CHÍN
Maigret ngậm tẩu hút từng hơi ngắn và lặng lẽ nhìn gã Albert. Có lẽ ông bắt chước diễn viên sân khấu, ngừng nói để cho những lời sắp nói có thêm trọng lượng. Thật tình, ông không chủ tâm gây ấn tượng như vậy. Ông đang nghĩ đến Louise Laboine và hầu như không nhìn thấy khuôn mặt của gã bán rượu đứng đối diện. Suốt thời gian ngồi trong tiệm Ngôi sao, ông cố hình dung lúc cô gái mặc chiếc áo dạ hội tiều tuỵ và cái áo choàng nhung hơi rộng bước vào phòng đầy khách, trong khi Janvier xuống dưới nhà gọi điện thoại.
Một lát sau, ông nói nhỏ:
— Thế đấy, thoạt nghe câu chuyện rất hợp lí và quá hợp lí là đằng khác. Nếu như không hiểu biết cô gái thì tôi tin ngay.
Gã Albert ngạc nhiên, thốt lên không kìm được:
— Thanh tra biết tên cô ta à?
— Tôi đi đến chỗ tìm hiểu cô ta rất kĩ.
Ngay lúc này, khi đang nói với Albert, ông có thể nhìn thấy Louise Laboine trốn dưới gầm giường bà Poré và về sau khi cãi nhau với Jeanine Armenieu thì trốn trong căn buồng chung tại phố Ponthieu. Ông cũng hình dung thấy cô gái trọ trong cái khách sạn bẩn thỉu nằm trong phố Aboukir và cả những khi cô ta đi trong gió rét bên ngoài cửa hiệu nằm trong đại lộ Magenta.
Ông có thể nhắc lại từng lời người ta kể cho ông biết về Louise Laboine, từ bà gác cổng cho đến bà Crêmieux. Ông nhìn thấy cô gái bước vào tiệm Maxim's, và một tháng sau đó thì tìm cách lách giữa đám đông khách đến dự đám cưới tại tiệm Roméo.
— Việc đầu tiên là, không chắc cô ta dám tìm ghế ngồi trong tiệm. Bởi vì cô gái cảm thấy mình như con cá bị mắc cạn khi mọi người chằm chằm nhìn cô và để ý chiếc áo cũ cô đang mặc. Cho dù cô ta tìm được ghế ngồi thì khó lòng cô ta dám gọi martini uống. Anh mắc sai lầm là coi cô ta như mọi phụ nữ đến tiệm anh uống rượu. Khi tôi hỏi cô gái uống gì, anh trả lời như cái máy, không cần moi lại trí nhớ: “Một cốc martini”.
— Quả thật cô ta chẳng uống gì cả. - Gã Albert thừa nhận.
— Mà cô ta cũng chẳng dám đi xuống tầng hầm đọc thư. Trong các quán rượu như quán của anh chỉ có khách quen đến uống đều đặn, đầu cầu thang không treo biển báo. Dù có treo thì tôi cũng không tin cô ta dám có gan lách đằng sau lưng hai chục khách đang say bí tỉ để đi xuống tầng hầm. Báo cũng không đăng tin đầy đủ về kết quả mổ tử thi. Khi mổ dạ dày thấy có rượu, nhưng báo không nói đó là rượu rhum. Còn martini là một sự pha trộn giữa rượu gin và rượu vermouth.
Có lẽ vì vẫn còn đang suy nghĩ về Louise Laboine, nên thanh tra Maigret không tỏ dấu hiệu đắc thắng. Ông nói nhỏ, như thể nói chỉ để cho mình nghe:
— Có thật anh đưa thư cho cô ta không?
— Tôi có đưa cho cô ta một bức thư.
— Anh muốn nói một cái phong bì phải không?
— Vâng.
— Trong có một tờ giấy trắng?
— Vâng.
— Anh bóc thư thật xem lúc nào?
— Ngay khi tôi được tin Jimmy “bay sang Mỹ”.
— Anh cho người theo dõi hắn tới tận phi trường Orly?
— Vâng.
— Sao vậy? Anh vẫn chưa biết đầu đuôi câu chuyện cơ mà?
— Khi một gã vừa được ra tù, cất công bay vượt Đại Tây Dương, cốt để đưa tin cho một cô gái thì đó phải là một tin quan trọng.
— Anh vẫn còn giữ bức thư đó?
— Tôi đã huỷ đi rồi.
Maigret tin Albert nói thật, nhưng ông thuyết phục gã đừng tìm cách nói quanh co.
— Thư nói gì?
— Thư viết đại loại như sau:
“Cho đến nay bố không chú ý đến con nhiều, nhưng một ngày kia con sẽ hiểu điều đó, như vậy sẽ tốt đẹp với con hơn. Dù có ai nói gì, con cũng đừng có ý nghĩ quá khắt khe về bố. Hai bố con ta, mỗi người đã chọn con đường riêng trong cuộc đời, lắm khi ở lứa tuổi con suy nghĩ thiếu sức phán đoán, vì vậy đừng phải để ân hận.
Con có thể tin ở người đến trao bức thư này. Lúc con nhận được thư, có thể bố đã qua đời. Bố đã già rồi, con đừng lấy thế làm buồn phiền.
Bố khuây khoả thấy từ nay con sẽ được cung cấp đầy đủ cái ăn cái mặc. Con cố xoay sở lấy giấy thông hành đi Mỹ càng sớm càng tốt. Có lẽ khi còn ngồi trên ghế của nhà trường, con đã được nghe nói về khu ngoại ô Brooklyn ở Thành phố New York. Con căn cứ theo địa chỉ dưới đây tìm đến một người thợ may Ba Lan nhỏ người, có tên là...”
Gã Albert ngừng, không nói. Maigret ra hiệu cho gã nói tiếp.
— Tôi không nhớ nữa..
— Anh có nhớ.
— Thôi được!... “Tên là Lukasek sẽ trao cho con một món tiền bằng giấy bạc...”
— Có thế thôi?
— Thư còn thêm mấy dòng tình cảm nữa, tôi không nhớ rõ.
— Anh có nhớ địa chỉ Lukasek không?
— Có. Số 1214, phố 37.
— Anh tìm ai giúp?
Một lần nữa gã Albert lại mưu toan không trả lời. Nhưng cái nhìn dữ dội của Maigret khiến gã chịu nhượng bộ.
— Tôi trao thư cho một thằng bạn.
— Ai?
— Bianchi.
— Hắn vẫn còn chung chạ với con Jeanne Lớn chứ?
Tên Bianchi bị tình nghi là thủ lĩnh một băng cướp người đảo Corse và đã bị Maigret bắt giữ ít nhất là mười lần, nhưng chỉ có một lần ông có đủ chứng cứ tống giam hắn trong năm năm.
Thanh tra Maigret đứng dậy, mở cửa bước vào phòng bên cạnh, gọi:
— Torrence có đấy không?
Có người đi tìm Torrence.
— Anh hãy mang hai hay ba người đi theo. Điều tra chắc chắn xem Jeanne Lớn còn sống tại phố Lepic không. Anh có thể tìm thấy Bianchi trong phòng nó đấy. Nếu không thấy thằng Bianchi, thì bắt con Jeanne Lớn nói cho biết nó ở đâu. Anh phải thận trọng, có thể đánh nhau đấy.
Gã Albert nghe Maigret nói nét mặt y không biểu lộ vẻ xúc động.
— Anh nói tiếp đi.
— Thanh tra còn muốn biết gì thêm nữa?
— Thằng Bianchi không thể sai bất kỳ ai sang Mỹ tìm đến Lukasek lấy tiền. Hẳn tên Ba Lan này đã nhận được chỉ thị, đòi cô gái đưa chứng minh thư cho xem.
Gã Albert không trả lời vì lý lẽ đã quá rõ ràng.
— Vì vậy anh đợi cô gái tìm đến tiệm Pickwick's?
— Chúng tôi không có ý định giết cô ta.
Gã ngạc nhiên thấy thanh tra Maigret tra lời:
— Tôi tin anh nói thật.
Bọn chúng đều là những tên nhà nghề, vì vậy chúng không muốn mạo hiểm một cách không cần thiết. Chúng cốt sao lấy được tấm chứng minh thư của Louise Laboine, và sau khi đoạt được, chúng sẽ kiếm giấy thông hành cho một tên đồng loã giả dành cô gái.
— Lúc đó Bianchi có mặt trong tiệm chứ?
— Vâng.
— Cô gái không bóc thư xem mà bỏ đi ngay?
— Vâng.
— Ông trùm của anh cho xe hơi đậu ngoài cửa tiệm?
— Vâng, tên Tatoué cầm lái. Tôi nói tiếp được chứ?
— Louise bị theo dõi?
— Mãi sau này khi chúng kể lại, tôi mới biết, lúc đó tôi không có mặt. Sau khi xảy ra sự việc, tên Tatoué đâm hoảng, đã bỏ trốn. Nhưng tôi khuyên các ông đừng tìm nó ở Paris, mất thời giờ vô ích.
— Nó bỏ trốn đi Marseille?
— Có thể lắm.
— Chắc chúng có ý định đoạt cái ví xách tay của cô gái?
— Vâng. Thoạt tiên chúng cho xe vượt quá, đợi cô gái tới ngang tầm, Bianchi mới nhảy ra khỏi xe. Lúc đó đường phố vắng người. Tên Bianchi vồ lấy cái ví xách, không ngờ rằng cái ví xách lại có một sợi dây xích xoắn xung quanh cổ tay cô gái làm cô ta ngã khuỵu xuống. Nó đánh vào mặt khi thấy cô gái định há miệng kêu. Có lẽ lúc ấy cô ta đã túm chặt lấy Bianchi, gọi người cầu cứu, nên nó rút dùi cui trong túi ra, đánh vào mặt.
— Anh bịa ra câu chuyện về tên Mỹ thứ hai, cốt để tống khứ được lão Lognon đi phải không?
— Vâng, lão Malgracieux bị tôi bịp cho. Nhưng ở địa vị tôi thử hỏi thanh tra sẽ làm gì khác hơn được?
Dẫu sao thì Lognon vẫn đi trước Trung tâm Cảnh sát trong phần lớn cuộc điều tra. Nếu lão chịu khó đặt mình vào tâm trạng Louise Laboine thì lão đã thành công, cái thành công mà chính lão chờ đợi từ bao lâu nay, đến nỗi lão không dám tin vào điều đó nữa.
Lúc này, khi đi trên con tàu từ Bruxelles trở về Paris, lão đang suy nghĩ những gì? Hơn lúc nào hết, lão cảm thấy toàn thế giới liên kết chống lại lão, nên có thể lão đang nguyền rủa cái số phận hẩm hiu của mình. Lão không phạm một sai lầm kỹ thuật nào, và không có một lớp đào tạo nào dạy người làm công tác điều tra phải đặt mình vào địa vị một cô gái bị bà mẹ nửa rồ nửa dại nuôi nấng tại Nice.
Từ bao năm trời, Louise cố tình tìm một chỗ đứng trong cuộc sống nhưng không thành công, vì thế giới đó làm cô hoang mang và ngỡ ngàng. Cô đã bám một cách tuyệt vọng vào người đầu tiên gặp gỡ, nhưng đã bị người đó bỏ rơi trong cơn hoạn nạn. Còn lại một mình, cô dốc hết sức để đương đầu với một thế giới đối kháng và cố tìm cách học các qui luật của trò chơi.
Có thể cô chẳng hiểu gì về người cha đẻ của mình. Lúc còn nhỏ tuổi hẳn cô đã đặt câu hỏi, tại sao mẹ mình không giống những người mẹ khác? Tại sao hai mẹ con lại sống khác những người hàng xóm?
Cô cố gắng hết sức thích nghi với cuộc sống. Cô trốn khỏi nhà, đi đến những chỗ quảng cáo tìm người. Nếu như Jeanine Armenieu dễ dàng tìm được công ăn việc làm, còn cô thì chỗ nào vào xin việc cũng bị khước từ! Phải chăng cô đã tin như lão Lognon rằng, hình như thế giới mưu hại mình chăng? Cái gì đã làm cô khác mọi thiếu nữ khác? Tại sao cô gặp phải nhiều rủi ro như vậy?
Ngay cái chết của cô hình như cũng do định mệnh cay nghiệt đã an bài trước. Nếu cái ví xách tay bằng bạc không có một sợi dây xích nhỏ xoắn vào cổ tay cô thì tên Bianchi chỉ việc nhẹ nhàng giật lấy chiếc ví rồi chiếc xe mở hết tốc lực phóng đi. Khi đó cô có đến cảnh sát trình bày sự thể thì cũng chẳng ai tin.
Tại sao chúng lại khiêng xác cô gái đến Quảng trường Vintimille?
— Thoạt tiên, chúng có thể quăng xác cô ta tại một địa điểm gần quán rượu của tôi. Nhưng cô ta ăn mặc giống như các cô gái của khu Montmartre, nên chúng chọn cái Quảng trường đầu tiên vắng người để quăng xác xuống.
— Chúng có sai ai đến lãnh sự quán Mỹ không?
— Tất nhiên không, chúng còn đợi.
— Thưa sếp, thanh tra Clark gọi dây nói.
— Anh cắm cho anh ta nói chuyện với tôi ở đây.
Maigret chỉ còn việc kiểm tra lại cho chắc chắn các sự kiện và vì tò mò cá nhân ông hỏi thêm người của Cục điều tra liên bang vài câu hỏi khác.
Như thường lệ, mỗi người cố nói tiếng nói của nhau, Maigret thì nói bằng một thứ tiếng Anh tồi, còn người của Cục điều tra liên bang Mỹ thì nói bằng một thứ tiếng Pháp tồi.
Trước khi Clark hiểu rõ đầu đuôi câu chuyện thì thanh tra Maigret đã đọc lướt qua toàn bộ danh sách các tên do Julius Van Cram sử dụng dưới các biệt hiệu là Lemke, Stieb, Ziegler, Marek, Spangler, Donley.
Sự thật là hắn được chôn cất trước đây một tháng dưới cái tên Donley tại nhà tù Sing Sing. Hắn bị giam tám năm trời tại đó vì tội lừa đảo.
— Thế có tìm thấy món tiền không?
— Chỉ còn lại một ít.
— Món tiền lớn không?
— Khoảng một trăm ngàn đôla.
— Bạn cùng giam với hắn đúng tên là Jimmy chứ?
— Jimmy O’Malley. Tên này chỉ bị giam ba năm tù và mới được phóng thích cách đây hai tháng.
— Chính hắn đi sang Pháp.
— Có lẽ con gái hắn tổ chức cưới hơi sớm. Hắn trở về nhà kịp thời để dự đám cưới. Món tiền hiện nay do Lukasek, một tên thợ may Ba Lan sống trong khu Brooklyn giữ.
Thanh tra Maigret nói, hơi lộ vẻ đắc thắng:
— Tên Lukasek nhận được chỉ thị trao cái gói cho một cô gái tên là Louise Laboine, nhưng có thể hắn không ngờ mình đang giữ tiền.
— Cô gái sẽ đi nhận gói tiền?
— Đáng tiếc là cô ta không thể đi được.
Câu nói bất ngờ buột khỏi miệng Maigret, làm ông vội nói tiếp:
— Cô ta đã bị giết tại Paris trong tuần này.
Vì lâu ngày không gặp, Maigret trao đổi với người của Cục điều tra liên bang mấy câu nói đùa và chào hỏi. Sau khi mắc ống điện thoại lên, ông có vẻ ngạc nhiên thấy gã Albert vẫn còn ngồi trên ghế hút thuốc lá.
Cục điều tra liên bang chắc sẽ tìm thấy số tiền đôla, đem trả lại cho chủ một ngân hàng nào đó, hay cho một công ty bảo hiểm nếu ngân hàng được bảo hiểm. Còn tên thợ may Ba Lan sẽ bị tống giam. Tên Jimmy O’Malley có thể bị tống giam vì tội hoạt động môi giới, sẽ bị giam trở lại tại nhà tù Sing Sing chứ không được sống với con gái tại Baltimore.
Số mệnh cô gái Louise Laboine do một việc hết sức nhỏ nhoi, một sợi dây xích mỏng cuốn xung quanh cổ tay quyết định. Nếu như bà Crêmieux, tại phố De Douai, cho cô mượn cái túi xách kiểu khác, chiều hôm cô đến thuê áo... Và nếu như cô đến phố Ponthieu kịp thời để bức thư được trao tận tay... Thì liệu Louise Laboine có đi sang Mỹ nhận tiền không? Với món tiền một trăm ngàn đôla trong tay, cô sẽ làm gì sau đó?
Tiết trời ấm áp, Maigret uống xong cốc bia. Ông gõ tẩu vào gót giày cho tàn rơi vào cái xô than, chứ không gõ vào cái gạt tàn.
— Lại đây Janvier!
Ông chỉ vào Albert. Lập tức gã bán rượu hiểu ngay.
— Anh đem hắn vào trong phòng giấy, ghi xong lời khai thì bắt hắn kí tên. Rồi anh đem hắn vào xà lim. Tôi sẽ gọi điện cho quan toà Coméliau.
Đó chỉ là vấn đề thủ tục, ông chẳng quan tâm nữa.
Khi Janvier đem Albert đi, ông gọi gã lại:
— Tôi còn quên chưa trả tiền ba cốc pernod.
— Ba cốc pernod vẫn còn trong tiệm ạ
— Không đâu.
Maigret chìa tiền trả. Như thói quen khi ông vào quán phố Ngôi sao uống rượu, ông nói nhỏ:
— Anh hãy giữ lấy chỗ tiền lẻ.
Gã bán rượu trả lời như cái máy giống như khi hắn ngồi sau quầy:
— Xin cảm ơn!
CHÚ THÍCH/
[1] Đơn vị đo lường cũ của Anh, bằng 0.914m.
[2] Thiếu duyên dáng, vô duyên.
[3] Trụ sở cảnh sát thành phố Paris, số 36 Quai des Orfèvres.
[4] Rượu nặng pha nước.
[5] Đơn vị đo lường: Anh = 0.57lít; Mỹ = 0.47 lít.
HẾT