cơn sốt
CARLYLE đang lâm vào cảnh khó khăn. Anh đã rơi vào cảnh khó khăn suốt cả mùa hè, kể từ đầu tháng Sáu khi vợ anh bỏ đi. Nhưng mãi tới gần đây, chỉ vài ngày trước khi phải bắt đầu dạy các lớp của mình ở trường trung học, Carlyle mới cần đến một người trông trẻ. Anh vẫn làm người trông trẻ bấy lâu nay. Mỗi ngày mỗi đêm anh đều trông nom đến lũ trẻ. Anh bảo chúng rằng mẹ chúng chỉ đang đi một chuyến dài ngày.
Debbie, người trông trẻ đầu tiên mà anh liên lạc, là một con bé béo, mười chín tuổi, nó bảo Carlyle rằng nó vốn ở trong một gia đình đông đúc. Trẻ con yêu mến nó, nó nói thế. Nó đưa ra tên hai người giới thiệu. Nó viết chúng bằng bút chì lên một tờ giấy vở học sinh. Carlyle cầm lấy mảnh giấy, gấp lại bỏ vào túi áo. Anh nói ngày hôm sau anh phải đi dạy. Anh nói nó có thể bắt đầu làm việc từ sáng hôm sau. Nó nói, “Được. “
Anh hiểu rằng cuộc đời anh đang bước vào một giai đoạn mới. Eileen đã bỏ đi khi Carlyle vẫn còn đang lên điểm. Cô nói mình sẽ đến Nam California để bắt đầu một cuộc đời mới. Cô đi với Richard Hoopes, đồng nghiệp của Carlyle ở trường. Hoopes là giáo viên dạy môn kịch kiêm người hướng dẫn môn thổi thủy tinh, hẳn là hắn đã vào điểm đúng hạn, gói ghém đồ đạc, và vội vã rời thị trấn cùng Eileen. Giờ đây, khi cái mùa hè đau khổ đằng đẵng đã gần ở lại phía sau anh, và các lớp học sắp bắt đầu trở lại, cuối cùng Carlyle cũng đã tập trung vào việc tìm người trông trẻ. Những cố gắng đầu tiên của anh không thành công. Trong nỗi tuyệt vọng tìm người - bất kỳ người nào - anh đã nhận Debbie.
Ban đầu, anh còn thấy may mắn vì nó đã đến gặp sau cuộc gọi của anh. Anh đã giao lại ngôi nhà và lũ trẻ cho nó như thể nó là người thân thích. Vì vậy anh chẳng còn ai khác để mà đổ lỗi ngoài bản thân mình, sự cẩu thả của chính mình, anh tin chắc là thế, khi anh về nhà sớm một ngày nọ trong tuần đầu tiên, cho xe vào lối đi và thấy ngay bên cạnh một cái xe có đôi xúc xắc bằng vải bông mềm to tướng treo lủng lẳng trên gương chiếu hậu. Ngỡ ngàng hết sức, anh trông thấy lũ trẻ ngoài vườn đằng trước nhà, quần áo bẩn thỉu, đang chơi với một con chó đủ to để có thể ngoạm đứt bàn tay chúng. Con trai anh, Keith, đang bị nấc và đã khóc không biết từ bao giờ. Sarah, con gái anh, òa khóc khi thấy anh ra khỏi xe. Chúng đang ngồi trên cỏ, còn con chó thì đang liếm tay và mặt chúng. Con chó gầm gừ khi thấy anh rồi lùi ra một chút khi Carlyle tiến về phía lũ trẻ. Anh bế Keith rồi bế Sarah lên. Mỗi đứa một bên tay, anh đi về phía cửa chính. Bên trong nhà, cái máy hát đang bị vặn to hết cỡ tới mức các cửa sổ kính phía trước rung lên.
Trong phòng khách, ba thằng choai choai nhảy dựng lên khỏi chỗ đang ngồi xung quanh cái bàn nước. Những chai bia nằm trên bàn và thuốc lá cháy dở trong gạt tàn. Rod Steward gào thét từ dàn âm thanh. Trên ghế xô pha, Debbie, con bé béo, ngồi với một thằng choai choai khác. Khi anh bước vào phòng khách, nó sững sờ trân trối nhìn Carlyle như không thể tin vào mắt mình. Áo con bé béo đã mở hết khuy. Nó ngồi gập chân xuống dưới mông và đang hút thuốc lá. Phòng khách ngập khói thuốc và nhạc. Con bé béo và bạn nó vội vàng đứng dậy.
“Ông Carlyle, từ từ đã,” Debbie nói. “Tôi có thể giải thích.”
“Đừng giải thích,” Carlyle nói. “Cuốn xéo ngay khỏi đây. Tất cả các cô cậu. Trước khi tôi tống cổ hết ra.” Anh ôm chặt lũ trẻ hơn nữa.
“Ông còn nợ tôi bốn ngày công,” con bé béo nói trong khi cố cài lại khuy áo, tay vẫn kẹp điếu thuốc. Tàn thuốc rơi khỏi điếu khi nó cố cài lại áo. “Cho qua ngày hôm nay. Ông không nợ tôi ngày hôm nay. Mà ông Carlyle, chuyện không phải như những gì ông thấy đâu. Họ chỉ tạt qua để nghe đĩa hát này thôi.”
“Tôi hiểu, Debbie,” anh nói. Anh thả lũ trẻ xuống thảm. Nhưng chúng bám lấy chân anh và nhìn những kẻ kia trong phòng khách. Debbie nhìn chúng và chầm chậm lắc đầu, như thể nó chưa hề trông thấy chúng bao giờ. “Mẹ kiếp, biến ngay!” Carlyle quát. “Nào. Cút xéo đi. Cả lũ chúng mày.”
Anh bước tới mở cửa chính. Lũ con trai làm như thể chúng chẳng có gì phải vội. Chúng nhặt lấy bia của mình và thong thả đi ra cửa. Đĩa Rod Steward vẫn đang chạy. Một đứa nói, “Đấy là đĩa hát của tôi.”
“Thì lấy đi,” Carlyle nói. Anh bước một bước về phía thằng nhóc và dừng lại.
“Đừng có chạm vào tôi, được chứ? Đừng có mà chạm vào tôi,” thằng nhóc nói. Nó bước ra chỗ cái máy hát, nhấc tay máy lên lẳng ra sau, và lấy cái đĩa hát ra trong khi bàn máy vẫn đang quay.
Bàn tay Carlyle run lên. “Nếu cái xe kia không biến khỏi lối đi trong vòng một phút - một phút thôi - tao sẽ gọi cảnh sát.” Anh thấy như phát ốm lên và chóng cả mặt vì giận dữ. Anh nhìn thấy, đúng là đang thấy, những đốm đom đóm nhảy múa trước mắt mình.
“Ê, nghe này, bọn tôi đang đi, được chứ? Bọn tôi đang đi ra đây,” thằng nhóc nói.
Chúng nối đuôi nhau ra khỏi nhà. Bên ngoài, con bé béo hơi loạng choạng. Nó lảo đảo đi ra chỗ cái xe. Carlyle nhìn thấy nó dừng lại đưa hai tay bưng mặt. Nó đứng đó giữa lối đi khoảng một phút. Rồi một đứa con trai xô nó từ phía sau và kêu tên nó. Nó bỏ tay xuống và leo lên ghế sau xe.
“Bố sẽ kiếm quần áo sạch cho các con,” Carlyle nói với lũ trẻ, cố giữ giọng bình tĩnh. “Bố sẽ tắm cho các con, rồi mặc quần áo sạch cho các con. Rồi mình ra ngoài ăn pizza. Pizza nghe cũng được chứ hả?”
“Debbie đâu?” Sarah hỏi anh.
“Cô ta đi rồi,” Carlyle trả lời.
TỐI hôm ấy, sau khi cho lũ trẻ đi ngủ, anh gọi cho Carol, người phụ nữ cùng làm ở trường mà anh đã bắt đầu hẹn hò từ một tháng nay. Anh kể cho cô biết chuyện xảy ra với người trông trẻ của anh.
“Lũ trẻ nhà anh đang ở ngoài vườn trước với một con chó to,” anh kể. “Con chó to bằng con sói. Con bé trông trẻ thì ở trong nhà với một lũ bạn trai đầu đường xó chợ. Bọn chúng mở Rod Steward ầm ĩ, và say sưa uống bia với nhau trong khi lũ trẻ nhà anh thì ở bên ngoài chơi với cái con chó lạ ấy.” Anh đưa mấy ngón tay lên thái dương và giữ nguyên ở đó trong lúc nói chuyện.
“Chúa ơi,” Carol nói. “Tội nghiệp anh yêu. Em thật lấy làm tiếc.” Giọng cô nghe không rõ lắm. Anh hình dung ra cô đang để ống nói trượt xuống cằm, như cô vẫn hay làm trong khi nói chuyện điện thoại. Anh đã trông thấy cô làm thế trước đây. Đấy là một thói quen của cô mà anh thấy hơi khó chịu. Anh có muốn cô đến chỗ anh không? cô hỏi. Cô sẽ đến nếu anh muốn. Cô nghĩ có lẽ cô nên làm thế. Cô sẽ gọi người trông trẻ của cô. Rồi cô sẽ lái xe đến chỗ anh. Cô muốn thế. Anh không nên ngại nói ra mỗi khi cần được quan tâm chăm sóc, cô nói. Carol là một trong số các thư ký ở văn phòng hiệu trưởng trường trung học nơi Carlyle dạy môn mỹ thuật. Cô đã ly dị và có một đứa con, một đứa trẻ mười tuổi bị bệnh thần kinh mà cha nó đặt tên là Dodge, theo tên cái xe yêu thích của anh ta.
“Không, không sao đâu,” Carlyle nói. “Nhưng cảm ơn em. Cảm ơn em, Carol. Lũ trẻ đã đi ngủ, nhưng anh nghĩ anh sẽ cảm thấy hơi kỳ, em biết đấy, nếu em đến ở cùng anh tối nay.”
Cô không hỏi thêm lần nữa. “Anh yêu, em lấy làm tiếc về chuyện xảy ra. Nhưng em hiểu anh muốn ở một mình tối nay. Em tôn trọng điều đó. Em sẽ gặp anh ở trường ngày mai.”
Anh có thể nghe thấy cô đang chờ đợi anh nói thêm gì đó. “Thế là hai người trông trẻ trong vòng không đầy một tuần,” anh nói. “Anh đến phát điên lên vì chuyện này mất.”
“Anh yêu, đừng để nó làm anh suy sụp,” cô nói. “Rồi có điều gì đó sẽ đến. Em sẽ giúp anh tìm ai đó cuối tuần này. Sẽ ổn cả thôi, rồi anh sẽ thấy.”
“Cảm ơn em lần nữa đã ở bên khi anh cần,” anh nói. “Em đúng là có một không hai, em biết chứ.”
“Ngủ ngon nhé, Carlyle,” cô nói.
Sau khi gác máy, anh ước giá như mình nghĩ ra cái gì đó khác để nói với cô thay vì điều vừa nói. Cả đời anh chưa bao giờ nói năng như thế. Họ không yêu đương gì, anh chẳng muốn gọi nó như thế, nhưng anh thích cô. Cô biết đây là khoảng thời gian khó khăn của anh, và cô không đòi hỏi gì cả.
Sau khi Eileen bỏ đi California, trong suốt tháng đầu tiên Carlyle đã dành mọi phút không ngủ cho lũ trẻ. Anh cho là cơn sốc trước việc cô bỏ đi đã gây ra điều này, nhưng anh không muốn để lũ trẻ ra khỏi tầm mắt mình. Anh rõ ràng chẳng có hứng thú gặp gỡ những phụ nữ khác, và có một thời gian anh nghĩ mình sẽ không bao giờ như thế được. Anh cảm giác như thể mình đang trong thời kỳ để tang cho cuộc hôn nhân đã qua. Cả ngày lẫn đêm lũ trẻ luôn bên cạnh anh. Anh nấu cho chúng - bản thân anh chẳng muốn ăn uống gì - giặt giũ và là quần áo của chúng, lái xe đưa chúng về vùng nông thôn, đến đó chúng hái hoa và ăn bánh kẹp gói trong giấy sáp. Anh đưa chúng đi chợ và cho chúng chọn mua thứ chúng thích. Và cứ vài ngày ba bố con lại đi công viên, không thì thư viện, hoặc sở thú. Ba bố con đem bánh mì cũ đến sở thú để cho vịt ăn. Đêm, trước khi cho chúng vào chăn ấm, Carlyle đọc truyện cho chúng nghe - truyện Ê-dốp, truyện An-đéc-xen, truyện cổ Grim.
“Khi nào mẹ về?” Một đứa có thể sẽ hỏi anh giữa chừng một câu chuyện cổ tích.
“Sớm thôi,” anh sẽ nói vậy. “Một ngày nào đó. Nào nghe này.” Rồi anh đọc cho hết truyện, hôn chúng, và tắt đèn.
Và trong lúc chúng ngủ, anh lang thang khắp các phòng trong nhà với một ly rượu trên tay, tự nhủ rằng, phải, sớm muộn gì Eileen cũng sẽ quay lại. Nhưng chỉ một hơi thở sau anh lại nói, “Tôi không bao giờ muốn thấy mặt cô nữa. Tôi sẽ không bao giờ tha thứ cho cô chuyện này, đồ đàn bà rồ dại.” Rồi, một phút sau, lại, “Về đi, em yêu, anh xin em đấy. Anh yêu em và cần em. Lũ trẻ cũng cần em.” Có mấy đêm trong mùa hè ấy anh đã ngủ thiếp đi trước ti vi rồi tỉnh dậy khi máy vẫn bật và màn hình thì chỉ còn toàn tuyết trắng. Đó là lúc anh nghĩ phải rất lâu nữa, nếu có bao giờ, thì anh mới hẹn hò được với phụ nữ. Đêm, ngồi trước ti vi với một cuốn sách chưa mở hay một cuốn tạp chí đặt cạnh trên xô pha, anh thường nghĩ về Eileen. Mỗi khi như thế, anh nhớ tiếng cười ngọt ngào của cô, hay là nhớ bàn tay cô xoa trên cổ anh khi anh kêu đau ở đó. Những lúc như vậy anh nghĩ mình có thể khóc lên được. Anh nghĩ, Ngươi lại cứ nghe những chuyện thế này xảy ra với kẻ khác cơ.
Ngay trước khi vụ Debbie xảy ra, khi một phần cơn sốc và đau buồn đã nguôi bớt, anh gọi đến một trung tâm dịch vụ việc làm để cho họ biết về tình hình và những yêu cầu của anh. Có người ghi lại những thông tin ấy và nói rằng họ sẽ liên lạc lại với anh. Không có nhiều người muốn làm việc nhà kiêm cả trông trẻ đâu, họ bảo thế, nhưng họ sẽ tìm được ai đó. Vài ngày trước khi phải có mặt ở trường trung học để họp và đăng ký lớp dạy, anh gọi lại và được cho biết là sáng sớm hôm sau sẽ có người đến nhà anh. Đó là một bà ba mươi lăm tuổi với hai cánh tay lông lá và đôi giày cũ nát. Bà ta bắt tay anh và nghe anh nói mà không hỏi một câu nào về lũ trẻ - thậm chí không hỏi tên chúng. Khi anh đưa bà ta ra sau nhà nơi lũ trẻ đang chơi, bà ta chỉ nhìn chúng chằm chằm một phút liền mà chẳng nói năng gì. Rốt cuộc, khi bà ta cũng mở miệng cười, lần đầu tiên Carlyle nhận ra rằng bà ta thiếu mất một cái răng. Sarah bỏ chỗ sáp màu đứng dậy đi đến đứng bên cạnh anh. Con bé cầm lấy tay anh và nhìn bà ta chăm chú, Keith cũng chăm chú nhìn bà ta. Rồi thằng bé quay lại tô màu. Carlyle cảm ơn bà ta đã bỏ thời gian đến và nói anh sẽ liên lạc lại.
Chiều hôm ấy anh nhặt lấy một số điện thoại từ một tấm giấy nhớ gắn trên cái bảng thông báo vặt ở siêu thị. Có người quảng cáo nhận trông trẻ. Thông tin về người giới thiệu sẽ được cung cấp theo yêu cầu. Carlyle gọi đến số đó và gặp Debbie, con bé béo ấy.
SUỐT mùa hè ấy, Eileen có gửi vài tấm thiệp, thư và ảnh của mình cho lũ trẻ, một vài bức tự họa bằng chì và mực mà chính cô đã vẽ kể từ khi ra đi. Cô còn gửi cho Carlyle những lá thư dài dòng những mong anh thông cảm cho vấn đề này - vấn đề này - nhưng lại bảo anh rằng cô hạnh phúc. Hạnh phúc. Cứ như thể hạnh phúc là thứ duy nhất trên đời, Carlyle nghĩ. Cô nói với anh rằng nếu anh thực sự yêu cô, như anh nói, và như cô thật sự tin - cô cũng yêu anh, đừng quên điều đó - thì anh sẽ hiểu và chấp nhận mọi chuyện như nó vốn thế. Cô viết, “Điều gì thực sự gắn kết sẽ không bao giờ tách rời được.” Carlyle không hiểu cô đang nói về mối quan hệ của họ hay cuộc sống đang diễn ra ở California của cô. Anh ghét cái từ gắn kết. Nó liên quan gì đến hai người chứ? Cô nghĩ họ là một tập thể hợp tác hay sao? Anh nghĩ Eileen hẳn đã mất trí thì mới nói năng cái kiểu ấy. Anh đọc lại đoạn đó rồi vò nát lá thư.
Nhưng một vài giờ sau anh lấy lá thư ra khỏi cái thùng rác anh đã vứt vào, đem bỏ nó cùng những thiệp và thư khác của cô vào trong một chiếc hộp trên giá trong phòng xép của anh. Trong một chiếc phong bì có tấm ảnh chụp cô đang đội một chiếc mũ to, mềm và mặc đồ tắm. Và có một bức vẽ chì trên nền giấy cứng, một phụ nữ trên bờ đê mặc một bộ váy thụng mỏng mảnh, hai bàn tay cô che lấy mắt, hai vai so lại. Carlyle đoán đó là Eileen đang bày tỏ nỗi đau của mình trước chuyện này. Ở trường đại học, cô đã học chuyên ngành vẽ, và mặc dù đồng ý lấy anh, cô vẫn bảo cô dự định sẽ làm gì đó với năng khiếu của mình.
Carlyle bảo anh không có phản đối gì cả. Cô nợ điều đó với chính mình thôi, anh nói. Cô nợ điều đó với cả hai người. Ngày ấy họ yêu nhau. Anh biết chắc như vậy. Anh không thể tưởng tượng có bao giờ mình còn yêu được ai đó như anh đã yêu cô. Và anh cũng cảm thấy được yêu. Rồi, sau tám năm làm vợ anh, Eileen đã bỏ cuộc. Cô sẽ, như cô nói trong lá thư, “theo đuổi điều đó”.
Sau khi nói chuyện với Carol, anh ghé vào nhìn lũ trẻ lúc này đang say ngủ. Rồi anh vào bếp pha một ly rượu. Anh nghĩ đến chuyện gọi cho Eileen để kể cho cô nghe về nỗi vô vọng tìm người trông trẻ, nhưng lại quyết định không làm thế. Anh có số điện thoại và địa chỉ của cô ngoài đó, tất nhiên. Nhưng anh mới chỉ gọi có một lần và, cho đến nay, chưa hề viết một lá thư nào. Điều đó một phần là bởi cái cảm giác hoang mang trước hoàn cảnh hiện tại, phần vì nỗi giận dữ và cảm giác bị xúc phạm. Một lần, hồi đầu hè, sau khi đã uống được vài ly, anh liều gạt sang bên cái cảm giác bị xúc phạm mà gọi. Richard Hoopes nhấc máy. Richard nói, “Chào Carlyle,” như thể hắn vẫn còn là bạn anh. Và rồi, như thể nhớ ra điều gì, hắn lại nói, “Chờ một phút nhé?”
Eileen nhận điện thoại và hỏi, “Carlyle, anh sao rồi? Lũ trẻ thế nào? Nói cho em nghe anh ra sao đi.” Anh trả lời cô rằng lũ trẻ vẫn ổn. Nhưng trước khi anh nói thêm được điều gì khác, cô ngắt lời anh và bảo, “Em biết là chúng ổn. Còn anh thì sao?” Rồi cô nói tiếp với anh rằng đầu óc cô, lần đầu tiên sau một thời gian dài, đã lại được bình yên. Tiếp đó cô muốn trò chuyện về tâm trí và số nghiệp của anh. Cô đã xem kỹ số nghiệp của anh rồi. Từ giờ nó sẽ được cải thiện vào bất cứ lúc nào, cô nói. Carlyle lắng nghe, gần như không tin nổi vào tai mình. Rồi anh nói, “Anh phải đi đây, Eileen.” Và anh gác máy. Điện thoại reo sau đó khoảng một phút, nhưng anh mặc kệ. Khi nó ngừng reo, anh nhấc ống nghe ra khỏi máy và cứ để thế cho đến khi chuẩn bị đi ngủ.
Giờ anh muốn gọi cho cô, nhưng anh ngại ngần. Anh vẫn nhớ cô và muốn chia sẻ với cô. Anh mong được nghe giọng cô - ngọt ngào, vững vàng, không kỳ quặc như mấy tháng gần đây - nhưng nếu anh quay số của cô, Richard Hoopes có thể sẽ nhấc máy. Carlyle biết anh không muốn nghe giọng gã đàn ông ấy lần nữa. Richard đã là đồng nghiệp ba năm rồi, và Carlyle cho rằng hắn cũng là một kiểu bạn bè, ít nhất hắn cũng là người Carlyle ăn trưa cùng trong phòng ăn giáo viên, là người nói chuyện về Tennessee Williams và những bức hình của Ansel Adams. Nhưng cho dù Eileen có nhấc máy, cô có thể lại sa vào chuyện số nghiệp của anh.
Trong khi anh đang ngồi đó với ly rượu trên tay, cố nhớ xem cảm giác có một người bạn đời và gần gũi với ai đó ra sao thì điện thoại đổ chuông. Anh nhấc máy, nghe thấy tiếng rột roạt trên đường dây, và biết, thậm chí trước khi cô gọi tên anh, rằng đó là Eileen.
“Anh vừa nghĩ đến em,” Carlyle nói, và ngay lập tức cảm thấy hối tiếc.
“Thấy chưa! Em biết là em đang ở trong tâm trí anh mà, Carlyle. Thì em cũng đang nghĩ đến anh đây. Vì thế nên em mới gọi.” Anh hít một hơi. Cô đang mất trí đây mà. Điều ấy thật quá rõ với anh. Cô vẫn tiếp tục nói. “Nào nghe này,” cô nói. “Lý do quan trọng khiến em gọi là vì em biết mọi chuyện đang rối tinh lên ở đó. Đừng hỏi làm sao em biết, nhưng em biết đấy. Em lấy làm tiếc, Carlyle. Nhưng thế này. Anh vẫn đang cần tìm một người trông nhà kiêm trông trẻ đáng tin cậy, đúng không? Thì bà ấy thật ra đang ở ngay trong khu đấy thôi! À, mà có thể anh đã tìm được ai đó rồi, và thế thì tốt quá, nếu đúng là thế. Nếu vậy thì chuyện cũng là đương nhiên thôi. Nhưng xem này, chỉ là trong trường hợp anh đang gặp khó khăn về chuyện ấy, thì có một người phụ nữ từng làm việc cho mẹ của Richard. Em đã kể với Richard về vấn đề có thể anh đang gặp phải, và tự anh ấy đã bỏ công tìm kiếm. Anh biết anh ấy đã làm gì không? Anh có đang nghe không đấy? Anh ấy gọi cho mẹ anh ấy, bà từng có một người phụ nữ nọ đến coi sóc nhà cửa cho. Người phụ nữ ấy tên là Webster. Bà ấy trông coi mọi thứ cho mẹ Richard trước khi dì và cô con gái bà dì Richard chuyển đến ở. Richard đã lấy được số điện thoại từ mẹ anh ấy. Hôm nay anh ấy đã nói chuyện với bà Webster. Richard đã làm thế đấy. Tối nay bà Webster sẽ gọi cho anh. Nếu không thì chắc là sáng mai. Không thế này thì thế kia. Dù sao thì thế này, bà ấy sẽ tình nguyện đến trông nom cho, nếu anh cần bà ấy. Anh có thể sẽ cần lắm chứ, chẳng biết trước được đâu. Thậm chí nếu như hoàn cảnh của anh lúc này đã ổn định, và đấy cũng là điều em mong. Nhưng lúc này lúc khác anh có thể sẽ cần đến bà ấy. Anh hiểu em nói chứ? Nếu không phải ngay giây phút này, thì có thể là lúc khác. Được chứ? Lũ trẻ thế nào? Chúng đang làm gì rồi?”
“Lũ trẻ ổn, Eileen. Chúng đang ngủ rồi,” anh nói. Có lẽ anh nên nói với cô rằng đêm nào chúng cũng khóc cho đến khi ngủ thiếp đi. Anh băn khoăn không biết có nên nói với cô sự thật - rằng chúng chưa hề hỏi đến cô dù chỉ một lần trong suốt hai tuần vừa rồi. Anh quyết định sẽ không nói gì.
“Lúc nãy em đã gọi anh, nhưng máy lại bận. Em bảo với Richard có khi anh đang nói chuyện với bạn gái,” Eileen nói và cười to. “Nghĩ đến nhũng điều tích cực đi chứ. Anh có vẻ rầu rĩ quá,” cô nói.
“Anh phải đi đây, Eileen.” Anh chuẩn bị gác máy, và anh giơ ống nghe ra khỏi tai. Nhưng cô vẫn đang nói.
“Nói với Keith và Sarah rằng em yêu chúng. Nói với chúng là em sẽ gửi thêm ảnh. Nói với chúng như vậy. Em không muốn chúng quên rằng mẹ chúng là một họa sĩ. Có thể chưa phải là họa sĩ lớn, điều đó không quan trọng. Nhưng, anh biết đấy, một họa sĩ. Điều quan trọng là chúng không nên quên điều đó.”
Carlyle nói, “Anh sẽ nói với chúng.”
“Richard gửi lời chào anh.”
Carlyle không nói gì. Anh nhắc lại cái từ ấy với mình - chào. Hắn có thể có ý gì cơ chứ? Rồi anh nói, “Cảm ơn em đã gọi. Cảm ơn vì đã nói chuyện với bà ấy.”
“Bà Webster!”
“Phải. Tốt nhất là anh nên gác máy. Anh không muốn tiêu hết chỗ tiền xu của em.”
Eileen cười phá lên. “Chỉ là tiền thôi mà. Tiền không quan trọng chỉ trừ việc nó là phương tiện trao đổi cần thiết. Có nhiều thứ quan trọng hơn tiền. Nhưng anh cũng đã biết điều đó rồi.”
Anh giơ ống nghe ra trước mặt. Anh nhìn cái vật đang phát ra giọng nói của cô.
“Carlyle, mọi chuyện đang tốt lên với anh. Em biết là như thế. Anh có thể nghĩ là em điên rồ hay sao đó,” cô nói. “Nhưng cứ nhớ vậy nhé.”
Nhớ cái gì? Carlyle giật mình băn khoăn, nghĩ rằng anh hẳn đã bỏ qua điều gì đó mà cô nói. Anh đưa cái ống nghe lại gần. “Eileen, cảm ơn vì đã gọi,” anh nói.
“Mình phải giữ liên lạc,” Eileen nói. “Mình phải đảm bảo gìn giữ mọi liên lạc. Em nghĩ điều tồi tệ nhất đã qua rồi. Đối với cả hai chúng ta. Em cũng đã đau khổ. Nhưng chúng ta sẽ đạt được điều lẽ ra phải có được từ cuộc đời này, cả hai ta, và trong tương lai chúng ta sẽ trở nên mạnh mẽ hơn vì nó.”
“Chúc ngủ ngon,” anh nói. Anh bỏ máy xuống. Rồi anh nhìn cái điện thoại. Anh đợi. Nó không đổ chuông nữa. Nhưng một giờ sau thì nó reo. Anh nhấc máy.
“Anh Carlyle.” Đó là giọng của một người phụ nữ lớn tuổi. “Anh không biết tôi, nhưng tôi là bà Jim Webster. Có người bảo tôi liên lạc với anh.”
“Bà Webster. Vâng,” anh nói. Lời Eileen kể về người phụ nữ này trở lại với anh. “Bà Webster, bà có thể đến nhà tôi vào sáng mai được không? Đến sớm. Tầm bảy giờ được không?”
“Việc đó thì dễ thôi,” người phụ nữ lớn tuổi trả lời. “Bảy giờ. Cho tôi địa chỉ nhà anh.”
“Tôi hy vọng có thể trông cậy cả vào bà,” Carlyle nói.
“Anh có thể trông cậy vào tôi,” bà ta nói.
“Tôi không thể giải thích được với bà việc này quan trọng đến thế nào đâu,” Carlyle nói.
“Anh không cần phải lo lắng gì cả,” người phụ nữ lớn tuổi nói.
SÁNG hôm sau, khi chuông đồng hồ báo thức kêu, anh vẫn muốn nhắm mắt và tiếp tục giấc mơ dang dở. Giấc mơ về một ngôi nhà trong nông trại. Ở đó còn cả một thác nước. Ai đó, anh chẳng biết là ai, đang đi bộ trên đường tay xách một vật gì. Có thể là cái giỏ mây đựng đồ picnic. Anh không có cảm giác khó chịu gì vì giấc mơ ấy. Trong giấc mơ dường như hiện hữu một cảm giác thư thái.
Cuối cùng, anh trở mình bấm một nút nào đó để tắt chuông báo thức. Anh nằm trên giường thêm lúc nữa. Rồi anh dậy, xỏ dép, vào bếp pha cà phê.
Anh cạo râu và thay đồ. Rồi anh ngồi bên bàn bếp với cà phê và một điếu thuốc lá. Lũ trẻ vẫn còn trên giường. Nhưng anh định chừng năm phút nữa sẽ bỏ các hộp đựng ngũ cốc lên bàn và bày bát tô cùng thìa, rồi vào đánh thức chúng dậy ăn sáng. Anh thật sự không thể tin rằng người phụ nữ lớn tuổi đã gọi cho anh tối qua sẽ đến vào sáng nay, như bà ta nói. Anh quyết định sẽ đợi đến bảy giờ năm phút, rồi anh sẽ gọi đến trường, xin nghỉ ngày hôm nay, và sẽ cố gắng hết sức kiếm một ai đó đáng tin cậy. Anh đưa cốc cà phê lên môi.
Đúng lúc ấy anh nghe tiếng máy xe trên phố. Anh bỏ cốc đấy đứng dậy đến bên cửa sổ nhìn ra. Một chiếc xe tải chở hàng nhỏ chạy sát vào vỉa hè trước nhà anh. Đầu xe rung lên khi máy tắt. Carlyle đi ra cửa trước, mở cửa và vẫy tay. Một phụ nữ lớn tuổi vẫy lại rồi mở cửa xe bước ra. Carlyle trông thấy người lái xe cúi xuống và biến mất dưới bảng đồng hồ xe. Cái xe thở hắt ra, lắc mình lần nữa, rồi đứng im.
“Anh Carlyle phải không?” người phụ nữ lớn tuổi gọi, khi bà ta chậm chạp bước lên lối đi vào nhà anh tay cầm chiếc túi xách lớn.
“Chào bà Webster,” anh nói. “Mời vào nhà. Có phải chồng bà đấy không? Mời ông ấy vào đi. Tôi mới pha cà phê.”
“Không sao đâu,” bà nói. “Ông ấy có bình cà phê ủ nóng rồi.”
Carlyle nhún vai. Anh giữ cửa cho bà. Bà bước vào trong và họ bắt tay. Bà Webster mỉm cười. Carlyle gật đầu. Họ đi vào trong bếp. “Vậy là anh cần tôi trông hôm nay?” bà hỏi.
“Để tôi gọi lũ trẻ dậy,” anh nói. “Tôi muốn chúng gặp bà trước khi tôi đến trường.”
“Thế thì tốt quá,” bà nói. Bà nhìn quanh căn bếp. Bà bỏ cái túi xách lên giá phơi bát đĩa.
“Tôi đi gọi lũ trẻ ngay nhỉ?” anh nói. “Chỉ một hai phút thôi.”
Trong chốc lát, anh dẫn lũ trẻ ra và giới thiệu chúng. Chúng vẫn đang mặc đồ ngủ. Sarah đang dụi mắt. Keith thì đã tỉnh như sáo. “Đây là Keith,” Carlyle nói. “Còn đây, đây là Sarah nhà tôi.” Anh nắm bàn tay Sarah và quay sang bà Webster. “Chúng cần một người nào đó, bà thấy đấy. Chúng tôi cần ai đó có thể trông cậy được. Hẳn đấy chính là rắc rối của chúng tôi.”
Bà Webster đi đến bên lũ trẻ. Bà cài khuy áo cổ cho Keith. Bà vén tóc khỏi khuôn mặt Sarah. Chúng để cho bà làm thế. “Giờ thì các cháu không phải lo lắng gì nữa rồi,” bà nói với chúng. “Anh Carlyle này, sẽ ổn cả thôi. Chúng tôi sẽ ổn thôi. Để một hai ngày cho chúng tôi làm quen với nhau, chỉ thế thôi. Nhưng nếu tôi ở lại đây, thì sao anh không ra báo mọi việc đều ổn cho ông Webster yên tâm nhỉ? Chỉ cần vẫy ông ấy qua cửa sổ thôi,” bà nói, rồi bà quay lại với lũ trẻ.
Carlyle bước tới bên khuôn cửa sổ lồi, kéo rèm. Một người đàn ông lớn tuổi đang ngồi nhìn ngôi nhà từ trong buồng lái. Ông chỉ vừa mới đưa cái cốc ủ nóng lên môi. Carlyle vẫy ông, và với bàn tay rảnh ông vẫy lại anh. Carlyle nhìn ông quay chốt hạ cửa sổ xe xuống và hắt thứ còn lại trong cốc ra ngoài. Rồi ông lại cúi xuống dưới cái bảng đồng hồ - Carlyle hình dung ông đang nối mấy sợi dây điện vào với nhau - và một phút sau chiếc xe nổ máy và bắt đầu rung lên bần bật. Người đàn ông lớn tuổi vào số rồi đưa xe rời khỏi chỗ vỉa hè.
Carlyle quay lại từ chỗ cửa sổ. “Bà Webster,” anh nói, “tôi mừng là bà đã đến.”
“Tôi cũng vậy, anh Carlyle ạ,” bà nói. “Nào giờ thì anh chuẩn bị lo công chuyện mình đi thôi kẻo muộn. Đừng lo gì cả. Chúng tôi sẽ ổn cả thôi. Phải không nào, các cháu?”
Lũ trẻ gật đầu. Keith đưa một tay bám lấy váy bà. Thằng bé đút ngón cái tay kia vào miệng.
“Cảm ơn bà,” Carlyle nói. “Tôi cảm thấy, thật sự thấy yên lòng rồi một trăm phần trăm.” Anh lắc đầu và cười. Anh thấy một cảm giác dễ chịu trong ngực mình khi hôn tạm biệt từng đứa con. Anh cho bà Webster biết anh thường về đến nhà lúc mấy giờ, khoác áo, chào tạm biệt lần nữa và ra khỏi nhà. Lần đầu tiên trong nhiều tháng ròng, dường như anh cảm thấy gánh nặng đã được cất bớt đi một chút. Lái xe đến trường, anh nghe nhạc phát trên radio.
Trong suốt giờ lịch sử hội họa giai đoạn đầu, anh cứ nấn ná mãi với slide những bức họa thời Byzantine. Anh kiên nhẫn giải thích những sắc thái của từng chi tiết và mô tip. Anh chỉ ra sức mạnh cảm xúc và sự toàn vẹn của tác phẩm. Nhưng anh lại bỏ quá nhiều thời gian cố gắng định vị các họa sĩ vô danh vào trong bối cảnh xã hội của họ đến nỗi vài sinh viên bắt đầu cọ giày trên sàn, hoặc là hắng giọng. Cả lớp chỉ giải quyết xong được một phần ba chương trình bài học cho ngày hôm đó. Anh vẫn còn đang giảng khi chuông nghỉ reo.
Trong giờ dạy tiếp theo, môn vẽ màu nước, anh cảm thấy bình thản và sáng suốt lạ kỳ. “Thế này, thế này,” anh vừa nói vừa cầm tay chúng đưa đi. “Thật tinh tế. Như một luồng không khí trên tờ giấy. Chỉ điểm xuyết thôi. Như thế. Thấy không?” anh nói, và cảm thấy mình đang trên bờ cảnh giới khám phá chính mình. “Sự gợi mở là tất cả ý nghĩa của việc này,” anh nói, giữ nhẹ những ngón tay Sue Colvin trong khi dẫn dắt cây chổi của cô bé. “Em phải luyện với những lỗi của mình cho đến khi chúng có vẻ như chứa đựng dụng ý. Hiểu không?”
Khi xếp hàng ăn trưa trong phòng ăn giáo viên, Carol ở trước anh vài người. Cô trả tiền chỗ thức ăn của mình. Anh nôn nóng đợi người ta tính hóa đơn. Lúc anh đuổi kịp Carol thì cô đã đi hết nửa phòng. Anh luồn tay xuống dưới khuỷu tay cô và dẫn cô đi đến một bàn trống cạnh cửa sổ.
“Trời đất, Carlyle,” cô nói sau khi hai người đã ngồi xuống. Cô cầm ly trà đá của mình lên. Mặt cô đỏ bừng. “Anh không thấy bà Storr nhìn mình ra sao à? Anh làm sao thế? Tất cả mọi người sẽ biết mất.” Cô nhấp ít trà đá và đặt cái ly xuống.
“Kệ xác bà Storr,” Carlyle nói. “Này, để anh kể em nghe cái này. Em yêu, anh thấy khá hơn cả ngàn năm ánh sáng so với giờ này ngày hôm qua. Chúa ơi,” anh thốt lên.
“Chuyện gì xảy ra thế?” Carol hỏi. “Carlyle, kể em nghe đi.” Cô cho cốc hoa quả sang một bên khay và rắc pho mát lên mì spaghetti. Nhưng cô chẳng ăn gì. Cô chờ anh kể tiếp. “Kể cho em nghe chuyện đó đi.”
Anh kể cho cô nghe về bà Webster. Anh thậm chí còn kể cả về ông Webster. Chuyện ông ta phải nối dây điện thì cái xe mới nổ máy. Carlyle vừa ăn chỗ trân châu của mình vừa kể. Rồi anh ăn bánh mì nướng tỏi. Anh uống sạch chỗ trà đá của Carol rồi mới nhận ra mình đang làm thế.
“Anh điên rồi, Carlyle,” cô nói, hất hàm về cái đĩa spaghetti mà anh chưa hề động đến.
Anh lắc đầu. “Trời ơi, Carol. Trời ơi, anh thấy nhẹ nhõm, em hiểu không? Anh thấy dễ chịu hơn nhiều so với những gì anh đã cảm nhận suốt cả mùa hè qua.” Anh hạ giọng. “Tối nay qua nhà anh, nhé?”
Anh luồn tay xuống dưới gầm bàn đặt lên đầu gối cô. Cô lại đỏ mặt. Cô đưa mắt lên nhìn quanh phòng ăn. Nhưng không ai để ý đến họ. Cô nhanh chóng gật đầu. Rồi cô đưa tay mình xuống chạm vào tay anh.
Chiều hôm ấy anh về thấy nhà đã gọn gàng ngăn nắp và lũ trẻ đã mặc đồ sạch sẽ. Trong bếp, Keith và Sarah đang đứng trên ghế, giúp bà Webster làm bánh quy gừng. Tóc Sarah vén gọn khỏi mặt và được kẹp ra sau bằng một cái kẹp tóc.
“Bố!” lũ trẻ nhà anh kêu lên vui vẻ khi trông thấy anh.
“Keith, Sarah,” anh gọi. “Bà Webster, tôi...” Nhưng bà không để anh nói hết.
“Chúng tôi đã có một ngày rất ổn, anh Carlyle ạ,” bà Webster nói nhanh. Bà lau mấy ngón tay lên cái tạp dề đang mặc. Đấy là một cái tạp dề cũ với những cối xay gió màu xanh biển và nó từng là của Eileen. “Thật là hai đứa trẻ đáng yêu. Chúng đúng là những vật báu. Đúng là vật báu đấy.”
“Tôi chẳng biết nói gì.” Carlyle đứng bên giá bát nhìn Sarah nhào ít bột bánh. Anh ngửi thấy mùi gừng. Anh bỏ áo khoác ra và ngồi xuống bên bàn bếp. Anh nới lỏng cà vạt.
“Hôm nay là ngày làm-quen,” bà Webster nói. “Ngày mai chúng tôi sẽ có vài kế hoạch khác. Tôi nghĩ chúng tôi sẽ đi bộ ra công viên. Chúng tôi phải tận dụng thời tiết đẹp này mới được.”
“Ý kiến hay đấy,” Carlyle nói. “Hay đấy. Tốt. Rất tốt đấy, bà Webster.”
“Tôi sẽ cho xong chỗ bánh quy này vào trong lò, và lúc ấy thì ông Webster cũng sẽ đến thôi. Anh nói bốn giờ nhỉ? Tôi đã bảo ông ấy đến đón lúc bốn giờ.
Carlyle gật đầu, tim anh ngập tràn cảm xúc.
“Hôm nay anh có một cuộc điện thoại đấy,” bà vừa nói vừa mang cái âu trộn bột ra chỗ chậu rửa. “Chị Carlyle gọi.”
“Chị Carlyle ấy à,” anh nói. Anh đợi xem bà Webster sẽ nói gì tiếp theo, bất kỳ điều gì.
“Phải. Tôi tự giới thiệu mình, nhưng chị nhà không có vẻ ngạc nhiên khi thấy tôi ở đây. Chị ấy có nói vài lời với từng đứa trẻ.”
Carlyle liếc nhìn Keith và Sarah, nhưng chúng chẳng để ý. Chúng đang xếp bánh quy lên một tờ giấy nướng nữa.
Bà Webster tiếp tục. “Chị ấy để lại một lời nhắn. Để tôi xem nào, tôi đã ghi lại rồi, nhưng tôi nghĩ là tôi nhớ được. Chị ấy nói. 'Nhắn với anh ấy' - nghĩa là, nói với anh - 'cho đi cái gì, sẽ nhận lại cái đó.' Tôi nghĩ đúng là thế đấy. Chị ấy nói anh sẽ hiểu.”
Carlyle chăm chăm nhìn bà. Anh nghe tiếng xe của ông Webster bên ngoài.
“Là ông Webster đấy,” bà nói và bỏ cái tạp dề ra.
Carlyle gật đầu.
“Bảy giờ sáng mai nhỉ?” bà hỏi.
“Thế là tốt rồi,” anh nói. “Và xin cảm ơn bà lần nữa.”
Tối đó anh tắm cho từng đứa, mặc đồ ngủ cho chúng, và đọc truyện cho chúng nghe. Anh lắng nghe chúng cầu nguyện, đắp chăn cho chúng rồi tắt đèn. Đã gần chín giờ. Anh pha một ly rượu và xem ti vi cho đến khi anh nghe tiếng xe của Carol tiến vào lối đi.
Khoảng mười giờ, khi cả hai đang trên giường thì điện thoại đổ chuông. Anh chửi thề, nhưng anh không dậy nghe máy. Nó tiếp tục đổ chuông.
“Biết đâu nó quan trọng thì sao,” Carol nói và ngồi dậy. “Có thể là cô trông trẻ của em. Cô ấy có số điện thoại ở đây mà.”
“Vợ anh đấy,” Carlyle nói. “Anh biết là cô ấy mà. Cô ấy mất trí rồi. Cô ấy sắp điên. Anh không nghe máy đâu.”
“Dù gì thì em cũng sắp phải về rồi,” Carol nói. “Tối nay thật ngọt ngào, anh yêu.” Cô chạm lên mặt anh.
Đã là giữa học kỳ mùa thu. Bà Webster đã giúp anh được gần sáu tuần. Trong thời gian này, cuộc đời Carlyle đã trải qua một vài sự thay đổi. Thứ nhất là anh đã dần chấp nhận sự thật rằng Eileen đã đi và, theo như anh hiểu, cô không có ý định trở lại. Anh đã thôi không tưởng tượng rằng điều đó có thể thay đổi. Chỉ vào lúc đêm khuya, những đêm không có Carol, anh mới phải ước gì tình yêu dành cho Eileen còn sót lại sẽ tắt ngấm và cảm thấy day dứt tại sao tất cả những chuyện này lại xảy ra. Nhưng nhìn chung anh và lũ trẻ hạnh phúc; chúng hoạt bát hẳn lên dưới sự trông nom của bà Webster. Gần đây, bà đã có thói quen chuẩn bị bữa tối cho bố con anh và để sẵn trong lò, nóng ấm, cho đến khi anh từ trường về. Anh bước vào nhà là ngửi thấy mùi thơm ngon lành từ trong bếp và thấy Keith cùng Sarah đang giúp bày biện bàn ăn. Lúc này lúc khác anh lại hỏi bà Webster xem bà có thể làm thêm vào thứ Bảy được không. Bà đồng ý, miễn là bà không phải đến trước bữa trưa. Sáng thứ Bảy, bà bảo, bà có việc cần làm cho ông Webster và cho chính bà. Vào những ngày ấy, Carol thường để Dodge lại với lũ trẻ của Carlyle, tất cả chúng đều được bà Webster trông, rồi Carol và anh lái xe đến một nhà hàng ở vùng thôn quê ăn tối. Anh tin rằng cuộc đời mình lại đang bắt đầu. Mặc dù không nghe gì thêm từ Eileen kể từ cú điện thoại sáu tuần trước, anh thấy giờ đây mình có thể nghĩ về cô mà không cảm thấy giận dữ hoặc muốn khóc nữa.
Ở trường, lớp của anh chỉ vừa học qua giai đoạn Trung cổ và sắp sang thời kỳ Gothic. Thời Phục hưng thì vẫn còn phải một thời gian nữa, ít nhất cũng phải sau kỳ nghỉ Giáng sinh. Cũng trong chính thời gian này Carlyle bị ốm. Dường như chỉ qua một đêm, ngực anh đã thắt lại và đầu anh bắt đầu đau. Các khớp trong người anh tê cứng. Anh thấy chóng mặt khi đi lại. Cơn đau đầu trở nên tồi tệ. Sáng Chủ nhật anh thức dậy thì đầu lại đau nên anh nghĩ sẽ gọi bà Webster nhờ bà đến đưa lũ trẻ đi đâu đó. Chúng rất ngoan ngoãn với anh, mang cho anh nước quả và nước ngọt. Nhưng anh không thể trông nom bọn chúng. Vào buổi sáng ngày thứ hai bị ốm, anh chỉ đủ sức dậy gọi điện đến trường cáo ốm. Anh nói tên mình, trường, bộ môn và lý do ốm của mình cho người nhận điện. Rồi anh gợi ý Mel Fisher làm người dạy thay. Fisher là một người vẽ tranh sơn dầu trừu tượng ba hay bốn ngày mỗi tuần, mười sáu giờ một ngày, nhưng chẳng chịu bán hay thậm chí trưng bày tác phẩm của mình. Anh là bạn Carlyle. “Gọi Mel Fisher,” Carlyle nói với người phụ nữ ở đầu dây bên kia. “Fisher,” anh thì thào.
Anh khó nhọc trở lại giường, chui vào trong chăn và thiếp đi. Trong lúc ngủ, anh nghe thấy tiếng máy chiếc xe tải chở hàng nhỏ chạy bên ngoài, rồi tiếng gằn của nó khi tắt hẳn. Chốc lát sau anh nghe tiếng bà Webster bên ngoài phòng ngủ.
“Anh Carlyle?”
“Vâng, bà Webster.” Giọng anh nghe thật xa lạ với chính anh. Anh vẫn nhắm mắt. “Hôm nay tôi bị ốm. Tôi đã gọi đến trường. Hôm nay tôi sẽ phải nằm trên giường thôi.”
“Tôi hiểu. Vậy đừng lo nghĩ gì cả,” bà nói. “Tôi sẽ trông nom mọi việc ở đây.”
Anh nhắm nghiền mắt. Ngay sau đó, vẫn trong tình trạng nửa thức nửa ngủ, anh nghĩ mình đã nghe thấy cửa trước nhà mở ra rồi đóng lại. Anh lắng nghe. Ngoài bếp, anh nghe tiếng một người đàn ông nói gì đó rất khẽ, và tiếng một cái ghế kéo ra khỏi bàn. Trong chốc lát anh lại nghe thấy giọng của lũ trẻ. Sau đó ít lâu - anh không chắc là bao lâu đã trôi qua - anh nghe tiếng bà Webster ngoài cửa.
“Anh Carlyle, tôi có nên gọi bác sĩ không?”
“Không, ổn thôi mà,” anh nói. “Chắc là chỉ cảm cúm thôi. Nhưng tôi thấy khắp người nóng rực.
Chắc tại đắp nhiều chăn quá. Và trong nhà ấm quá.
Có khi bà hạ nhiệt độ hệ thống sưởi xuống đi.” Rồi anh thấy mình lại lịm đi.
Một lát sau, anh nghe lũ trẻ nói chuyện với bà Webster ngoài phòng khách. Họ đang vào nhà hay sắp đi ra? Carlyle băn khoăn. Đã sang ngày mới rồi ư?
Anh lại ngủ thiếp đi. Nhưng rồi anh nhận ra cửa phòng đang mở. Bà Webster đứng bên giường anh. Bà đặt tay lên trán anh.
“Anh nóng rực lên này,” bà nói. “Anh bị sốt rồi.
“Tôi sẽ không sao đâu,” Carlyle nói. “Tôi chỉ cần ngủ lâu thêm chút nữa. Và có khi bà vặn nhỏ hệ thống sưởi xuống nữa đi. Xin bà, tôi sẽ rất cám ơn nếu bà lấy cho vài viên aspirin. Tôi đau đầu khủng khiếp.”
Bà Webster rời phòng. Nhưng cửa phòng anh vẫn mở. Carlyle nghe được tiếng ti vi đang mở ngoài kia. “Vặn nhỏ thôi, Jim,” anh nghe bà nói, và tiếng ti vi ngay lập tức nhỏ xuống. Carlyle lại thiếp đi.
Nhưng anh không ngủ được quá một phút, vì bà Webster bất chợt trở lại phòng anh với một cái khay. Bà ngồi xuống bên giường. Anh gượng dậy và cố ngồi. Bà kê một cái gối sau lưng anh.
“Uống chỗ này này,” bà nói và đưa anh vài viên thuốc. “Uống cái này nữa.” Bà đưa một cốc nước quả cho anh. “Tôi cũng mang cho anh ít cháo lúa mì ăn liền đây. Tôi muốn anh ăn. Nó sẽ tốt cho anh đấy.”
Anh cầm lấy aspirin và uống nước quả. Anh gật đầu. Nhưng anh lại nhắm mắt. Anh sắp ngủ lại.
“Anh Carlyle,” bà gọi.
Anh mở mắt. “Tôi vẫn thức đây,” anh nói. “Tôi xin lỗi.” Anh ngồi thẳng dậy thêm chút nữa. “Tôi bị nóng quá ấy mà. Mấy giờ rồi? Đã tám rưỡi chưa?”
“Hơn chín rưỡi rồi,” bà nói.
“Chín rưỡi,” anh nhắc lại.
“Giờ tôi sẽ đút cho anh ăn chỗ cháo này. Anh chỉ cần há miệng ra rồi nuốt. Sáu miếng, chỉ thế thôi. Đây, miếng đầu tiên đây. Há miệng nào,” bà nói. “Ăn hết chỗ này anh sẽ thấy khá hơn. Rồi tôi sẽ để anh ngủ lại. Cứ ăn hết chỗ này, rồi anh muốn ngủ bao nhiêu tùy thích.”
Anh ăn chỗ cháo mà bà đút và hỏi xin thêm nước quả. Anh uống nước quả, rồi lại nằm vật xuống giường. Khi thiếp đi, anh còn cảm thấy bà đắp thêm cho anh một lần chăn nữa.
Lần kế tiếp anh tỉnh dậy thì đã về chiều. Anh biết được là chiều vì cái ánh sáng yếu ớt lọt vào qua cửa sổ phòng. Anh vươn ra kéo rèm cửa. Anh nhìn thấy bầu trời âm u bên ngoài, mặt trời ảm đạm đã khuất sau những đám mây. Anh chậm chạp ra khỏi giường, kiếm đôi dép xỏ, và khoác áo choàng trong nhà. Anh vào phòng tắm và nhìn mình trong gương. Rồi anh rửa mặt và uống thêm aspirin. Anh lau khô rồi đi ra ngoài phòng khách.
Trên bàn ăn, bà Webster đã trải ra vài tờ báo, và đang cùng lũ trẻ nặn hình đất sét. Mấy bà cháu đã nặn được thứ gì đó có cổ dài và mắt lồi, trông như là của con hươu cao cổ, hoặc là khủng long. Bà Webster ngẩng lên khi anh đi qua bàn.
“Anh thấy sao rồi?” bà Webster hỏi anh khi anh ngồi xuống xô pha. Anh có thể trông vào chỗ phòng ăn, ở đó bà và lũ trẻ đang ngồi quanh bàn.
“Tốt hơn rồi, cảm ơn bà. Tốt hơn một chút rồi,” anh nói. “Tôi vẫn còn đau đầu, và tôi thấy hơi nóng.” Anh đưa mu bàn tay lên trán. “Nhưng khá hơn rồi. Phải, tôi khá hơn rồi. Cảm ơn bà đã giúp sáng nay.”
“Tôi lấy thêm gì cho anh nhé?” bà Webster hỏi. “ít nước quả hay trà nhé? Tôi không nghĩ cà phê có hại gì, nhưng trà thì tốt hơn. Nước quả thì tốt nhất rồi.”
“Không, cảm ơn bà,” anh nói. “Tôi sẽ chỉ ngồi đây một lát thôi. Ra được khỏi giường là tốt rồi. Tôi thấy yêu yếu trong người thôi. Bà Webster này?”
Bà nhìn anh chờ đợi.
“Tôi có nghe tiếng ông Webster ở đây sáng nay phải không? Tất nhiên là không vấn đề gì. Tôi chỉ lấy làm tiếc là không có cơ hội gặp ông ấy chào một tiếng.”
“Là ông ấy đấy,” bà nói. “Ông ấy cũng muốn gặp anh. Tôi bảo ông ấy vào. Ông ấy chọn sai ngày thôi, đúng lúc anh đang ốm. Tôi cũng muốn nói với anh về kế hoạch của chúng tôi, của ông Webster và tôi, nhưng sáng nay thật không phải là lúc phù hợp.”
“Nói với tôi cái gì?” Anh hỏi, tỉnh hẳn, nỗi sợ hãi nhói lên trong tim.
Bà lắc đầu. “Không sao,” bà nói. “Không gấp đâu mà.”
“Nói với bố cái gì ạ?” Sarah hỏi. “Nói với bố cái gì ạ?”
“Gì, gì?” Keith bám lấy ngay. Lũ trẻ ngừng trò đang chơi.
“Từ từ nào, hai cháu,” bà Webster vừa nói vừa đứng dậy.
“Bà Webster, bà Webster!” Keith khóc.
“Nào xem này, chàng trai nhỏ,” bà Webster nói. “Bà cần nói chuyện với bố cháu. Hôm nay bố cháu bị ốm. Cháu phải ngoan. Cháu cứ chơi đất sét đi. Nếu không để ý thì chị cháu sẽ nặn được nhiều hình đẹp hơn cháu đấy.”
Ngay khi bà vừa bắt đầu đi ra phía phòng khách thì điện thoại đổ chuông. Carlyle với ra đầu bàn nhấc máy.
Cũng như trước kia, anh nghe có tiếng hát loáng thoáng trên đường dây và biết đó là Eileen, “ừ đây,” anh nói. “Có chuyện gì thế?”
“Carlyle,” vợ anh nói, “Em biết, đừng hỏi sao em biết, nhưng đúng là mọi chuyện đang không được tốt lắm. Anh bị ốm, phải không? Richard cũng đang ốm. Chuyện đó cứ chạy vòng quanh ấy mà. Anh ấy không giữ được cái gì trong dạ dày mình cả. Anh ấy đã lỡ cả một tuần diễn tập cho vở kịch anh ấy đang dựng rồi. Em phải tự mình đến giúp phân cảnh với trợ lý của anh ấy. Nhưng em gọi không phải để kể cho anh chuyện ấy. Nói cho em nghe mọi chuyện ở đó thế nào đi.”
“Chẳng có gì mà kể cả,” Carlyle nói. “Anh ốm, có thế thôi. Hơi cúm một tí. Nhưng anh đang khỏe lên rồi.”
“Anh vẫn còn viết vào cuốn sổ ghi chép ấy đấy chứ?” cô hỏi. Điều đó khiến anh ngạc nhiên. Vài năm trước, anh đã nói với cô rằng anh có một quyển sổ ghi chép lại việc hằng ngày. Không phải nhật ký, anh nói, mà là ghi chép - như thể chuyện ấy giải thích được gì đó vậy. Nhưng anh chưa bao giờ cho cô xem, và anh không còn viết vào đó đã hơn một năm nay. Anh đã quên nó rồi.
“Vì,” cô nói, “anh phải viết gì đó vào cuốn sổ ấy trong thời kỳ này. Cảm nhận của anh và điều anh ngẫm nghĩ. Anh biết đấy, về chuyện anh nghĩ gì trong khoảng thời gian bị ốm này. Nên nhớ, ốm là một thông điệp về sức khỏe và tâm thái của con người. Nó nói cho người ta biết nhiều thứ. Hãy giữ lấy những ghi chép ấy. Anh hiểu ý em không? Chừng nào khỏe rồi, anh có thể nhìn lại mà thấy thông điệp đó là gì. Anh có thể đọc lại nó về sau này, sau khi chuyện xảy ra. Colette đã làm thế,” Eileen nói. “Khi có lần bà ấy bị sốt.”
“Ai?” Carlyle hỏi. “Em nói gì cơ?”
“Colette,” Eileen trả lời. “Nhà văn người Pháp. Anh biết em đang nói về ai mà. Mình có một quyển sách của bà ấy đâu đó trong nhà. Gigi hay gì đó. Quyển ấy thì em không đọc, nhưng từ hồi ra ngoài này em đọc sách của bà ấy suốt. Richard đã gợi cảm hứng cho em đọc bà ấy. Bà đã viết một cuốn sách nhỏ nói về cảm giác ấy, về những gì bà nghĩ ngại và cảm nhận suốt khoảng thời gian bị sốt. Đôi khi nhiệt độ của bà lên một trăm lẻ hai độ F*. Đôi khi thấp hơn. Cũng có thể có lúc cao hơn một trăm lẻ hai độ. Nhưng một trăm lẻ hai là nhiệt độ cao nhất bà ấy từng đo được khi bị sốt mà vẫn tiếp tục viết. Dù gì thì bà ấy đã viết về nó. Đấy là chuyện em đang nói. Thử viết xem nó ra sao đi. Có thể điều gì đó sẽ sáng tỏ,” Eileen nói và, Carlyle thấy thật không thể hiểu nổi, cô cười to. “Ít nhất sau này anh cũng có bản ghi chi tiết từng giờ về trận ốm của mình. Để nhìn lại. Ít nhất anh còn cái đó để làm bằng chứng. Lúc này thì anh chỉ thấy khổ sở thôi. Nhưng anh cần phải chuyển nó thành thứ gì đó hữu dụng.”
•
102 độ F tương đương khoảng 39 độ c.
Anh ấn mấy đầu ngón tay vào thái dương và nhắm mắt lại. Nhưng cô vẫn còn đang ở đầu dây bên kia, chờ nghe anh nói. Anh có thể nói gì chứ? Đối với anh, cô rõ ràng là đã bị điên mất rồi.
“Chúa ơi,” anh thốt lên. “Chúa ơi, Eileen. Anh không biết nói gì về chuyện đó. Anh thật sự không biết. Anh phải đi bây giờ. Cảm ơn em đã gọi,” anh nói.
“Được thôi,” cô nói. “Mình phải liên lạc được với nhau chứ. Hôn lũ trẻ cho em. Nói với chúng là em yêu chúng. Và Richard gửi lời chào đến anh nữa. Mặc dù anh ấy cũng đang nằm bẹp.”
“Tạm biệt,” Carlyle nói và gác máy. Rồi anh đưa hai bàn tay bưng mặt. Anh nhớ lại, vì một lý do nào đó, đã nhìn thấy con bé béo làm động tác y hệt như vậy vào cái lần nó đi ra chỗ chiếc xe nọ. Anh hạ tay xuống và nhìn bà Webster lúc này đang đứng nhìn anh.
“Tôi mong là không phải tin xấu,” bà nói. Người phụ nữ lớn tuổi đã nhấc một cái ghế đến gần chỗ anh ngồi ở xô pha.
Carlyle lắc đầu.
“Tốt,” bà Webster nói. “Tốt rồi. Nào, anh Carlyle, đây có thể không phải là lúc tốt nhất để nói về chuyện này.” Bà nhìn nhanh về phía phòng ăn. Bên bàn, lũ trẻ đang chúi đầu vào chỗ đất nặn. “Nhưng bởi vì đằng nào cũng phải nói sớm, và vì nó liên quan đến anh và lũ trẻ, và anh đã dậy đây, tôi có điều phải nói với anh. Jim và tôi, chúng tôi đều đang già đi. Vấn đề là, chúng tôi cần nhiều hơn những gì đang có lúc này. Anh hiểu tôi nói gì chứ? Chuyện này thật khó khăn với tôi,” bà nói và lắc đầu. Carlyle chậm chạp gật đầu. Anh biết bà sắp nói với anh rằng bà phải đi. Anh lau mặt bằng ống tay áo. “Cậu con trai từ cuộc hôn nhân trước của Jim, Bob - cậu ta đã bốn mươi tuổi - hôm qua mới gọi điện mời chúng tôi đến Oregon giúp cậu ta chăm sóc khu trại nuôi chồn. Jim sẽ làm bất kỳ việc gì người ta vẫn làm với lũ chồn ấy, còn tôi sẽ nấu ăn, đi chợ, lau chùi nhà cửa, và làm mọi việc cần làm khác nữa. Đây là một cơ hội cho cả hai chúng tôi. Và đổi lại là ăn uống, chỗ ở và thêm vài cái khác nữa. Jim và tôi sẽ không phải lo gì về tương lai nữa. Anh hiểu điều tôi nói chứ? Lúc này, Jim chẳng có gì cả,” bà nói. “Tuần trước ông ấy đã tròn sáu mươi hai. Ông ấy không có việc gì làm cũng lâu lâu rồi. Sáng nay ông ấy đã đến đây định tự mình nói chuyện với anh, vì nếu nghỉ thì tôi sẽ phải báo trước chứ, anh biết đấy. Chúng tôi nghĩ - tôi nghĩ - sẽ tốt hơn nếu có Jim ở đây khi tôi nói chuyện với anh.” Bà chờ Carlyle xem anh có nói gì đó không. Khi thấy anh không nói gì, bà tiếp tục. “Tôi sẽ làm hết tuần này, và tôi có thể tiếp tục chừng hai ngày nữa vào tuần sau, nếu cần. Nhưng sau đó, anh biết đấy, chắc chắn là chúng tôi phải đi thôi, và anh sẽ phải chúc chúng tôi may mắn đấy. Ý tôi là, anh có tưởng tượng nổi không - đi sang tận Oregon với cái xe cà tàng ấy? Nhưng tôi sẽ nhớ lũ trẻ lắm. Chúng thật là báu vật.”
Sau một lát, thấy anh vẫn không động cựa đáp lại gì, bà đứng dậy đến ngồi xuống tấm đệm bên cạnh anh. Bà chạm vào tay áo anh. “Anh Carlyle?”
“Tôi hiểu,” anh nói. “Tôi muốn bà biết rằng việc bà ở đây đã mang đến sự thay đổi lớn đối với tôi và lũ trẻ.” Đầu anh đau tới mức anh phải nhíu mắt lại. “Cái cơn đau đầu này,” anh nói. “Nó đang giết tôi.”
Bà Webster đặt mu bàn tay lên trán anh. “Anh vẫn còn hơi sốt,” bà nói. “Tôi sẽ lấy thêm ít aspirin. Nó sẽ giúp hạ sốt. Tôi vẫn còn trách nhiệm lo lắng mọi chuyện ở đây mà,” bà nói. “Tôi vẫn là bác sĩ đây.”
“Vợ tôi nghĩ tôi nên viết ra xem cảm giác ốm thế nào.” Carlyle nói. “Cô ấy nghĩ nếu như tôi miêu tả cơn sốt xem nó ra sao thì đó là một ý hay. Như thế để về sau này tôi có thể nhìn lại và nhận được cái thông điệp từ nó.” Anh cười phá lên. Có chút nước mắt dâng lên trong đôi mắt anh. Anh lấy cườm tay chùi đi.
“Chắc tôi sẽ đi lấy ít aspirin và nước quả rồi ra ngoài với lũ trẻ,” bà Webster nói. “Có vẻ như chúng sắp chán chỗ đất nặn kia rồi.”
Carlyle lo bà sẽ đi sang phòng khác mà bỏ anh một mình. Anh muốn nói chuyện với bà. Anh hắng giọng. “Bà Webster, có điều này tôi muốn bà biết. Suốt một thời gian dài, vợ tôi và tôi yêu nhau nhiều hơn bất kỳ thứ gì, bất kỳ ai trên đời. Bao gồm cả lũ trẻ nữa. Chúng tôi đã nghĩ, ừm, rằng chúng tôi biết chắc mình sẽ bên nhau đến già. Và chúng tôi biết chúng tôi sẽ làm mọi thứ mình muốn làm trên đời, làm cùng nhau.” Anh lắc đầu. Đó dường như là điều đáng buồn nhất với anh lúc này - rằng bất kỳ điều gì họ làm kể từ nay trở đi, họ đều sẽ làm mà không có nhau.
“Nào, không sao cả,” bà Webster nói. Bà vỗ vào tay anh. Anh dịch về phía trước và bắt đầu nói tiếp. Sau một lát, lũ trẻ đi ra phòng khách. Bà Webster để ý thấy liền đưa một ngón tay lên môi. Carlyle nhìn lũ trẻ và tiếp tục nói. Để chúng nghe, anh nghĩ. Chuyện liên quan đến cả chúng nữa mà. Lũ trẻ có vẻ hiểu chúng phải giữ trật tự, thậm chí phải giả vờ chăm chú nữa, thế là chúng ngồi xuống chân bà Webster. Rồi chúng bò sấp xuống thảm và bắt đầu cười rúc rích. Nhưng bà Webster nhìn về phía chúng nghiêm nghị, thế là chúng im.
Carlyle tiếp tục nói. Ban đầu, đầu anh vẫn còn đau, và anh thấy bối rối trong bộ quần áo ngủ ngồi trên ghế xô pha với người phụ nữ lớn tuổi bên cạnh kiên nhẫn đợi anh nói chuyện tiếp. Nhưng rồi cơn đau đầu biến mất. Chẳng mấy chốc anh hết cảm thấy kỳ cục và quên mất rằng lẽ ra anh phải cảm thấy ra sao. Anh bắt đầu câu chuyện đâu đó ở khoảng giữa, sau khi lũ trẻ ra đời. Nhưng rồi anh lùi lại từ đầu, từ hồi Eileen mười tám còn anh mười chín, một cậu trai và một cô nàng đang yêu, cháy bỏng.
Anh ngừng lại để lau trán. Anh liếm môi cho đỡ khô.
“Tiếp đi,” bà Webster nói. “Tôi hiểu chuyện anh đang kể. Cứ kể tiếp đi, anh Carlyle. Đôi khi nói về nó được là rất tốt. Đôi khi cần phải nói về nó. Ngoài ra, tôi cũng muốn nghe. Và sau đó anh sẽ thấy khá hơn. Có lần điều tương tự cũng xảy ra với tôi, điều giống như anh đang mô tả. Tình yêu. Chính là nó đấy.”
Lũ trẻ ngủ thiếp đi trên thảm. Keith vẫn ngậm ngón tay cái. Carlyle vẫn còn đang nói khi ông Webster đến trước cửa, gõ, đoạn bước vào đón bà Webster.
“Ngồi xu?