoa đỏ thon mảnh mà ai đó đã cắm vào mấy cành hoa cúc vườn nhà. Bên cạnh bình hoa, trên tấm khăn lót, là một khuôn thạch cao cũ kỹ mang những chiếc răng nhọn hoắt, lởm chởm nhất thế giới. Không có đôi môi nào đi kèm với cái thứ khủng khiếp ấy, và cũng chẳng có hàm, chỉ có những cái răng thạch cao nhét vào thứ gì đó trông giống như hai mảnh lợi dày vàng khè.
Vừa lúc ấy Olla quay trở lại với một hũ đựng các loại hạt khô và một chai nước ngọt vị rễ cây không cồn. Cô ta đã tháo tạp dề ra. Cô ta đặt hũ hạt khô lên bàn uống nước gần con thiên nga. Cô ta nói, “Tự nhiên nhé. Bud đang lấy đồ uống cho hai người.” Mặt Olla lại đỏ bừng khi cô ta nói. Cô ta ngồi xuống một chiếc ghế bập bênh bằng mây đã cũ và bắt đầu đưa đẩy. Cô ta uống nước ngọt và nhìn ti vi. Bud quay lại, bưng một cái khay gỗ trên đó có cốc uýt ki của Fran và nước cùng chai bia đắng của tôi. Hắn cũng có một chai bia đắng trên khay dành cho mình.
“Ông cần cốc không?” hắn hỏi tôi.
Tôi lắc đầu. Hắn vỗ vỗ đầu gối tôi rồi quay sang Fran.
Nàng nhận lấy cốc của mình từ Bud rồi nói, “Cảm ơn.” Đôi mắt nàng lại đưa đến những cái răng. Bud thấy nơi nàng đang nhìn. Những chiếc xe ô tô gầm rú quanh đường đua. Tôi cầm lấy chai bia đắng và tập trung vào màn hình. Những cái răng kia không liên quan gì đến tôi. “Răng Olla trước khi đeo niềng trông đúng y như thế đấy,” Bud nói với Fran. “Tôi đã quen với chúng. Nhưng tôi nghĩ cứ để thế thì trông chúng thật buồn cười. Thật tình, tôi cũng chẳng biết cô ấy giữ chúng làm gì nữa.” Hắn nhìn sang Olla. Rồi hắn nhìn tôi và nháy mắt. Hắn ngồi xuống chiếc ghế lười, vắt chân nọ lên chân kia. Hắn uống chai bia đắng của mình và nhìn thẳng sang Olla.
Olla lại đỏ bừng lên lần nữa. Cô ta đang cầm chai nước ngọt. Cô ta uống một ngụm. Rồi cô ta nói, “Bọn chúng nhắc tôi nhớ tôi nợ Bud nhiều đến thế nào.”
“Gì kia?” Fran nói. Nàng đang tìm cho mình hạt điều trong hũ hạt khô. Fran ngừng lại và nhìn Olla. “Xin lỗi, nhưng tôi không nghe rõ.” Fran nhìn chằm chằm vào người phụ nữ, đợi điều cô ta sẽ nói tiếp theo.
Khuôn mặt Olla lại đỏ bừng lên. “Tôi có nhiều thứ để cảm thấy cần biết ơn,” cô ta nói. “Thứ đó là một trong số ấy. Tôi giữ nó lại để nhắc mình rằng tôi nợ Bud nhiều bao nhiêu.” Cô ta uống chai nước ngọt. Rồi cô ta hạ cái chai xuống và nói, “Cô có hàm răng đẹp, Fran ạ. Tôi để ý thấy ngay lập tức. Nhưng lũ răng này của tôi, chúng mọc vẹo vọ từ hồi tôi còn bé.” Cô ta gõ móng tay lên hai răng cửa. Cô ta nói, “Hai cụ nhà tôi không có tiền để sửa răng. Mấy cái răng ấy của tôi mọc theo gần như đủ mọi kiểu. Ông chồng trước của tôi không quan tâm đến chuyện tôi trông ra sao. Không, hắn chả quan tâm gì! Hắn chẳng quan tâm đến bất cứ thứ gì trừ chuyện kiếm đâu cho ra ly rượu tiếp theo. Hắn chỉ có một người bạn duy nhất trên thế giới này, đấy là cái chai của hắn.” Cô ta lắc đầu. “Rồi Bud xuất hiện và đưa tôi ra khỏi mớ hỗn độn ấy. Sau khi bọn tôi ổn định với nhau, điều đầu tiên Bud nói là, 'Bọn mình sẽ đi sửa răng.' Cái khuôn kia được làm ngay sau khi Bud và tôi gặp nhau, dịp tôi đến gặp bác sĩ chỉnh răng lần thứ hai. Ngay trước khi niềng răng được lắp vào.”
Khuôn mặt Olla vẫn đỏ bừng. Cô ta nhìn lên hình ảnh trên màn hình ti vi. Cô ta uống nước ngọt và trông không có vẻ còn điều gì muốn nói nữa.
“Tay bác sĩ chỉnh răng ấy hẳn phải là một tay phù thủy,” Fran nói. Nàng quay lại nhìn bộ răng kinh dị trên nóc ti vi.
“Ông ấy rất tuyệt,” Olla nói. Cô ta xoay người lại trong ghế rồi nói, “Thấy không?” Cô ta mở miệng ra cho bọn tôi thấy hàm răng mình lần nữa, lúc này không một chút ngượng ngùng.
Bud đã tới bên ti vi và cầm hàm răng nọ lên. Hắn bước tới chỗ Olla, đưa nó lên ngang má Olla. “Trước và sau,” Bud nói.
Olla với tay cầm cái khuôn từ tay Bud. “Hai người biết không? Ông bác sĩ chỉnh răng ấy muốn giữ cái này.” Cô ta vừa để nó lên lòng vừa nói. “Tôi bảo không thể được. Tôi chỉ rõ cho ông ấy thấy rằng chúng là răng của tôi. Thế là thay vào đó ông ấy chụp ảnh cái khuôn. Ông ấy nói ông ấy sẽ đưa mấy bức ảnh ấy lên một tạp chí.”
Bud nói, “Tưởng tượng xem cái loại tạp chí gì như thế chứ. Chắc chả mấy ai thèm đọc cái loại ấy đâu,” hắn nói, và chúng tôi cùng cười phá lên.
“Sau khi tháo niềng, tôi vẫn cứ đưa tay che miệng khi cười. Như thế này,” cô ta nói. “Đôi lúc tôi vẫn còn làm thế. Thói quen mà. Một ngày nọ Bud bảo, 'Em có thể thôi làm vậy bất kỳ lúc nào, Olla. Em không phải giấu bộ răng đẹp thế kia đâu. Giờ em đã có răng đẹp rồi mà.'“ Olla nhìn sang Bud. Bud nháy mắt với cô ta. Cô ta mỉm cười và cụp mắt xuống.
Fran uống cốc của mình. Tôi nhấp một chút bia đắng. Tôi không biết phải nói gì về chuyện này. Fran cũng vậy. Nhưng tôi biết Fran sẽ có vô vàn thứ để nói sau đó.
Tôi nói, “Olla, tôi gọi đến đây một lần rồi. Cô trả lời điện thoại. Nhưng tôi lại gác máy. Tôi cũng chẳng biết tại sao mình gác máy.” Tôi nói thế đoạn nhấp chút bia đắng. Tôi không hiểu tại sao mình lại nhắc đến chuyện đó lúc này.
“Tôi không nhớ,” Olla nói. “Khi nào thế?”
“Cũng hơi lâu rồi.”
“Tôi không nhớ,” cô ta nói và lắc đầu. Cô ta lần ngón tay lên mấy cái răng thạch cao trên lòng mình. Cô ta nhìn lên cuộc đua xe và lại đu đưa tiếp.
Fran đưa mắt sang phía tôi. Nàng bặm môi. Nhưng nàng không nói gì.
Bud nói, “Chậc, còn chuyện gì mới nữa nhỉ?”
“Ăn thêm ít hạt đi,” Olla nói. “Một lát nữa thôi bữa tối sẽ sẵn sàng.”
Có tiếng khóc từ một căn phòng phía sau nhà.
“Không phải nó đâu,” Olla nói với Bud, và nhăn mặt.
“Thằng cu con đấy mà,” Bud nói. Hắn ngả người ra sau ghế, rồi bọn tôi xem hết đoạn còn lại của cuộc đua, ba bốn vòng gì đó, không một tiếng động.
Đôi lúc chúng tôi lại nghe thấy tiếng đứa bé, những tiếng kêu bẳn gắt vọng từ căn phòng đằng sau nhà.
“Em không biết nữa,” Olla nói. Cô ta đứng dậy. “Mọi thứ đã sẵn sàng để bọn mình ngồi vào bàn rồi đấy. Tôi chỉ còn phải chuẩn bị chỗ nước xốt thịt nữa thôi. Nhưng có lẽ tôi nên ngó qua thằng bé trước đã. Sao mọi người không ra ngoài ngồi vào bàn đi nhỉ? Tôi chỉ bận một phút nữa thôi.”
“Tôi muốn xem bé con,” Fran nói.
Olla vẫn đang cầm bộ răng. Cô ta đi tới đặt nó lại trên nóc ti vi. “Như thế khéo sẽ làm nó khó chịu”, cô ta nói. “Nó không quen với người lạ. Chờ xem tôi có dỗ nó ngủ lại được không đã nhé. Rồi chị có thể ghé vào. Khi nó đang ngủ ấy.” Đoạn cô ta đi về cuối hành lang tới một phòng nhỏ, mở cửa. Cô ta khẽ khàng bước vào và đóng cửa lại. Đứa bé ngừng khóc.
Bud tắt ti vi và chúng tôi đi vào ngồi xuống bàn ăn. Bud và tôi nói chuyện ở chỗ làm. Fran lắng nghe. Lúc này lúc khác nàng còn hỏi han nữa. Nhưng tôi có thể nói chắc là nàng đang chán và cảm thấy bị ra rìa khi Olla không để nàng xem đứa bé. Nàng nhìn quanh bếp của Olla. Nàng quấn một lọn tóc quanh mấy ngón tay trong khi xem xét đồ đạc của Olla.
Olla quay lại bếp và nói, “Tôi đã thay đồ cho thằng bé và đưa nó con vịt cao su rồi. Có lẽ giờ nó sẽ để mình ăn. Nhưng cũng đừng chắc chắn quá nhé.” Cô ta nhấc vung và bắc một cái nồi xuống khỏi bếp. Cô ta rót nước xốt thịt màu đỏ vào một chiếc âu rồi đặt âu lên bàn. Cô ta nhấc vung một vài cái nồi khác xem mọi thứ đã được chưa. Trên bàn có bắp thịt muối nướng, khoai lang, khoai tây nghiền, đậu lima, ngô nguyên bắp, xa lát. Ổ bánh mì của Fran nằm ở một vị trí nổi bật ngay bên cạnh bắp thịt muối.
“Tôi quên mất khăn ăn rồi,” Olla nói. “Mọi người bắt đầu đi. Ai muốn uống gì nào? Bud thì bữa nào cũng uống sữa.”
“Sữa cũng hay,” tôi nói.
“Nước cho tôi,” Fran nói. “Nhưng tôi tự lấy được. Tôi không muốn chị phải phục vụ tôi. Chị đã làm nhiều rồi.” Nàng làm như đang chuẩn bị đứng dậy.
Olla nói, “Kìa. Chị là khách mà. Ngồi nguyên đó đi. Để tôi lấy.” Cô ta lại đỏ bừng mặt lên.
Chúng tôi ngồi hai tay để trên lòng mà đợi. Tôi nghĩ về những cái răng thạch cao. Olla quay lại mang theo khăn ăn, hai cốc sữa lớn cho Bud và tôi, một cốc nước đá cho Fran. Fran nói, “Cảm ơn.”
“Không có gì,” Olla nói. Rồi ngồi xuống. Bud hắng giọng. Hắn cúi đầu nói vài lời cầu nguyện. Hắn nói nhỏ đến mức tôi hầu như không nghe ra từ nào. Nhưng tôi cũng tóm được ý chính - hắn đang cảm ơn đấng tối cao về chỗ thức ăn mà chúng tôi đang chuẩn bị đánh chén.
“Amen,” Olla nói khi hắn kết thúc.
Bud chuyển cho tôi đĩa bắp thịt muối và tự lấy cho mình ít khoai tây nghiền. Rồi chúng tôi bắt đầu ăn. Chúng tôi không nói gì nhiều ngoại trừ thỉnh thoảng Bud hoặc tôi nói, “Thịt muối này ngon quá.” Hay, “Bắp ngô ngọt này là loại ngô ngọt ngon nhất mà tôi từng ăn.”
“Bánh mì này mới thật là đặc biệt,” Olla nói.
“Cho tôi xin thêm chút xa lát, Olla,” Fran nói, giọng có lẽ đã hơi mềm lại chút ít.
“Ăn thêm cái này đi,” Bud nói mỗi khi chuyển cho tôi đĩa thịt muối, không thì âu nước xốt thịt màu đỏ.
Chốc chốc, chúng tôi nghe đứa bé kêu. Olla lại quay đầu lắng nghe, rồi khi đã hài lòng biết đó chỉ là tiếng ọ ẹ thì quay lại tập trung vào món ăn.
“Bé con hôm nay khó ở đấy mà,” Olla nói với Bud.
“Tôi vẫn muốn xem nó,” Fran nói. “Chị gái tôi cũng có con nhỏ. Nhưng mẹ con chị ấy sống ở tận Denver. Đến đời nào tôi mới tới Denver được cơ chứ? Tôi có một đứa cháu gái dễ thương mà tôi chưa từng được gặp.” Fran nghĩ về chuyện ấy giây lát, rồi nàng lại ăn tiếp.
Olla xiên một ít thịt muối đưa vào miệng. “Hy vọng là nó đã ngủ thiu thiu rồi,” cô ta nói.
Bud bảo, “Thứ gì cũng còn nhiều lắm. Ăn thêm thịt muối và khoai lang nữa đi, mọi người.”
“Tôi không thể ăn thêm miếng nào nữa,” Fran nói. Nàng đặt dĩa xuống đĩa ăn. “Ngon lắm, nhưng tôi không thể ăn thêm được nữa.”
“Để dành bụng nhé,” Bud nói. “Olla có làm bánh nướng nhân lá đại hoàng đấy.”
Fran nói, “Có lẽ tôi có thể ăn một miếng nhỏ bánh đại hoàng. Khi mọi người đều đã sẵn sàng.”
“Tôi cũng vậy,” tôi nói. Nhưng tôi nói thế cho lịch sự thôi. Tôi vẫn ghét bánh lá đại hoàng từ hồi mới mười ba tuổi, bị nôn khi ăn nó cùng với kem dâu tây.
Chúng tôi chén sạch những thứ có trên đĩa của mình. Rồi chúng tôi lại nghe tiếng cái con công quái quỷ ấy. Lần này cái thứ ấy ở trên mái nhà. Chúng tôi nghe thấy nó ngay trên đầu mình. Nó gây ra những tiếng tóc tóc khi đi lại trên mái ngói.
Bud lắc đầu. “Một phút nữa là Joey sẽ thôi ngay thôi. Nó sẽ mệt và đi ngủ sớm,” Bud nói. “Nó ngủ trong mấy cái cây kia kìa.”
Con chim lại bắt đầu kêu lên nữa. “May-awe!” như thế. Không ai nói gì. Có gì mà nói chứ?
Rồi Olla bảo, “Nó muốn vào đấy, Bud.”
“Chà chà, nó không vào được,” Bud nói. “Mình có khách mà, trong trường hợp em không nhận ra thế. Mọi người đây không muốn một con chim già quái quỷ vào nhà đâu. Cái con chim bẩn thỉu với lại hai hàm răng cũ của em ấy à! Mọi người sẽ nghĩ gì chứ?” Hắn lắc đầu. Hắn phá lên cười. Chúng tôi đều cười. Fran cười hùa theo.
“Nó không bẩn thỉu, Bud,” Olla nói. “Anh làm sao thế? Anh thích Joey mà. Từ khi nào anh bắt đầu bảo nó bẩn thế?”
“Từ cái lần nó ị lên tấm thảm,” Bud nói. “Xin chị thứ lỗi cho,” hắn nói với Fran. “Nhưng mà, tôi bảo này, lúc nào đó tôi sẽ vặn cổ con chim già ấy. Nó chẳng đáng giết nữa, phải không, Olla? Đôi khi, nửa đêm, nó dựng tôi dậy bằng cái tiếng kêu chói tai ấy. Nó chẳng đáng một đồng năm xu - phải không, Olla?”
Olla lắc đầu trước lời lẽ vớ vẩn của Bud. Cô ta đẩy mấy hạt đậu lima quanh đĩa của mình.
“Làm sao mà từ đầu hai người lại có con công chứ?” Fran muốn biết.
Olla ngẩng lên khỏi cái đĩa. Cô ta nói, “Tôi vẫn luôn mơ được có cho riêng mình một con công. Từ khi còn là con bé con tôi đã trông thấy bức ảnh một con công trong tạp chí. Tôi nghĩ nó là thứ đẹp nhất mình từng thấy. Tôi cắt bức ảnh ra dán lên đầu giường. Tôi đã giữ bức ảnh đó lâu chưa từng thấy. Rồi khi Bud và tôi có chỗ này, tôi liền nhìn thấy cơ hội của mình. Tôi bảo, 'Bud, em muốn có một con công.' Bud đã cười vào cái ý tưởng ấy.”
“Cuối cùng thì tôi cũng đi hỏi loanh quanh,” Bud nói. “Tôi nghe có người kể về một ông già nuôi bọn chim này ở mãi hạt bên kia. Loài chim thiên đường, ông ta gọi chúng như vậy. Bọn tôi trả một trăm đồng cho một con chim thiên đường ấy đấy,” hắn nói. Hắn vỗ trán. “Lạy Đấng Tối cao, tôi vớ phải một bà có sở thích đắt đỏ quá đi mất.” Hắn nhe răng cười với Olla.
“Bud,” Olla nói, “anh biết không phải là thế mà. Ngoài những chuyện khác ra, Joey còn là một con chó giữ nhà rất giỏi,” cô ta nói với Fran. “Có Joey bọn tôi chẳng cần đến chó giữ nhà nữa. Nó nghe được gần như tất cả mọi thứ.”
“Nếu thời vận khó khăn quá, và rất có thể sẽ như thế, tôi sẽ cho Joey vào nồi,” Bud nói. “Lông lá và tuốt tuột.”
“Bud! Không hay ho gì đâu,” Olla nói. Nhưng cô ta cười to và chúng tôi lại được trông rõ bộ răng ấy lần nữa.
Đứa bé bắt đầu kêu lên nữa. Lần này nó khóc thật. Olla bỏ khăn ăn xuống và đứng dậy.
Bud nói, “Không phải chuyện này thì lại có chuyện kia. Đem nó ra đây đi, Olla.”
“Em đang định đây,” Olla nói và đi bế đứa bé ra.
Con công lại rền rĩ, và tôi cảm thấy tóc gáy dựng hết lên. Tôi nhìn Fran. Nàng cầm khăn ăn lên rồi lại đặt xuống, tôi nhìn về phía cửa bếp. Bên ngoài tối om. Cánh cửa sổ đã được nâng lên, và trong khung cửa có một tấm lưới. Hình như tôi có nghe tiếng con chim trên hàng hiên trước.
Fran đưa mắt nhìn về phía cuối hành lang. Nàng đang chờ Olla và đứa bé.
Một lát sau, Olla quay trở ra cùng với nó. Tôi nhìn đứa bé và hít vào một hơi. Olla ngồi xuống bàn với đứa bé. Cô ta xốc nách thằng bé cho nó đứng trên lòng mình và quay mặt ra phía chúng tôi. Cô ta nhìn Fran và rồi nhìn tôi. Lúc này mặt cô ta không đỏ bừng lên nữa. Cô ta chờ một trong hai chúng tôi nói gì đó.
“A!” Fran kêu.
“Cái gì thế?” Olla vội hỏi.
“Không có gì,” Fran nói. “Hình như tôi vừa thấy gì đó chỗ cửa sổ. Hình như tôi vừa thấy một con dơi.”
“Bọn tôi không thấy có con dơi nào quanh đây cả,” Olla nói.
“Có lẽ chỉ là bướm đêm,” Fran nói. “Là cái gì đó. Thôi bỏ qua đi,” nàng nói, “chẳng phải ở kia còn có một em bé ư.”
Bud đang nhìn đứa bé. Rồi hắn quay sang nhìn Fran. Hắn đẩy ngửa ghế ra cho nó đứng trên mỗi hai chân sau và gật đầu. Hắn gật đầu lần nữa, rồi nói, “Ổn thôi mà, không phải lo lắng gì cả. Bọn tôi biết là ngay bây giờ thì nó chẳng thắng được trò thi thố sắc đẹp nào sất. Nó chả phải Clark Gable. Nhưng cứ cho nó thời gian. Nếu có chút may mắn, mọi người ạ, nó sẽ lớn lên và trông giống ông già của nó đây.”
Đứa bé đứng trong lòng Olla, đảo quanh bàn nhìn chúng tôi. Olla đã chuyển tay xuống giữa mình nó để đứa bé có thể đu đưa lui tới trên đôi chân béo ú của nó. Không bàn cãi gì nữa, nó là đứa bé xấu xí nhất tôi từng thấy. Nó xấu đến nỗi tôi chẳng nói được lời nào. Không một lời nào thốt ra từ miệng tôi. Tôi không nói là nó có bệnh hay dị dạng gì. Không có gì giống thế cả. Nó chỉ xấu thôi. Nó có khuôn mặt to bự, đỏ lựng, mắt lồi, trán dô, hai cánh môi dày cộp. Nó chả có cái gì để gọi được là cổ cả, và nó có ba hay bốn cái cằm béo. Những cái cằm cuộn lên tận hai tai nó, và hai cái tai thì mọc ra từ cái đầu trọc lốc. Mỡ chảy xệ xuống từ cổ tay nó. Hai cánh tay và những ngón tay béo quay. Thậm chí nói nó xấu là còn nương nhẹ đấy.
Đứa bé xấu xí kêu lên và nhảy lên nhảy xuống trong lòng mẹ. Rồi nó ngừng nhảy. Nó ngả về phía trước và cố vươn bàn tay béo ị vào đĩa của Olla.
Tôi đã nhìn thấy nhiều đứa bé. Khi tôi lớn lên, hai chị gái tôi đã có tất cả sáu đứa con. Hồi nhỏ tôi sống gần trẻ con suốt. Tôi đã nhìn thấy em bé trong các cửa hàng và vân vân. Nhưng đứa bé này đánh bại tất cả. Fran cũng nhìn nó chằm chằm. Tôi đoán nàng cũng chẳng biết nói gì nữa.
“Cậu chàng to ra phết, nhỉ?” tôi nói.
Bud nói, “Nhờ Trời, chả mấy chốc nó sẽ bắt đầu chơi bóng bầu dục cho xem. Nó chắc chắn sẽ không đi đâu mà chưa ăn uống cho đủ ở cái nhà này.”
Như để chắc chắn về điều đó, Olla xiên dĩa của mình vào ít khoai lang rồi đưa lên miệng đứa bé. “Em là em bé của mẹ mà, phải không nào?” cô ta nói với cái thứ béo ị ấy, phớt lờ chúng tôi.
Đứa bé rướn người về phía trước và bắt đầu khoái món khoai lang. Nó với lấy cái dĩa của Olla khi cô ta lừa miếng khoai lang vào miệng nó, rồi ngoạm chặt lấy. Đứa bé nhai rồi đu đưa nhảy nhót một lúc trong lòng Olla. Mắt nó lồi quá, trông như thể đang cắm trên cái gì đó.
Fran nói, “Em bé thật đặc biệt đấy, Olla.”
Mặt thằng bé nhăn nhó. Nó lại bắt đầu cáu kỉnh nữa đây.
“Cho Joey vào đi,” Olla nói với Bud.
Bud hạ hai chân ghế trước xuống sàn. “Anh nghĩ ít nhất mình nên hỏi xem mọi người có phiền hay không đã,” Bud nói.
Olla nhìn Fran rồi nhìn tôi. Khuôn mặt cô ta lại đỏ lựng lên. Đứa bé cứ nhảy dựng lên trên lòng cô ta, oằn người đòi xuống.
“Bạn bè cả mà,” tôi nói. “Cứ làm gì hai người muốn thôi.”
Bud nói, “Có lẽ họ không thích có con chim già to như Joey vào nhà đâu. Em đã nghĩ đến chuyện đó chưa, Olla?”
“Hai người có phiền không?” Olla hỏi chúng tôi. “Nếu Joey vào trong đây? Mọi thứ bị xáo trộn với con chim ấy tối nay. Cả với thằng bé nữa, tôi nghĩ vậy. Nó đã quen chuyện Joey vào nhà chơi với nó một lúc trước khi đi ngủ. Nếu không đêm nay chẳng đứa nào yên được đâu.”
“Đừng hỏi chúng tôi,” Fran nói. “Tôi không phiền gì chuyện cho nó vào đâu. Tôi chưa bao giờ ở thật gần con công nào. Nhưng tôi không phiền gì.” Nàng nhìn tôi. Tôi có thể nói ngay là nàng muốn tôi nói gì đó.
“Trời ạ, không đâu,” tôi nói. “Cho nó vào đi.” Tôi cầm cốc sữa lên uống sạch.
Bud đứng dậy. Hắn đi ra cửa trước và mở cửa. Hắn bật đèn vườn.
“Thằng bé tên gì thế?” Fran muốn biết.
“Harold,” Olla nói. Cô ta cho Harold ăn thêm ít khoai lang trong đĩa của mình. “Nó khôn lắm. Thông minh cực kỳ. Luôn hiểu rõ người ta đang nói gì với nó. Phải không nào, Harold? Chị cứ đợi đến lúc có em bé mà xem, Fran ạ. Chị sẽ thấy ngay.”
Fran vẫn nhìn cô ta. Tôi nghe tiếng cửa trước mở ra rồi đóng lại.
“Nó khôn, đúng thế,” Bud nói khi trở vào trong bếp. “Nó giống bố của Olla. Đó thực là một lão già khôn lanh.”
Tôi nhìn vòng ra phía sau Bud và thấy con công đang tha thẩn ở phòng khách, quay đầu nhìn hướng nọ hướng kia, như kiểu người ta hay soi gương cầm tay. Nó lắc mình, và tiếng động nghe như có ai đang xóc bài ở phòng bên cạnh.
Nó bước tới một bước. Rồi một bước nữa.
“Cho tôi bế thằng bé được không?” Fran nói. Nàng nói cứ như thể Olla mà đồng ý thì diễm phúc lắm vậy.
Olla đưa đứa bé qua bàn cho nàng.
Fran gắng giữ cho đứa bé ngay ngắn trong lòng. Nhưng nó bắt đầu nhoài người ra và kêu ọ ẹ.
“Harold,” Fran nói.
Olla nhìn Fran với đứa bé. Cô ta nói, “Khi ông ngoại Harold mới mười sáu tuổi, ông bắt đầu kế hoạch đọc bách khoa toàn thư từ A đến Z. Ông đã làm được đấy. Ông hoàn thành kế hoạch vào năm hai mươi tuổi. Chỉ vừa trước khi ông gặp mẹ tôi.”
“Giờ ông ở đâu?” tôi hỏi. “Ông ấy làm gì?” Tôi muốn biết người đàn ông từng đặt ra cho mình một mục tiêu như thế rốt cuộc đã trở thành người thế nào.
“Ông ấy mất rồi,” Olla nói. Cô ta đang nhìn Fran, lúc này, nàng đã đặt đứa bé nằm xuống ngang đầu gối mình. Fran chạm vào một trong mấy cái cằm của đứa bé. Nàng bắt đầu nựng nó.
“Ông làm việc trong rừng,” Bud nói. “Dân đốn gỗ đã làm đổ một cái cây lên người ông.”
“Mẹ tôi có ít tiền bảo hiểm,” Olla nói. “Nhưng bà đã tiêu sạch. Hằng tháng Bud vẫn gửi ít tiền cho bà.”
“Chẳng nhiều nhặn gì,” Bud nói. “Bọn tôi cũng chả có bao nhiêu. Nhưng bà là mẹ Olla.”
Lúc này, con công đã tập trung đủ can đảm mà bắt đầu bước chầm chậm, với cái kiểu hơi đu đưa và giật cục, vào trong bếp. Cái đầu nó thẳng đuột nhưng nghiêng nghiêng, đôi mắt đỏ nhìn như dính chặt vào chúng tôi. Chòm lông mào, một cụm lông nho nhỏ, dựng cao vài inch* trên đầu. Lông vũ mọc từ đuôi nó.
•
1 inch = 2,54 cm.
Con chim dừng cách cái bàn vài feet* và nhìn quanh chúng tôi.
•
số nhiều của foot; 1 foot = 30,48 cm.
“Chẳng phải khi không mà người ta gọi nó là loài chim thiên đuờng,” Bud nói.
Fran không ngẩng lên. Nàng đang hoàn toàn chú ý vào đứa bé. Nàng bắt đầu chơi trò đập tay với nó, khiến đứa bé khá thích thú. Ý tôi là, ít nhất thì cái giống ấy cũng ngừng làu nhàu cáu kỉnh. Nàng bế nó lên cao ngang cổ mình và thì thầm gì đó vào tai nó.
“Rồi,” nàng nói, “đừng có nói với ai chuyện cô vừa nói nhé.”
Đứa bé nhìn nàng chằm chằm bằng đôi mắt lồi. Rồi nó vươn bàn tay ra nắm lấy đầy một nắm tóc của Fran. Con công buớc lại gần bàn. Chẳng ai trong chúng tôi nói năng gì. Chúng tôi chỉ ngồi im. Harold nhìn thấy con chim. Nó thả tóc Fran ra và đứng thẳng trên lòng nàng. Nó chỉ mấy ngón tay béo vào con chim. Nó nhảy lên nhảy xuống và kêu ọ ẹ.
Con công nhanh chóng bước vòng quanh bàn tới chỗ đứa bé. Nó đưa cái cổ dài luồn vào giữa hai chân đứa bé cọ qua cọ lại. Nó hẩy cái mỏ vào dưới cái áo ngủ đứa bé và gật gù cái đầu thẳng cứng. Đứa bé cười phá lên và đá đá chân. Ưỡn người, đứa bé trườn qua đầu gối Fran và tuột xuống sàn nhà. Con công vẫn đẩy đẩy đứa bé, như thể đó là một trò chơi của cả hai. Fran lấy cả hai chân giữ đứa bé còn nó thì cứ cố với về phía trước.
“Tôi thật không thể tin được,” nàng nói.
“Con công ấy điên quá chứ sao nữa,” Bud nói. “Con chim quỷ quái ấy không biết rằng mình là một con chim, đấy là vấn đề lớn nhất của nó.”
Olla cười tươi và lại khoe ra hàm răng. Cô ta nhìn sang Bud. Bud đẩy ghế mình ra và gật đầu.
Đấy đúng là một đứa bé xấu xí. Nhưng, theo những gì tôi được biết, chuyện đó chẳng quan trọng gì mấy với Bud và Olla. Hay nếu có, thì có lẽ họ nghĩ đơn giản rằng, ừ thì nó xấu. Đó là con mình. Và đó cũng chỉ là một giai đoạn thôi. Rất sớm thôi sẽ lại có giai đoạn khác nữa. Có giai đoạn này thì rồi sẽ có giai đoạn tiếp theo, về lâu về dài thì mọi chuyện sẽ ổn thỏa cả, một khi mọi giai đoạn đã trôi qua. Chắc họ đã nghĩ gì đó tương tự.
Bud bế đứa bé và đu nó lên cao trên đầu hắn cho đến khi Harold hét um lên. Con công xù lông ra đứng nhìn.
Fran lại lắc đầu. Nàng vuốt phẳng phần váy lúc nãy bị thằng bé đứng lên. Olla cầm cái dĩa lên ăn nốt ít đậu lima còn lại trên đĩa của mình.
Bud chuyển đứa bé sang hông và nói, “Còn có bánh nướng và cà phê nữa nhé.”
Buổi tối đó ở nhà Bud và Olla thật đặc biệt. Tôi biết là nó đặc biệt. Tối đó tôi thấy hài lòng về hầu hết mọi thứ trong đời mình. Tôi không chờ nổi cho đến lúc được một mình với Fran để nói với nàng những gì tôi cảm nhận. Tôi đã ước một điều ước tối đó. Ngồi bên bàn ăn, tôi nhắm mắt lại một phút mà nghĩ thật lung. Tôi ước sẽ không bao giờ quên hay nhãng đi buổi tối đó. Đó là điều ước duy nhất trở thành sự thật của tôi. Và thật không may cho tôi vì nó đã như thế. Nhưng, dĩ nhiên, lúc ấy tôi chẳng biết được điều đó.
“Ông đang nghĩ gì thế, Jack?” Bud hỏi tôi.
“Tôi chỉ đang nghĩ ngợi thôi,” tôi đáp. Tôi cười với hắn.
“Một xu nhé*,” Olla nói.
•
Nguyên văn, thành ngữ “a penny for your thoughts”, được dùng khi một người muốn biết người kia đang nghĩ gì.
Tôi chỉ cười thêm chút nữa và lắc đầu.
Đêm đó, từ nhà Bud và Olla về, khi chúng tôi đã chui vào chăn, Fran nói, “Anh yêu, cho em ngập tràn hạt giống của anh đi!” Khi nàng nói thế, tôi lắng nghe rừng rực chạy suốt xuống tận từng ngón chân mình, và tôi gầm lên mặc cho bản năng điều khiển.
Về sau, khi mọi chuyện đã thay đổi đối với chúng tôi, và đứa trẻ ra đời, tất cả những chuyện đó, Fran thường nhìn lại buổi tối ở chỗ Bud như khởi đầu của sự thay đổi ấy. Nhưng nàng nhầm. Sự thay đổi tới sau đó - và khi nó tới, nó giống như một chuyện xảy ra với ai khác, chứ không phải chuyện có thể xảy ra với chúng tôi.
“Quỷ tha ma bắt mấy người ấy với cái đứa bé xấu xí của họ đi,” Fran sẽ nói thế, chẳng vì lý do gì cụ thể, khi chúng tôi đang xem ti vi vào tối muộn. “Rồi cái con chim bốc mùi ấy nữa,” nàng sẽ nói thế. “Lạy Chúa tôi, ai cần đến nó cơ chứ!” Fran sẽ nói vậy. Nàng nói rất nhiều những chuyện như thế, cho dù nàng đã không gặp Bud và Olla kể từ cái lần ấy.
Fran không làm ở xưởng bơ sữa nữa, và nàng đã cắt tóc từ lâu rồi. Nàng cũng phát phì. Chúng tôi không nói về chuyện đó. Có gì mà nói chứ?
Tôi vẫn gặp Bud ở nhà máy. Chúng tôi làm cùng nhau và chúng tôi mở cặp lồng cơm trưa cùng nhau. Nếu tôi có hỏi thì hắn kể cho tôi nghe về Olla và Harold. Joey không còn được nhắc đến nữa. Một đêm nọ, nó bay lên cái cây của mình và thế là xong chuyện của nó. Nó không xuống nữa. Tuổi già, chắc vậy, Bud nói. Rồi những con cú thế chỗ nó. Bud nhún vai. Hắn ăn bánh mì kẹp và bảo một ngày nào đó Harold sẽ trở thành một tay hậu vệ bóng bầu dục. “Ông phải gặp thằng bé mới được,” Bud nói. Tôi gật đầu. Chúng tôi vẫn là bạn. Điều đó chẳng thay đổi tí nào. Nhưng tôi đã trở nên cẩn trọng trong lời nói với hắn. Tôi biết hắn cũng cảm thấy điều đó và mong rằng chuyện có thể khác đi. Tôi cũng mong như vậy.
Năm thì mười họa, hắn hỏi về gia đình tôi.
Khi đó, tôi nói với hắn rằng mọi người vẫn khỏe. “Mọi người đều ổn cả,” tôi nói. Tôi đóng cặp lồng và lấy thuốc lá ra. Bud gật đầu và nhấp cà phê. Sự thật là, thằng bé nhà tôi có cái thói quỷ quyệt trong máu. Nhưng tôi không nói về chuyện đó. Với mẹ nó cũng không. Đặc biệt là mẹ nó. Nàng và tôi càng ngày càng ít nói chuyện. Hầu như chỉ có tiếng ti vi. Nhưng tôi nhớ buổi tối ấy. Tôi nhớ lại cái cách con công nhấc đôi chân xám xịt của nó lên và nhón nhén đi quanh bàn. Và rồi bạn tôi cùng vợ hắn đứng nơi hàng hiên trước nhà chúc chúng tôi ngủ ngon. Olla đưa cho Fran mấy cái lông công để cầm về. Tôi nhớ tất cả chúng tôi đã bắt tay, ôm nhau, nói nhiều điều. Trên ô tô, Fran ngồi sát vào tôi khi tôi lái xe đi. Nàng cứ để tay trên chân tôi. Chúng tôi đã lái xe từ nhà bạn tôi về như thế.