← Quay lại trang sách

Chương 1 BẢN PHÚC TRÌNH CỦA NGƯỜI ĐÃ CHẾT

Như mọi lần về nhà vào buổi tối, cứ đến cùng một chỗ ở vỉa hè, quá ngọn đèn đường một chút, Maigret lại ngước nhìn lên phía mấy ô cửa sổ sáng đèn căn hộ của mình. Ông cứ nhìn lên theo thói quen thôi. Nếu ngay lúc đó có ai đột nhiên hỏi đèn còn sáng hay đã tắt, có lẽ Maigret cũng ngần ngại khó trả lời. Khi từ tầng hai lên tầng ba cũng vậy, cứ theo thói quen, ông bắt đầu mở nút áo khoác để lấy chìa khoá trong túi quần thì y như mọi lần, cửa mở đúng ngay khi ông vừa đặt chân lên thảm cửa.

Những việc ấy qua bao năm đã thành lệ, thành thói quen và Maigret đã gắn bó với những thói quen nhiều hơn là ông nghĩ. Hôm nay lại có khác vì trời không mưa, giá như mọi bữa thì vợ ông đã bằng một điệu bộ đặc biệt riêng của bà, đó lấy chiếc dù ướt trong tay ông và cùng lúc nghiêng đầu hôn lên má ông.

Ông buông ra câu nói như mọi lần:

— Không có ai gọi điện thoại chứ?

Bà vừa đóng cửa vừa trả lời:

— Có đấy! Em e rằng anh khỏi phải mất công cởi áo khoác đấy!

Cả ngày hôm nay trời xám xịt. Không nóng cũng không lạnh và có dăm ba hạt mưa lúc hai giờ chiều. Ở cơ quan Maigret chỉ giải quyết mấy việc sự vụ thường ngày.

— Anh ăn tối ở cơ quan có ngon miệng không?

Ánh đèn làm cho căn phòng ấm áp, thân thiết hơn ở cơ quan. Cạnh chiếc ghế bành, Maigret nhìn thấy đôi dép và mấy tờ báo xếp sẵn.

— Anh ăn tối với thủ trưởng, Lucas và Janvier ở quán Dauphine. Ăn xong cả bốn người đã đến dự buổi họp của Hội ái hữu cảnh sát.

Từ ba năm nay, Maigret được bầu làm phó chủ tịch hội, mặc dù điều đó ông không muốn tý nào.

— Anh vẫn còn thì giờ uống một tách cà phê đấy. Dù sao anh cũng nên cởi áo khoác đi chứ, em đã bảo là anh không về trước mười một giờ - Bà Maigret khẽ nhắc ông. Bây giờ đã là mười giờ rưỡi.

Buổi họp cũng nhanh, một vài người trong bọn họ còn có thời gian ghé quán và làm một ly, rồi Maigret đi tàu điện ngầm trở về nhà.

— Em có biết ai gọi điện không?

— Một ông bộ trưởng.

Đang đứng giữa phòng khách Maigret nhíu lông mày nhìn vợ.

— Bộ trưởng nào?

— Bộ trưởng Bộ Công chính. Nếu em nhớ không lầm thì ông ta tên Point.

— Auguste Point!

— Đúng đấy!

— Đích thân ông ta gọi đến à?

— Vâng!

— Thế sao em không bảo ông ta gọi thẳng đến cơ quan.

— Ông ta muốn nói chuyện với chính anh thôi. Ông ta cần gặp anh ngay. Khi em bảo anh đi vắng rồi ông ta lại hỏi em có phải là người giúp việc không? Ông ta có vẻ đang lo ngại việc gì đó. Em bảo em là vợ anh thì ông ta bèn xin lỗi, hỏi thăm anh ở đâu và khi nào thì anh về. Ông ta làm em có cảm giác ông ta là một người rụt rè.

— Theo như người ta biết, tính ông ấy có phải vậy đâu?

— Ông ta yêu cầu em cũng phải nói thật là có phải em đang ở một mình khi nói chuyện với ông ấy hay không? Rồi ông ta giải thích rằng cú điện thoại này cần phải được giữ kín, ông ta không phải gọi từ cơ quan Bộ mà từ một buồng điện thoại công cộng. Ông ta cũng nói rằng việc tiếp xúc ngay với anh rất hệ trọng đối với ông ta.

Trong khi vợ đang nói, Maigret nhìn bà với vẻ ngờ vực. Trong đời làm việc của Maigret có nhiều lúc một dân biểu, một nghị sĩ hoặc một chính khách có tên tuổi nào đó nhờ đến ông, nhưng luôn luôn thông qua cơ quan. Mỗi lần như thế thủ trưởng của ông gọi đến và lại mở đầu câu chuyện như thế này: “Anh Maigret thân mến, tôi xin lỗi buộc phải giao cho anh một công việc mà anh chẳng ưa thích gì”.

Thật thế, đó toàn là những việc ông không ưa thích. Ông không quen biết riêng với bộ trưởng Auguste Point và cũng chưa bao giờ trông thấy ông ta bằng xương bằng thịt. Ông ta cũng không phải loại người thường được báo chí nhắc tên.

— Sao ông ấy không gọi điện đến cơ quan nhỉ?

Maigret thốt ra câu ấy như để nói riêng với ông vậy, nhưng vợ ông cũng trả lời:

— Em không biết. Em chỉ nhắc lại những gì ông ta nói thôi. Trước hết là ông ta gọi từ một buồng điện thoại công cộng...

Đối với bà thì chuyện ấy gây ấn tượng mạnh lắm. Bà khó hình dung một nhân vật có cỡ như ông Bộ trưởng mà lại lẻn vào một buồng điện thoại công cộng ở một góc phố nào đó để gọi điện.

— Có lẽ anh không nên đến cơ quan Bộ mà đến nhà riêng của ông ta thì hơn.

Bà lúi húi đọc một mảnh giấy ghi mấy chữ.

— Số 27, đại lộ Pasteur, anh cũng khỏi cần phải gọi người gác cổng. Ông Bộ trưởng ở tầng năm phía bên trái.

— Ông ta đợi anh ở trên đó à?

— Ông ta buộc phải đợi thôi. Nhưng để cho được việc, ông ta phải về lại Bộ trước nửa đêm.

Rồi bà lại hỏi ông bằng một giọng khác:

— Anh có nghĩ rằng đó là một trò đùa không?

Maigret lắc đầu. Việc này rõ là lạ đời. Nhưng dứt khoát không phải là chuyện đùa.

— Anh uống cà phê đi chứ!

— Cảm ơn em. Anh vừa uống bia xong.

Sau khi uống một chút nước mơ. Maigret cầm lấy tẩu thuốc để trên bệ lò sưởi và đi ra cửa.

— Anh phải đi! Em ạ.

Khi xuống đến đại lộ Richard Lenoir, không khí ẩm ướt ban ngày bắt đầu đọng lại thành một đám sương mù mịt quanh ánh đèn, Maigret không gọi taxi. Ông đi bằng tàu điện ngầm để đến đại lộ Pasteur. Có lẽ khi đi như vậy ông giữ được cảm giác rằng ông đang đi lo việc riêng của mình.

Suốt quãng đường đi, ông cứ nhìn đăm đăm mà chẳng mảy may lưu ý đến một người có bộ râu mép đang đọc báo ngồi trước mặt. Ông tự hỏi không biết Auguste Point mong muốn điều gì nơi ông, và nhất là tại sao ông ta lại hẹn ông thật khẩn cấp và bí ẩn như thế này.

Point là luật sư quê ở Vendée thị xã Roche sur Yon. Nếu Maigret không lầm thì Point đến với chính trị cũng khá muộn. Ông thuộc nhóm những dân biểu được bầu sau chiến tranh nhờ giữ được tư cách đạo đức trong thời gian đất nước bị tạm chiếm. Toàn bộ những gì Maigret biết về ông Bộ trưởng là như thế. Auguste Point đã làm gì, Maigret không hề hay biết. Trong khi nhiều vị dân biểu khác ra khỏi Quốc hội không lưu lại tiếng tăm gì thì Point lại được tái cử liền và cách đây ba tháng, khi Chính phủ mới được thành lập thì Point đã được giao phụ trách Bộ Công chính. Point không giống như nhiều chính khách khác. Maigret không nghe thấy lời đồn đại nào về ông ta. Vợ ông ta cũng chẳng làm gì để người ta đả động đến. Nếu ông ta có con cái thì chắc chúng cũng đều thế cả.

Khi Maigret ra khỏi tàu điện ngầm ở ga Pasteur sương mù màu vàng nhạt dày đặc thêm và Maigret cảm thấy như có bụi bặm trên môi. Ông không trông thấy ai trên đường mà chỉ nghe tiếng bước chân từ xa phía đường Montparnasse và cũng cùng hướng đó có con tàu nào đang kéo còi ra khỏi ga.

Một vài cửa sổ còn sáng đèn. Trong sương đêm, cảnh ấy trông thật bình yên. Trong những ngôi nhà không sang, mà cũng không tồi, không cũ, mà cũng chẳng mới này, hầu hết là những người có đời sống trung lưu: giáo sư, công chức và nhân viên cứ mỗi sáng vào cùng một giờ dùng xe buýt hay tàu điện ngầm đi làm việc.

Maigret đẩy chốt cửa. Khi cửa mở, ông lẩm bẩm tiếng gì đó không rõ và tiến về phía thang máy. Chiếc thang máy nhỏ, chỉ dùng được cho hai người, bắt đầu nhích lên chầm chậm rất êm trong khoảng sáng mờ mờ. Ở các tầng lầu, cửa đều cùng một màu nâu sẫm, mấy tấm thảm trước cửa giống nhau y hệt.

Ông bấm chuông ở cửa phía bên trái, cửa mở ra ngay như có ai để sẵn tay trên chốt chờ đợi.

Point bước ra mấy bước để đưa thang máy trở xuống trong khi Maigret lại quên nghĩ đến việc ấy.

Point lẩm bẩm:

— Xin lỗi là đã làm phiền ông khuya khoắt thế này. Mời ông đi lối này.

Bà Maigret chắc sẽ thất vọng vì Point trông chẳng giống mấy với hình ảnh tưởng tượng của bà về một vị Bộ trưởng, về vóc dáng bề ngoài, ông ta cũng hao hao như Maigret, mà có phần to hơn, cứng cỏi hơn và có lẽ trông có vẻ nông dân hơn. Point có chiếc mũi lớn, nét mặt như tạc, trông mạnh và thô.

Bộ trưởng Point mặc bộ complet thường màu xám thắt cravate may sẵn. Người ông ta, có hai điểm làm Maigret chú ý ngay là cặp lông mày rậm, to và dày như sâu róm và lông tay cũng dài gần như thế phủ tận hai bàn tay.

Về phần Point, ông ta cũng nhìn chăm chú, không che giấu gì và cũng không cười xã giao nữa.

— Xin mời ông ngồi!

Căn hộ của Point nhỏ hơn căn hộ của ông, chắc chỉ có hai hoặc ba phòng và căn bếp nhỏ. Hai người đi qua phòng trước có treo áo quần, đến phòng làm việc, phòng này trông như phòng của một anh chàng độc thân.

Trên chiếc giá gắn vào tường có một dãy tẩu thuốc chừng mười, mười hai cái. Nhiều cái bằng sứ và có đầy ngăn hộc giống hệt chiếc bàn của bố Maigret ngày xưa phủ đầy giấy tờ và tàn thuốc. Maigret không dám nhìn ngay vào hai bức hình khung vàng và đen treo trên tường. Đấy là hình của bố mẹ Point, những bức hình này đáng ra phải treo ở một chỗ khác, như trang trại ở quê Point.

Ngồi trong chiếc ghế bành xoay giống hệt chiếc ghế của bố Maigret, Point làm ra vẻ không mấy chủ tâm chạm tay vào hộp xì gà:

— Tôi đoán là... - Point bắt đầu nói.

Maigret mỉm cười, nói nhẹ nhàng:

— Tôi thích dùng tẩu của tôi hơn.

— Ông dùng thuốc đen chứ?

Ông Bộ trưởng đưa cho viên thanh tra một hộp thuốc đen vừa mới bóc và ông cũng châm lại tẩu thuốc đã tắt.

— Hẳn ông cũng ngạc nhiên lắm khi nghe bà nhà nói lại...

Point tìm cách mở đầu câu chuyện và cảm thấy không mấy hài lòng với lời nói của mình. Chuyện đang xảy ra giữa hai người kể cũng lạ kỳ. Trong căn phòng làm việc, cả hai cùng một khổ người, cũng gần cùng một tuổi, chăm chú nhìn nhau mà không hề muốn giấu giếm ý định. Hẳn người ta sẽ bảo hai người đang tìm kiếm những nét giống nhau, cùng cảm thấy bối rối và đang ngập ngừng nhận nhau là anh em.

— Ông Maigret này. Giữa hai ta với nhau, nhiều lời cũng chẳng ích gì. Tôi chỉ biết ông qua báo chí và qua những gì thiên hạ nói.

— Tôi cũng thế. Thưa ngài Bộ trưởng.

Point khoát tay như có vẻ muốn nói rằng ở đây, giữa hai người với nhau, nêu chức danh như vậy là không nên.

— Tôi đang gặp một điều nguy hiểm, cho đến bây giờ, chẳng ai biết chuyện ấy, chẳng ai nghe như vậy cả. Kể cả ngài Thủ tướng và ngay cả vợ tôi, người thường biết rõ công việc tôi làm mà cũng không hề hay biết và tôi lại phải nhờ đến ông.

Ông ngước mắt nhìn ra chỗ khác một lát hít một hơi thuốc và dường như có phần ngại vì câu nói sau cùng của mình. Biết đâu Maigret coi đó là một lời xu nịnh tầm thường hay nghĩ ông âm mưu gì đây.

— Tôi không muốn theo con đường hành chính nhờ đến ông giám đốc cảnh sát hình sự. Việc tôi nhờ ông đây không giống như mấy vụ việc khác. Không ai buộc ông phải đến đây và cũng không ai buộc ông phải giúp tôi cả.

Ông thở dài đứng dậy.

— Ông uống một ly chứ?

Rồi dường như mỉm cười, ông nói tiếp:

— Xin ông đừng ngại. Không phải tôi cố mua chuộc ông đâu. Chỉ có điều là tối nay thực tình tôi muốn uống một li.

Point qua phòng bên rồi trở lại cầm một chai rượu mới mở và hai cái ly, loại ly xoàng người ta thường dùng trong những quán rượu ở nông thôn.

— Rượu quê tôi đấy ông ạ. Mùa thu nào ông bố tôi cũng cất rượu cả. Loại này cũng đã được hai mươi năm rồi.

Cầm ly trong tay, hai người lại nhìn nhau.

— Chúc sức khoẻ ông.

— Chúc sức khoẻ ngài Bộ trưởng.

Lần này, Point dường như không nghe thấy những chữ cuối.

— Ông Maigret này, nếu như tôi không biết bắt đầu kể chuyện này từ đâu, điều đó không phải vì tôi thấy bối rối trước mặt ông, mà chỉ vì chuyện này cũng khó mà kể cho rõ ràng. Ông cũng thường đọc báo chứ?

— Vâng. Vào những tối tôi được nghỉ ngơi.

— Ông có theo dõi tình hình chính trị không?

— Ít lắm.

— Chắc ông cũng biết tôi không phải thuộc loại mà người ta gọi là chính khách chứ?

Maigret gật đầu xác nhận.

— Và dĩ nhiên ông cũng biết về thảm hoạ Clairfond rồi...?

Lần này, Maigret không thể không rùng mình và trên mặt ông lộ vẻ bực mình, nghi ngại, vì trông thấy ông Bộ trưởng cúi đầu nói, giọng nhỏ hẳn lại:

— Thật là bất hạnh ông ạ, nhưng đấy chính là việc tôi muốn nhờ ông.

Vừa mới đây thôi, khi ở trên tàu điện ngầm, Maigret đã cố đoán thử xem ngài Bộ trưởng muốn bí mật bàn với ông việc gì. Ông không nghĩ đến vụ này, vụ Clairfond mà tin tức đăng đầy các mặt báo cả tháng nay.

Nhà an dưỡng Clairfond được xây dựng ở vùng Thượng Savoie[1], giữa Ugine và Megève, độ cao trên bốn nghìn mét. Đây là một trong những công trình đẹp nhất xây dựng sau chiến tranh.

Cũng đã mấy năm qua rồi nên Maigret không còn nhớ rõ ai đã tung ra ý kiến xây dựng cho những trẻ em bất hạnh một công trình không thua kém gì các nhà an dưỡng hiện đại của tư nhân. Thời đó, người ta nói đến việc này khá nhiều. Một số người cho rằng việc này chỉ là một mưu đồ chính trị và Quốc hội đã nổ ra nhiều cuộc tranh luận sôi nổi. Một ủy ban đã được thành lập để nghiên cứu bản đề án lâu nay bị khước từ để cuối cùng được đem ra thực hiện.

Trước đây một tháng, thảm hoạ khủng khiếp nhất trong lịch sử đã xảy ra. Tuyết tan vào lúc không ai ngờ đến. Nước ở các dòng suối dâng lên rất nhanh. Một con sông nhỏ chảy ngầm dưới đất cũng dâng nước. Con sông này nhỏ đến độ chẳng ai ghi lên bản đồ nhưng đã phá tung nền của một dãy nhà an dưỡng Clairfond.

Ngay ngày hôm sau người ta bắt đầu điều tra nhưng chưa kết luận được gì. Các nhà giám định chuyên môn bất đồng ý kiến. Báo chí cũng vậy, tùy theo khuynh hướng chính trị của báo mà họ bảo vệ những luận điểm khác biệt nhau.

Một trăm hai mươi tám trẻ em đã bị thiệt mạng khi một toà nhà sụp và số khác phải sơ tán khẩn cấp.

Sau một phút lặng im. Maigret nói thật khẽ:

— Lúc xây Clairfond ông chưa tham gia Chính phủ phải không?

— Chưa. Tôi cũng không ở trong ủy ban của Quốc hội đã bỏ phiếu thông qua kinh phí. Thực tình mà nói, mãi đến những ngày gần đây, tôi mới biết việc này qua báo chí như mọi người thôi.

Point chần chừ một lát rồi hỏi:

— Ông cảnh sát trưởng này. Ông có nghe nói đến Bản phúc trình Calame chứ?

Maigret ngạc nhiên nhìn vị Bộ trưởng và lắc đầu.

— Ông sẽ được nghe nói đến. Người ta sẽ nói đến nhiều đấy. Tôi nghĩ rằng chắc ông không đọc những tuần báo không mấy tiếng tăm như tờ Tin đồn[2] chẳng hạn.

— Không bao giờ.

— Ông biết Hector Tabard chứ?

— Vâng. Tôi có nghe danh ông ta. Những đồng nghiệp của tôi ở đường Saussaies chắc hiểu rõ về ông ấy hơn tôi.

Maigret có ý nói đến cơ quan An ninh Quốc gia trực thuộc Bộ Nội vụ. Cơ quan này thường chịu trách nhiệm về những vụ việc có liên quan ít nhiều đến chính trị.

— Tabard là một nhà báo chẳng được ai công nhận cả. Tuần báo của hắn ta in toàn những thứ đồn đại nhảm nhí, là một tờ báo chuyên tống tiền... Ông đọc cái này đi, phát hành sáu ngày sau khi xảy ra thảm hoạ.

Dòng chữ ngắn nhưng đầy bí ẩn:

“Dưới sức ép của dư luận, một ngày nào đó liệu người ta có định tiết lộ nội dung của bản phúc trình không... ”

— Chỉ thế thôi à? - Maigret ngạc nhiên hỏi

— Đây là một đoạn trích của số tiếp theo:

“Ngược lại với ý kiến hầu như đã được chấp nhận chẳng phải là do chính sách đối ngoại, cũng chẳng phải do những biến cố ở Bắc Phi mà chính do Bản phúc trình Calame, Chính phủ hiện nay sẽ đổ trong nội mùa xuân này. Ai hiện đang giữ bản phúc trình này?”

Bản phúc trình Calame! - Những chữ này nghe thật buồn cười. Maigret vừa hỏi vừa mỉm cười. - Calame là ai thế?

Point không cười. Ông vừa gạt tàn trong tẩu ra một cái gạt tàn thuốc lớn vừa giải thích:

— Calame là một kỹ sư ở Trường Đại học Cầu cống. Nếu như tôi nhớ không lầm, ông ta mất cách đây hai năm vì bệnh ung thư. Mọi người ít biết đến ông nhưng ông lại rất nổi tiếng trong ngành cơ học ứng dụng và kiến trúc dân dụng. Từ Nhật cho đến các nước Nam Mỹ, người ta đều mời ông ấy đến để tham khảo ý kiến về những công trình lớn. Ông ta quả là một chuyên gia bậc thầy trong lĩnh vực sức bền vật liệu, đặc biệt về bê tông. Ông ta đã viết một công trình mà cả ông lẫn tôi đều không đọc, nhưng mọi kiến trúc sư đều phải mang bên mình: “Những chứng bệnh của bê tông”.

— Calame lo việc xây dựng Clairfond phải không?

— Một cách gián tiếp thôi. Tôi xin kể ông nghe theo trình tự riêng của mình. Như tôi đã nói với ông, tôi chỉ biết vụ này qua báo chí. Thậm chí tôi cũng không nhớ là tôi đã bỏ phiếu thuận hay chống lại đề án này cách đây năm năm nữa. Tôi phải tra cứu lại công báo mới phát hiện ra rằng tôi đã bỏ phiếu thuận. Tôi lại chẳng đọc tuần báo Tin đồn nữa. Chỉ sau khi có bài báo thứ hai này ngài Thủ tướng gọi riêng tôi đến và hỏi:

“Ông biết Bản phúc trình Calame chứ?"

Tôi đã thành thật trả lời không? Ngài Thủ tướng có vẻ ngạc nhiên và tôi tin rằng lúc ấy ngài nhìn tôi với vẻ ngờ vực.

“Thế nhưng bản phúc trình này lại nằm trong số công văn lưu trữ của ông đấy!" - Ngài bảo tôi.

Chính vào lúc ấy ngài nói cho tôi hay sự việc. Đã năm năm rồi, từ hồi người ta tranh luận về vụ Clairfond. Cũng vì ủy ban Quốc hội thiếu nhất trí nên một dân biểu mà tôi quên mất tên đã đề nghị nhờ một chuyên gia giỏi báo cáo về việc này. Ông ta nêu tên Giáo sư Calame của Trường Đại học Cầu cống Quốc gia và vị giáo sư này đã dành nhiều thì giờ nghiên cứu cái dự án và cũng đã đến vùng Thượng Savoie. Sau đó Giáo sư Calame đã viết một bản phúc trình mà theo đúng lệ, phải được chuyển cho ủy ban…

Maigret đã hiểu dần ra câu chuyện.

— Chắc hẳn phúc trình này gây bất lợi cho nhiều người lắm?

— Xin ông hãy thư thả. Khi Thủ tướng nói cho tôi nghe về vụ này. Ngài đã ra lệnh tìm kiếm bản phúc trình trong hồ sơ lưu trữ của Quốc hội. Đúng ra người ta phải tìm thấy bản phúc trình trong số tài liệu của ủy ban. Thế nhưng, không những không thấy bản phúc trình mà còn mất luôn một phần các bản báo cáo.

— Theo ông việc ấy có nghĩa gì?

— Có nghĩa rằng có một số người mong cho bản phúc trình không bao giờ được công bố. Xin ông đọc cái này.

Đó là một số đoạn mới trích từ báo Tin đồn. Tuy ngắn nhưng không kém vẻ doạ dẫm.

“Ông Nicoud có đủ sức để ngăn căn việc công bố Bản phúc trình Calame không?”

Maigret có biết đến tên Nicoud nhưng cũng như biết hàng trăm tên khác - chủ yếu là biết hãng Nicoud Sauvegrain bởi vì hầu như nơi nào có những công trình cầu cống hay đường sá đều thấy ghi tên hãng này.

— Chính hãng Nicoud Sauvegrain đó xây Clairfond.

Maigret bắt đầu cảm thấy ân hận vì đã đến đây. Nếu như ông có một mối thiện cảm hết sức tự nhiên với Auguste Point thì chuyện ông này kể lại làm ông thấy khó chịu. Giống như lúc ông phải nghe ai đó kể chuyện nhảm nhí trước mặt phụ nữ.

Bất đắc dĩ ông phải cố đoán vai trò của Point trong tấn thảm kịch đã làm thiệt mạng một trăm hai mươi tám trẻ em này. Suýt chút nữa thì ông buông ra câu hỏi khiếm nhã: “Thế ông làm việc gì trong chuyện này?”

Maigret đoán rằng có nhiều chính khách, có thể là cả những nhân vật cao cấp nữa đã dính líu đến việc này.

— Tôi cố gắng kết thúc nhanh việc này. Ngài Thủ tướng yêu cầu tôi phải tìm kiếm cẩn thận trong số hồ sơ lưu trữ của Bộ. Trường Đại học Cầu cống Quốc gia trực thuộc Bộ mà. Đúng lý ra, chúng tôi phải giữ ở đâu đó trong hồ sơ lưu của mình ít nhất là một bản sao của Bản phúc trình Calame.

“Bản phúc trình Calame" mấy chữ gây xôn xao dư luận này lại được nhắc đến.

— Và ông đã không tìm được gì cả?

— Vâng. Chúng tôi phí công phí sức lục lọi cả mấy tấn giấy tận trên tầng thượng.

Ngồi trong ghế bành. Maigret thấy bồn chồn, khó chịu. Bộ trưởng Point nhận ra ngay.

— Chắc ông cũng chẳng thích gì chính trị?

— Vâng, tôi xin thú nhận điều ấy.

— Tôi cũng vậy. Nói thì thực có vẻ lạ nhưng chính vì để chống lại chính trị mà cách đây mười hai năm tôi đã ra ứng cử. Ba tháng trước đây, khi được mời tham gia nội các, tôi chấp thuận vì cứ nghĩ rằng mình sẽ đem lại chút trong sáng đẹp đẽ cho công việc chung, vợ tôi và tôi chỉ là những con người bình thường. Ông trông chỗ ở của chúng tôi ở Paris đây. Từ khi là dân biểu, tôi lưu lại đây trong các kỳ họp ở Quốc hội. Đây đúng hơn là một chỗ tạm trú cho kẻ độc thân. Chúng tôi có nhà ở Roche sur Yon và đáng ra vợ tôi ở lại đó nhưng rồi chúng tôi không quen sống xa nhau.

Point nói rất tự nhiên. Giọng không biểu lộ chút xúc cảm nào.

— Từ khi tôi làm Bộ trưởng một cách chính thức thì chúng tôi ngụ ở cơ quan Bộ, đại lộ Saint Germain, nhưng chúng tôi thường tranh thủ lánh đến đây, nhất là vào ngày chủ nhật.

Khi gọi điện cho ông từ một buồng điện thoại công cộng, điều này chắc bà nhà đã nói với ông. Tôi đoán không lầm thì bà nhà ông và bà nhà tôi cũng cùng một kiểu cả. Tôi xin nói là nếu như tôi phải gọi điện cho ông từ một buồng điện thoại công cộng cũng bởi vì tôi ngại người ta nghe trộm. Chẳng biết đúng sai thế nào nhưng tôi cứ tin rằng việc thông tin liên lạc của Bộ mà có thể của căn hộ này nữa đều được ghi lại ở một nơi nào đó mà tôi thấy cũng chẳng phải việc để tự hào, tối nay trước khi đến đây tôi đã vào một rạp cinéma để ra qua một cửa khác. Rồi tôi đã đổi taxi hai lần. Tuy thế, tôi cũng chẳng dám đảm bảo là căn hộ này không bị canh chừng. Khi đến đây, tôi không trông thấy ai cả.

Giờ đây Maigret thấy có phần thương cảm Point. Từ nãy giờ Point đã cố kể chuyện với giọng dửng dưng. Khi đến phần chính yếu của buổi gặp này, Point lại nói loanh quanh, y như ông ta ngại rằng Maigret sẽ nghĩ sai về mình.

— Hồ sơ lưu ở Bộ bị xáo tung lên. Chỉ có Chúa mới biết được trong đó có thứ giấy tờ gì. Trong thời gian đó, ít nhất cũng hai lần trong một ngày, ngài Thủ tướng điện hỏi tôi và tôi nghĩ rằng chắc ngài cũng chẳng mấy tin tôi nữa. Ở Trường Đại học Cầu cống người ta cũng tiến hành tìm kiếm mà chẳng thu được kết quả gì cho đến sáng hôm qua.

Maigret không thể không buông ra câu hỏi như người ta vẫn hỏi hồi kết một cuốn tiểu thuyết.

— Tìm thấy Bản phúc trình Calame rồi ư?

— Vâng! Dẫu sao có lẽ cũng đúng là Bản phúc trình Calame.

— Ở đâu?

— Trên tầng thượng của nhà trường.

— Một giáo sư tìm ra nó ư?

— Không. Một ông giám thị. Chiều hôm qua tôi nhận được một danh thiếp ghi tên Piquemal. Tên này tôi không nghe quen. Trên danh thiếp có ghi bằng bút chì: “Xin gặp về Bản phúc trình Calame”. Tôi mời ông ta vào ngay. Thoạt tiên tôi thận trọng cho cô Blanche ra ngoài. Cô này làm việc cho tôi đã hai mươi năm nay, cô người ở vùng Roche sur Yon và đã làm việc trong căn phòng luật sư của tôi. Ông sẽ thấy chuyện ấy cũng đáng lưu ý lắm. Ông chánh văn phòng của tôi cũng không có ở trong phòng. Một mình tôi với người đàn ông trung niên. Mắt ông ta cứ nhìn chằm chặp. Ông ta đứng trước mặt tôi nách kẹp một gói giấy và không nói một lời nào. Hơi lo ngại vì tôi thoáng nghĩ là mình đang gặp một kẻ điên, tôi hỏi:

“Ông là Piquemal?”

Ông ta gật đầu.

“Mời ông ngồi.”

“Thôi cũng chẳng cần nữa."

Tôi có cảm nghĩ rằng trong ánh mắt ông ta không thấy có một chút thân thiện nào. Ông ta hỏi tôi với giọng khá cộc cằn:

“Ông là Bộ trưởng à?"

“Vâng!"

“Tôi là giám thị ở Trường Đại học Cầu cống!"

Ông ta bước tới hai bước, chìa gói giấy cho tôi và cũng với giọng ấy, nói:

“Ông mở xem đi và cho tôi một biên nhận."

Trong gói giấy có một tài liệu chừng bốn mươi trang thấy rõ là giấy cao carbone: Phúc trình về việc xây dựng nhà an dưỡng ở Clairfond vùng Thượng Savoie. Không có chữ ký nhưng tên Julien Calame cùng với học vị cũng như ngày tháng được đánh máy ở trang cuối.

Piquemal vẫn đứng, lập lại:

“Tôi xin một biên nhận."

Tôi viết tay một biên nhận. Ông ta gấp lại, nhét vào cái ví cũ và đi ra cửa. Tôi gọi giật ông ta lại:

“Ông tìm ra giấy tờ này ở đâu?"

“Ở tầng thượng."

“Chắc là người ta sẽ mời ông báo cáo lại bằng văn bản hẳn hoi đấy."

“Người ta biết chỗ tôi ở."

“Ông không cho ai xem tài liệu này đấy chứ?"

Ông ta nhìn vào mặt tôi, tỏ vẻ khinh miệt.

“Không."

“Thế có bản sao nào khác nữa không?"

“Không, theo tôi biết."

“Xin cảm ơn ông!"

Point lúng túng nhìn Maigret.

— Chính đến đây tôi phạm một sai lầm - Point tiếp tục nói - Tôi cho rằng cũng bởi nhân vật Piquemal kỳ dị đó, vì tôi cứ nghĩ cử chỉ của Piquemal giống hệt một tay vô chính phủ khi ném bom phá hoại.

— Ông ta bao nhiêu tuổi? - Maigret hỏi.

— Có lẽ bốn mươi lăm. Ăn mặc cũng xoàng xĩnh thôi. Cặp mắt ông ta nhìn cứ như là mắt kẻ điên hoặc một tay quá khích.

— Và ông đã tìm hiểu chuyện ông ta kể chứ?

— Không phải ngay lúc đó vì đã năm giờ. Trước tiền sảnh còn bốn, năm người khách. Tôi còn phải chủ trì một bữa tiệc với mấy kỹ sư nữa. Khi biết khách về rồi cô thư ký trở lại ngay và tôi cất bản phúc trình vào cặp riêng. Tôi suýt gọi điện cho ngài Thủ tướng. Tôi xin cam đoan với ông là nếu như tôi đã không gọi điện cũng chỉ vì tôi cứ tự hỏi không hiểu tay Piquemal này có phải là người điên không? Không có gì chứng minh được tài liệu này đúng là Bản phúc trình Calame cả. Hằng ngày ta cũng thường phải tiếp chuyện với lắm kẻ bất bình thường.

— Tôi cũng thế!

— Như vậy ông có thể hiểu được tôi đấy. Việc gặp gỡ tiếp xúc kéo dài đến bảy giờ tối. Tôi chỉ còn chút ít thời gian ghé nhà thay quần áo.

— Ông có nói với bà nhà về chuyện Bản phúc trình Calame không?

— Không. Tôi mang theo cặp. Tôi có báo cho bà ấy biết là ăn tối xong tôi sẽ ghé lại phòng ở đường Pasteur này. Tôi cũng thường ghé như thế! Chủ nhật chúng tôi hay đến đây. Nhà tôi chăm chút lo bữa ăn tối riêng cho hai chúng tôi. Ngoài những buổi ấy tôi cũng đến đây một mình khi có việc quan trọng hoặc khi cần yên tĩnh.

— Thế ông dự tiệc tối ở đâu?

— Ở cung Orsay!

— Ông có mang cặp theo không?

— Cặp có khoá cẩn thận và được người lái xe của tôi trông coi. Anh ta là người tôi rất tin cậy.

— Sau đó ông về lại đây ngay à?

— Lúc ấy khoảng mười giờ rưỡi. Mấy vị Bộ trưởng tránh được nạn khỏi phải ở lại sau bài diễn văn.

— Và khi đến đây ông cũng đang đóng bộ complet cũ?

— Không. Tôi đã thay bộ khác để đến đây.

— Ông đã đọc bản phúc trình rồi chứ?

— Vâng.

— Theo ông, đấy có đúng là Bản phúc trình Calame không?

Ông Bộ trưởng gật đầu.

— Nếu như công bố bản phúc trình chắc vụ này cũng sẽ như một quả bom nổ, ông nhỉ?

— Rõ rồi.

— Vì sao thế?

— Bởi vì giáo sư Calame đã thông báo tai họa sẽ xảy ra. Tôi không tài nào kể lại hết cho ông mọi lập luận của Giáo sư Calame cho dù tôi đang được làm việc ở Bộ Công chính, nhất là những chi tiết kỹ thuật mà Giáo sư dùng để dẫn chứng. Giáo sư luôn luôn đứng ở vị trí chống lại bản đề án xây dựng và ai đọc bản phúc trình này cũng phải chống lại việc xây dựng nhà an dưỡng Clairfond theo kiểu người ta dự kiến hay ít nhất cũng sẽ phải yêu cầu điều tra tìm hiểu thêm, ông hiểu chuyện chứ?

— Tôi bắt đầu hiểu ra.

— Tôi không rõ làm thế nào mà báo Tin đồn biết được có tài liệu này. Họ có trong tay một bản sao chăng? Tôi cũng chẳng biết nữa. Cứ như người ta hiểu người duy nhất vào chiều hôm qua có một bản phúc trình là tôi.

— Thế việc gì đã xảy ra?

— Gần nửa đêm, tôi muốn gọi điện cho Thủ tướng nhưng người ta trả lời ngài đang bận dự một buổi họp chính trị ở Rouen. Tôi định gọi...

— Và ông đã không gọi ư?

— Không. Bởi vì tôi ngại người ta nghe trộm. Tôi có cảm tưởng như đang chứa ở đây cả khối chất nổ không những chỉ đủ để lật nhào cả Chính phủ mà còn làm hại đến uy tín, danh dự của nhiều đồng nghiệp của tôi. Thật khó mà chấp nhận được việc một khi đọc xong bản phúc trình mà lại cứ khư khư giữ lấy.

Maigret nghĩ là mình đoán được phần tiếp theo.

— Ông để bản phúc trình trong căn hộ này à?

— Vâng.

— Trong phòng giấy này ư?

— Phòng có khóa. Tôi nghĩ để ở đây an toàn hơn ở Bộ. Ở đằng ấy có quá nhiều kẻ hay lui tới mà tôi lại không biết rõ họ.

— Trong lúc ông đọc bản phúc trình thì người lái xe vẫn ở dưới đường chứ?

— Không! Tôi cho anh ta về rồi. Đến dọc đường thì tôi dùng taxi.

— Khi về ông có kể cho bà nhà không?

— Không. Tôi cũng chẳng hở môi với ai về chuyện này cho đến ngày hôm sau, lúc một giờ trưa khi gặp Thủ tướng ở Quốc hội. Khi ấy đứng bên khung cửa sổ, tôi báo cho Thủ tướng biết.

— Thủ tướng tỏ ra xúc động chứ?

— Tôi nghĩ là có đấy. Ai ở cương vị ấy đều thế cả thôi. Ngài Thủ tướng đề nghị tôi đi lấy bản phúc trình và rồi đích thân đem đến văn phòng ngài.

— Và bản phúc trình không còn ở trong phòng ông nữa?

— Vâng. Bản phúc trình đã biến mất.

— Khoá cửa bị phá ư?

— Không. Tôi không nghĩ vậy.

— Ông đã gặp lại Thủ tướng chưa?

— Chưa. Tôi cảm thấy thực sự không gượng dậy nổi. Tôi nhờ đưa đến Bộ và huỷ bỏ mấy cuộc hẹn. Bà nhà tôi điện cho Thủ tướng báo rằng tôi không được khoẻ, tôi bị lên cơn bất tỉnh và sẽ gặp Thủ tướng vào ngày mai.

— Bà biết chuyện chứ?

— Lần đầu tiên trong đời tôi nói dối bà ấy. Tôi không nhớ chính xác đã nói với bà ấy chuyện gì.

— Bà biết ông ở đây chứ?

— Bà ấy nghĩ rằng tôi đi họp. Tôi đang tự hỏi rằng ông có hiểu được hoàn cảnh tôi bây giờ không. Bỗng dưng tôi bị rơi vào cảnh cô đơn với cảm giác ngay khi mở miệng nói mọi người sẽ kết án mình. Sẽ không ai tin chuyện tôi kể lại cả. Tôi đã giữ Bản phúc trình Calame trong tay. Ngoài Piquemal ra chỉ một mình tôi cất giữ bản phúc trình này. Vậy mà trong mấy năm vừa rồi, ít ra cũng ba lần, tôi đã được mời về chơi nhà Arthur Nicoud, tay thầu đang được nhắc tên đấy, về chơi ngay ở dinh cơ riêng của Nicoud ở Samois.

Bỗng nhiên ông Bộ trưởng nhũn cả người. Vai xuôi xuống, cằm phị ra. Dường như ông muốn nói với Maigret: “Thôi, làm được gì thì tùy ở ông. Còn tôi, tôi bất lực rồi."

Maigret, không đợi xin phép chủ nhân, rót cho mình một ly đầy rượu mạnh. Chỉ khi đưa ly lên môi ông mới nghĩ đến việc rót đầy ly ông Bộ trưởng