Phần Thứ Hai BÍ QUYẾT ĐỂ THÀNH CÔNG
- Ba má rất hãnh diện vì con, Jesse à. Mẹ tôi nói vậy, khi thấy tôi từ trường Đại Học trở về bằng lối quá giang xe. Ba má hãnh diện có người con đậu bằng Đại Học. Ông Larry Anderson, vị Thanh tra học chính mới của quận, đang đợi con đó. Ông có một nhiệm sở hay hay dành cho con. Năm năm đã trôi qua kể từ khi tôi về dạy học ở Lonesome. Năm năm khá vất vả: Trước hết tôi phải học cho xong niên học chót của tôi ở trường Trung học Land sburgh. Kế đó, tôi tới làm việc tại xưởng máy dát kim loại ở Auckland một năm. Mới vào chỉ là lao công, sau đó tôi trở thành thợ rèn. Ba năm cuối, tôi dành riêng để học cho hết chương trình Đại học. Tôi đã đậu bằng Cử nhân tại Đại học đường Lincoln Memorial, nơi mà tôi chưa hề theo học một khoá sư phạm nào. Tôi muốn là người đầu tiên trong gia tộc tốt nghiệp Đại học, sau khi học đầy đủ chương trình. Tôi không có ý muốn trở lại làm nghề giáo viên thôn ấp nữa.
Thực vậy, tôi đã rời khỏi xưởng Auckland với ý định sẽ trở lại đó làm nghề thợ rèn. Nhờ có nghề ấy, tôi sẽ lãnh 7 đô la một ngày, sánh với Bill Coffee thì còn thua xa; nhưng với bằng cấp của tôi vẫn có hy vọng tự tạo cho mình địa vị khả quan trong xí nghiệp. Tôi đã đọc một câu chuyện tương tự trong một tờ báo: Một người bắt đầu là lao công, sau trở thành một vị chủ tịch một xưởng thép lớn. Tại sao tôi lại không làm được như thế? Tôi sẽ về làm ở xưởng máy Auckland và, thay vì mua chiếc xe quá lớn để chạy trên những con đường ngoằn ngoèo, tôi sẽ dùng tiền lương để đầu tư vào xí nghiệp.
Tôi đã lấy quyết định ấy trong đêm vào ngủ trong một nhà thờ. Tôi theo con đường lớn trở về nhà, bỗng cơn giông ập xuống. Những tia chớp sáng ngời và tiếng sấm vang động trong những đám mây đen rất thấp. Trời đột nhiên tối sầm ngay lại. Tôi đã xin vào trú đêm ở nhiều nhà, nhưng đều bị từ chối. Tôi phải tiếp tục đi trong mưa khá lâu. Nhưng rồi tôi thấy cái nhà thờ khi một tia chớp loé lên. Cửa thánh đường không khoá, tôi đi thẳng vào. Những tia chớp kế tiếp cho thấy một cái mền phủ trên chiếc quản cầm. Tôi rút lấy chăn ấy. Nằm dài trên chiếc ghế gỗ, quấn kín trong chiếc mền tạm bợ ấy, tôi mở mắt nhìn những làn chớp sáng rực cả nền trời bên ngoài giáo đường cổ kính. Tôi nằm suy nghĩ về bước đường tương lai của mình. Nhất định không làm nghề gõ đầu trẻ nữa. Tôi sẽ trở lại xưởng thép ở Auckland có sẵn việc làm dành cho tôi. Thời kỳ ấy nước Mỹ đang trên đà phát triển mạnh mẽ, nên đối với một thanh niên có tham vọng muốn làm việc và muốn thành công có thể nói rằng những cơ hội tốt chẳng thiếu gì. Với kinh nghiệm bản thân, tôi biết chắc như vậy.
Sau khi bị hai trường Đại học từ chối ghi tên, tôi đã quá giang xe đi tới một trường Đại học nhỏ chưa từng nghe nói tới. Tôi chỉ còn tất cả 29 đô la trong túi, nhưng tôi vẫn tin rằng thế nào cũng có trường chấp nhận cho tôi vào học. Cái trường Đại học ấy do cố Tổng thống Lincoln yêu cầu Tướng Howard thiết lập cho con dân xứ sở của ông. Tôi phải làm việc lao động để trả học phí. Với những việc làm 27 xu một giờ, tôi mua sách vở, áo quần, trả tiền học và cơm trọ. Thời gian học nơi đây, tôi đã làm đủ mọi việc: nào là công tác dẫn nước từ núi về, quét dọn những lỗ ga và miệng cống, xén cỏ trên các sân và vườn rộng lớn quanh Đại học cho tận các góc kẹt. Tôi đã làm việc tại các trang trại, các lò làm sữa, rửa chén bát, phân phát thơ tín và đặc biệt trọn một năm chuyên rửa chén đĩa và lau chùi xoong chảo. Tôi đã ghi tên để học nửa ngày thôi. Tôi đã đi làm đá và xung vào đoàn thợ làm việc nặng. Chúng tôi làm cho nổ văng ra những tảng đá lớn, bên dưới cánh rừng bách hương của thung lũng Powell, kế đó mới đập vỡ ra bằng búa tạ. Sau đó mới đập nhỏ để giao cho sở kiều lộ Tennessee. Hầu như không có việc gì tôi không làm qua, khi tòng học tại Đại học đường Lincoln Memorial. Sự giúp đỡ tài chánh duy nhất trong những năm ấy là hai tờ một đô la mẹ tôi gửi cho. Từ giã Lincoln Memorial, quá giang xe về tới nhà, tôi chỉ còn mười đô la trong túi, nhưng thiếu nhà trường những một trăm. Tuy vậy tôi đã lấy được mảnh bằng với điểm số nhiều hơn số điểm để đậu “Bình”.
*Sáng thứ hai, ông Larry Anderson mở cửa để vào văn phòng đã thấy tôi ngồi chờ.
- Chắc ông là Jesse Stuart phải không? Ông hỏi và chìa tay cho tôi.
- Thưa ông thanh tra, chính tôi.
- Vào đây. Tôi có nói chuyện với ông cụ nhà ta về ông. Có một chỗ hay lắm. Tôi cho rằng nơi đó rất thích hợp với ông. Ông cũng biết đấy, ở miền Đông quận nhà hiện có một hệ thống xe buýt để chuyên chở học sinh đến trường Trung học Land sburgh. Một hệ thống khác ở miền Tây thì phục vụ cho trường Maxwell. Tuy vậy, toàn quận chỉ có hơn 50 cây số đường cái xe buýt chạy được còn bao nhiêu đều là đường rất nhỏ hẹp. Vì vậy vẫn còn những vùng rộng lớn thiếu phương tiện giao thông. Học sinh các nơi này không thể nào học lên, sau khi qua hết các lớp tiểu học, trừ phi cha mẹ chúng đủ khả năng cho con em ở trọ gần các trường Trung học hiện hữu. Vì lẽ ấy, tôi đã thiết lập ba trường Trung học hương thôn trong các vùng trên. Tôi muốn ông phụ trách trường Winston. Vì học trò không có điều kiện tới trường thì ta phái giáo sư tới chúng nó.
- Trường Winston sẽ có thêm những giáo sư nào?
- Không có ai khác, chỉ có ông thôi. Ông sẽ có mười bốn học sinh và lương tháng 100 đô la.
Tôi suy nghĩ một lát. Ngày học ở Trung học Landsburgh tôi ghét nhất các môn La Tinh, đại số và hình học. Có hôm tôi đã dám nói với ông Hiệu trưởng Herbert là mấy môn ấy không nên coi là những môn bắt buộc. Lẽ ra không nên dạy các môn ấy, vì tôi cho rằng sẽ chẳng bao giờ giúp ích gì cho cá nhân tôi. Ông bảo tôi những gì học ở bậc trung học sẽ có ích lợi về sau…
- Xin ông cho biết tôi phải dạy những môn gì tại Winston?
- Các môn đại số, hình học, sử ký, tiếng La tinh và tiếng Anh.
- Tôi ngại không đủ khả năng để dạy môn đại số.
- Nhưng ở Đại học, ông có những điểm số rất tốt về môn ấy kia mà. Tôi có bổn nhì học bạ của ông đây. Vì vậy tôi muốn ông nhận nhiệm sở ấy.
Tôi không dám nói cho ông biết, tại Lincoln Memorial, tôi ở chung phòng với M.D. Gardner, người đã đoạt giải thưởng 25 đô la dành cho sinh viên xuất sắc nhất về toán học. Chính Gardner làm bài đại số cho tôi, còn tôi phải viết bài bình giảng cho anh.
- Thôi được, tôi nhận về dạy ở Winston.
*Chiều thứ bảy, đầu tháng chín, tôi đáp chuyến xe “tốc hành” đi Winston. Đây là chuyến xe chở khách và chở thư tín trong vùng. Tôi đem theo một va li lớn đựng quần áo và những học cụ dành cho trường. Xe chật ních những hành khách: đàn bà ngồi lên đùi chồng, con cái ngồi dưới sàn xe hay trên các bao thư. Trên đầu chúng tôi có mui xe che nắng, nhưng hai bên hông không có gì che gió và cản bụi, mà bụi thì cuồn cuộn bốc lên từ phía sau xe như những đám mây mù. Vì vậy, khi xe chạy chậm, bụi quật lại khiến hành khách muốn nghẹt thở. Chúng tôi vẫn di chuyển trên con đường khuất khúc như thời trước người ta đi bằng xe bốn ngựa. Sau khi men theo sông Sandy, leo đèo Raccon, vượt qua rặng núi, chúng tôi đi xuống thung lũng Hinton. Hết xuống lại lên, phải vượt qua một quả núi nữa mới tới Winston. Xe dừng trước một cửa tiệm tạp hoá kiêm bưu trạm. Tôi tìm ngay đến nhà ông Baylor, một ngôi nhà lớn sơn trắng, nơi tôi đến ở trọ. Đưa tôi lên xem pòng dành riêng cho tôi rồi, Snookie và Robin Taylor, hai đệ tử tương lai cùng tôi đi tới trường. Tới nơi, tôi không thể ngờ được ngôi nhà nhỏ hư tệ và dơ dáy kia lại là ngôi trường Trung học Winston. Nhà này trước kia là trụ sở Chi hội Tam Điểm. Hội này đã giải tán trên hai mươi năm rồi nhưng trụ sở vẫn gắng đứng vững chống chọi với nắng mưa. Mới bước vào khỏi cửa, một con dơi bay vù ra, suýt va vào đầu tôi. Trong góc cửa sổ có một ổ ong vò vẽ và mấy tổ chim. Một con chích choè hốt hoảng bay vụt ra ngoài qua một tấm kính vỡ. Ra khỏi lớp, tôi đi xem các cầu tiêu và sân chơi. Cái thung lũng này ít ra cũng ba bốn trăm mẫu, vậy mà học trò ở đây chỉ được hơn trăm thước làm sân chơi. Hai cầu tiêu nằm ở hai đầu cái sân bé nhỏ ấy. Cỏ dại mọc cao gần đến mái trường và trong cầu tiêu thì không thiếu gì hình vẽ tục tĩu. Tôi bảo Snookie trở về lấy nước, chổi, bàn chải, xà bông và cái phạng. Ba thày trò bắt tay vào việc. Chúng tôi quét lớp học từ trên trần, đến mấy bức tường, cửa lớn, cửa nhỏ và nền nhà. Xong, lại ra dội rửa quét dọn mấy cầu tiêu. Tôi dùng phạng phát quang cái sân, rồi lấy cào vun đống các cây cỏ nằm la liệt khắp nơi. Với cái cuốc, chúng tôi đào bật rễ cỏ và cây lên. Thế là tất cả đều sẵn sàng để khai trường vào sáng thứ hai. Khi chúng tôi đang dọn dẹp ngoài sân, một thanh niên dáng đi õng ẹo, vẻ mặt thung dung, dừng lại ngoài đường, im lặng nhìn. Tóc nó xoã dài, mặt đầy tàn nhang, đôi mắt sáng lạ kỳ. Quần áo không đúng với khổ người nên rộng thùng thình. Thấy nó, Snookie cất tiếng:
- Budge, đi đâu vậy mày?
- Mạnh khoẻ không bạn?
- Thứ hai tới, mày có đi học không?
- Nhất định là tao sẽ có mặt.
- Này, giáo sư của chúng ta đây, thày Stuart. Xin giới thiệu với thày, bạn Budge Waters.
- Vui mừng được biết em. Tôi nói.
Quả thật tôi chưa thấy đứa nhỏ nào như Budge. Lúc đi nó có vẻ như lấy tay bơi trong không khí. Hắn nhìn chúng tôi làm một chặp rồi bỏ đi, không nói một lời. Nó đi rồi, tôi bảo Snookie:
- Mới rồi em nói đùa đấy chứ? Có thật thằng ấy sẽ tới học không?
- Dạ thật mà. Sáng thứ hai hắn sẽ tới trước mọi người cho mà xem. Hắn tới từ lúc hừng đông lận.
- Nhà nó xa không?
- Cách đây lối mười cây số.
- Thế ở nhà nó không phải làm gì cả hay sao? - Ồ, thưa có chứ. Ba má nó cấy bốn mẫu thuốc, lại trồng thêm bắp và mía nữa. Ông già Budge đâu có sợ việc. - Có lẽ vậy, nhưng ít ra hắn cũng phải biết bây giờ là học theo bậc trung học chớ.
- Thày đừng ngại. Nếu thày không cẩn thận, có khi hắn sẽ giảng bài cho thày đó.
*Sáng thứ hai, cùng đi với Snookie và Robin, tôi tới trường sớm hơn một giờ. Thế mà đã có mặt đông đủ mười hai học sinh đó rồi. Không có em nào đi chân đất và tất cả đều ăn bận đàng hoàng, ngoại trừ Budge. Tuy quần áo mới và sạch sẽ, nhưng vẫn lùng phùng trên thân thể ốm nhom của nó. Một xe hơi mới đậu gần trường, hai con ngựa đẹp cột dưới cây bạch phong. Học sinh tiến tới và tự giới thiệu. Tất cả có sáu gái và tám trai.
Tôi viết thời khoá biểu trên bảng cho học sinh chép. Ngày đầu, tôi cho bài làm và giảng giải sơ lược mấy bài học. Với mười bốn học sinh và năm thời dạy, mỗi thời 45 phút, tôi thấy không đến nỗi mệt. Chả bù với ngày còn dạy ở Lonesome, ngày nào cũng có gần năm mươi học sinh đủ các trình độ. Nhưng chẳng bao lâu, tôi biết ngay cái nhóm học sinh thưa thớt này làm khó cho tôi rất nhiều. Khi về dạy ở Lonesome, tôi vừa học xong ba năm Trung học, nghĩa là đi trước ba năm những học sinh cấp tám. Nhưng về phương diện văn hoá tổng quát, sự xa cách còn nhiều hơn nữa. Đối với đám học trò ở Winston, tôi có những tám năm đèn sách hơn chúng, nên khi nhận nhiệm sở này, tôi yên trí là giữa tôi và chúng, sự cách biệt về trình độ còn ghê gớm hơn. Buồn thay, ngay giờ sử ký đầu tiên, tôi đã có dịp nhận thấy trò Budge còn biết nhiều hơn những điều tôi giảng giải, hắn đi ngược giòng lịch sử, nói tới các vì vua khai quốc của cổ Ai-Cập, nói rõ tên thời gian trị vì và những công trình các vị ấy đã làm. Tôi hỏi Budge có phải nó đã học môn này rồi chăng? Hắn nói không phải học, hắn đã đọc hết tất cả các sách Trung học vào dịp nghỉ hè. Môn nào hắn thấy cũng dễ, chỉ có môn đại số là khó thôi. Muốn thử tài hắn, tôi bảo hắn đọc hai trang sử ký. Xong rồi, tôi cầm lấy cuốn sách, bảo hắn thuật lại. Hắn nói lại gần đúng từng chữ trong hai chương ấy. Tôi lật qua đoạn khác, bảo hắn đọc luôn ba trang rồi nói lại những điều hắn nhớ, hắn đọc lại một lèo như đọc bài thuộc lòng. Tôi biết có loại ký ức thị giác, bây giờ mới thấy tận mắt. Ngoài ra Budge còn có thêm trí nhớ dai kinh hồn.
*Trong số học trò tôi, năm đứa là con nhà nông, sống nhờ hoa mầu trồng được. Billie Leonard, mỗi ngày đi mười bốn cây số tới trường trên lưng ngựa, là con một người thợ mỏ. Một đứa là con một ông giáo làng, lương tiền thiếu thốn, ngày mùa ông phải đi làm mướn. Sang hơn hết là con trai và con gái ông Phó cảnh Sát Trưởng Quận này. Trước khi được bổ nhậm vào chức vụ này, ông cũng là một dân cày. Tóm lại, phụ huynh học sinh ở đây không có người nào học cao, không ai có bằng tú tài. Đa số chỉ học xong ở trường làng rồi thôi, nhưng sự hiểu biết của họ nằm trên phương diện khác. Họ biết rõ đất đai và biết chọn thứ hoa màu thích hợp với nó. Họ là những nhà nông tài giỏi nhờ học hỏi nơi kinh nghiệm mà thôi.
Nhà cửa ở Tiber Valley khác xa nhà cửa ở Lonesome. Có lẽ nhờ đất đai phì nhiêu hơn và cũng vì các chủ trại ở đây biết dùng những dụng cụ và áp dụng những phương pháp canh tác tân tiến hơn. Họ coi đất đai như da thịt, như khí huyết của họ. Trước đây một trăm năm mươi năm tổ tiên họ đã tới sinh cơ lập nghiệp ở thung lũng này. Từ đó thế hệ này tới thế hệ khác kế tiếp nhau khai thác ruộng vườn, do tổ phụ để lại. Chẳng có gì thay đổi, duy có trang trại ngày một thu hẹp lại vì sự phân chia cho con cái đời nọ qua đời kia. Bây giờ không còn những trại rộng lớn như xưa, nhưng mỗi gộp đá, mỗi lùm cây, mỗi khe suối đều mang nặng bao nhiêu kỷ niệm đối với đồng bào địa phương.
Nhà nào ít người hoặc có kẻ ngã bịnh không gặt hái kịp thời, mấy nhà kế cận liền tới tiếp tay ngay. Họ hoà hợp và giúp đỡ lẫn nhau như vậy đó. Vùng này có bốn giáo phái và bốn thánh đường khác nhau, nhưng chẳng ai để ý xem người láng giềng đi nhà thờ nào. Đó là việc riêng của người ấy và nếu ông ta không theo phái nào cả thì cũng không ai chỉ trích. Thiên đường chỉ có một, theo đạo nào rồi cũng tới đó mà thôi. Sau kinh nghiệm não lòng ở Lonesome, tôi không ngờ lại có nơi phong tục và dân trí khác hẳn như vậy, nhất là hai nơi chỉ cách nhau trên bốn chục cây số. Sau hai tuần giảng dạy, tôi thấy mình bắt đầu hiểu về đại số, hình học phẳng và cổ ngữ La Tinh. Tôi không phải băn khoăn đối với học trò nữa; điểm chính yếu là phải tìm hiểu trước và cao hơn chúng. Công việc sẽ dễ dãi hơn và tôi không phải vất vả, nếu có nhiều sách đưa cho chúng dùng. Trường không có thư viện và chúng tôi chỉ có một cuốn tự điển và một cuốn bách khoa. Chưa hết hai tuần, chúng đã đọc hết những sách tôi đem theo cho chính tôi và chúng đòi hỏi thêm sách khác. Vì thế thứ bảy kế đó tôi phải đáp xe về nhà lấy thêm. Chuyến xe tốc hành chỉ đi đến Landsburgh, tôi phải đi bộ tám cây số để về nhà. Hôm sau nhằm chủ nhật, không có thư nên xe tốc hành không chạy. Tôi lại phải đi bộ từ nhà đến bến đò Sandry và xin quá giang xe về Winston. Đi đứng như vậy mệt lắm nhưng không thể từ nan được, vì học trò quá khao khát đọc sách.
Ngày đó đã có tài liệu chỉ dẫn các sách thích hợp với từng lứa tuổi, nhưng tôi không biết. Tôi nhét đầy va li những sách tôi ưa đọc của các nhà văn Tolstoi, Melville, Tchekov Hardy, Sinclair Lewis, Emerson, Hamlin Ga rland, Koe v.v…
Sáng thứ hai, tôi đưa tất cả mớ truyện ấy cho học trò chọn lựa tùy thích. Tôi chỉ căn dặn chúng nó là sách của tôi, nên giữ gìn cẩn thận, xem xong đổi lẫn cho nhau và không xem nữa thì trả lại tôi. Budge Waters chọn ngay tập truyện dày nhất “Chiến Tranh và Hoà Bình”.
Mặc dầu tôi đã cung ứng cho học trò những sách và truyện ấy, chúng vẫn đeo theo tôi hỏi về đủ mọi chuyện. Tôi tiếc rằng ngày ở Trung và Đại học không siêng năng hơn nữa. Nếu ngày ấy tôi chịu khó học tất cả các bài, các môn thì bây giờ tôi đã không phải học lại, hay ôn lại những bài đã quên. Đây là lần đầu tôi thấy một đám học sinh Trung học “đột kích” giáo sư đáo để như vậy. Bình thường các vai trò phải đổi ngược lại mới đúng. Đôi khi tôi lúng túng và tự hỏi mình có trí nhớ không hay là mình chẳng hiểu biết gì hết?
*Khi lá cây trong thung lũng khởi sự chuyển màu, tôi dẫn học trò đi du ngoạn khá xa. Tan học là mấy thày trò thả bộ đi lên các triền núi mà cỏ cây đã khoác áo mùa thu. Chúng tôi đem theo thức ăn và đốt lửa giữa kẽ đá để nướng lại cho nóng. Leo lên tận đỉnh núi đâu phải chuyện dễ, thế mà đôi khi nữ sinh cũng xin theo. Chúng tôi ngồi trên cao vừa ăn vừa tán dóc và ngắm cảnh dưới chân mình. Những rặng núi quanh đây có nhiều đá nên ở lưng chừng rặt có một loại cây sồi trắng, một loại cây rất khoẻ lấn át tất cả các loại khác. Tuy vậy, lên gần đỉnh núi, sồi trắng phải nhường chỗ cho rừng tùng xanh um. Nhìn chung rừng tùng tạo thành một vệt xanh thẫm giữa rừng sồi lá đã ngả vàng và nền trời xanh lơ. Phía dưới nữa, thung lũng như phô trương màu sắc huy hoàng. Những tàn cây bạch dương, bạch phong vàng rợm lẫn lộn với lá cây đỏ như tiết dê của cây thù du. Trong khi lá cây phong biến thành xám xịt như đá đen thì lá liễu lốm đốm vàng thật đẹp. Trên những ruộng bắp, các đụn bắp khô trông giống như những chiếc lều trong một bản dân da đỏ. Những đồng cỏ khô mường tượng như những tấm thảm màu nâu nhạt.
Tiết thu, tôi thích đi dạo một mình bên bờ sông. Tôi mải mê nhìn những lá vàng, đỏ, nâu nhẹ nhàng rơi trong làn gió hiu hiu chao đi, chao lại trước khi hạ xuống mặt nước trong veo và trôi theo giòng như những chiếc thuyền bé tí teo. Một nỗi buồn man mác xâm chiếm tâm hồn và lúc ấy nguồn thơ lai láng. Cũng một hôm như thế, tôi bỗng nảy ra ý nghĩ cao xa, chẳng dính dấp gì đến nàng thơ mà lại có liên quan đến nghề nghiệp của tôi. Nếu tất cả các giáo chức từ thấp đến cao trong tất cả các cơ sở giáo dục Hoa Kỳ, từ thành thị đến nông thôn, từ trường công đến trường tư hay trường các giáo phái, nếu tất cả đều dùng ảnh hưởng của mình để bày vẽ cho học trò họ cách sống, lối làm việc, biết vui chơi và san sẻ vui buồn với nhau, biết nuôi dưỡng những tham vọng lớn về đức hạnh cũng như về tinh thần, chắc chắn họ sẽ đào tạo cho đất nước chúng ta một thế hệ tốt đẹp vô ngần. Công cuộc vĩ đại này từ trước đến nay chưa có ai nói, chưa có ai làm. Công cuộc ấy phải bắt đầu từ đơn vị bé nhất, thấp nhất. Mỗi nhà giáo có một vai trò, một sứ mạng riêng. Với uy tín cá nhân, với ảnh hưởng trực tiếp đối với học trò, mỗi vị đều có trách nhiệm trước vận mạng xứ sở. Không có nghề nào phải chịu trách nhiệm nặng nề hơn nghề “gõ đầu trẻ”. Tất cả các nghề khác đều bắt nguồn từ kết quả của ngành giáo huấn.
Như vậy, cái nghề cao đẹp ấy chứa đựng các giải pháp cho bao nhiêu vấn đề phức tạp của quốc gia và xã hội. Vai trò của giáo chức là giúp giải quyết những khó khăn ấy. Chính các vị ấy phải khích lệ học trò mình vươn lên, làm những việc lớn với tất cả khả năng hiểu biết và nhất là với tất cả tấm lòng. Học đường phải là nơi chuẩn bị cho học sinh đối phó với mọi vấn đề của nhân loại. Học đường phải tiếp tay để sửa chữa những tệ đoan xã hội. Học đường phải hướng dẫn các thế hệ tương lai cho họ biết sống sung sướng hơn trong hoà bình, trong tình huynh đệ, trong niềm vui lành mạnh… Tôi miên man suy nghĩ, trong khi thơ thẩn bước đều, mắt mơ màng ngắm cảnh chiều buồn cuối thu. Mặc dầu có bổn phận đào tạo mười bốn công dân tương lai Hoa Kỳ, mà lương tháng không bằng một anh thợ rèn vô học, thâm tâm tôi vẫn tự hào mình là một phần tử của cái ngành hoạt động đẹp nhất trong nhân loại.
*Tôi đã quyết định trở về nhà. Tôi phải lấy thêm nhiều cuốn thơ, tiểu thuyết, khảo luận cho học trò và tiện thể đến gặp ông Thanh Tra Anderson. Buổi chiều, tan học, tôi về ngay nhà trọ ăn uống qua loa lấy sức và sửa soạn va li. Chưa phải quá muộn, nhưng trời tháng chạp xám xịt đè nặng lên thung lũng. Một lớp tuyết khá dày phủ khắp mặt đất, mái nhà. Tôi phải vượt hai mươi lăm cây số mà không có phương tiện gì khác ngoài cặp giò.
- Nếu thày là con tôi, - Ông Baylor bảo vậy. Tôi sẽ không cho đi. Đi bộ hai mươi lăm cây số trong chiều tối như thế này thật là điên! Tôi biết rõ đường đi hơn thày vì đã qua đó nhiều lần. Đường đi nguy hiểm đấy, nhất là khi bỏ con đường cái của Tiber Valley để băng qua ngọn núi Laurel. Tôi để ngoài tai những lời cảnh cáo ấy, vì tôi là một tay đi bộ có hạng. Có lần tôi đã đi hơn năm mươi cây số trong ngày mà chẳng thấy mỏi gối hay đau chân. Bình thường tôi có thể vượt qua một cây số trong 6 phút, như vậy 25 cây số có khó đi mấy chăng nữa cũng mất lối ba giờ hoặc ba giờ rưỡi là cùng. Suy tính rồi, đúng 4 giờ chiều tôi lên đường. Một đám mây đen xì che kín các ngọn núi và hai triền đông tây của thung lũng. Gió đông thổi mạnh qua những cành trụi lá của những cây bạch phong tạo thành những tiếng vi vu. Những chim đỏ cổ nhảy từ cành này qua cành kia tiếng kêu chiêm chiếp như oán như than. Trời còn sáng rõ, nhưng biết rằng về tiết này bóng tối sẽ chóng đến, nên khi rẽ vào đường tắt, tôi leo núi thật nhanh. Tuy phải tìm lối đi qua lớp tuyết còn nguyên vẹn tôi cũng tìm ra không mấy khó khăn. Những bụi cây, gộp đá, và hàng rào là những cái mốc bất di bất dịch cho khách lữ hành khi tuyết phủ mất lối đi.Tôi đã tới cái trảng lớn, nơi người ta đốn hết cây rừng để trồng thuốc. Thế là tôi đã đi được gần nửa đường lên đỉnh núi Laurel. Nhìn đồng hồ đã hơn bốn giờ rưỡi, chậm hơn dự liệu của tôi. Càng lên cao tuyết càng dầy và càng khó đi. Trời còn sáng, vậy mà tôi đã đi lạc vào một rừng sồi rậm rạp. Tôi vội vã trở lui và chú ý hơn trong việc dò đường. Đi được lối trăm thước, tôi thấy một con cáo sắc lông đỏ hoe băng qua rừng. Chợt thấy tôi, nó cong đuôi chạy thục mạng lẩn vào mấy bụi rậm.
Trời tối dần, có lẽ tôi đang đi vào đám mây đen ban nãy, chớ lẽ nào mau tối như thế. Tôi đã lên gần tới đỉnh núi và đã trông thấy bờ rào kẽm gai hoen rỉ chạy dọc đỉnh núi một đỗi, rồi quẹo về triền phía bên kia. Tôi giơ đồng hồ lên xem, nhưng không còn đủ ánh sáng để thấy được vị trí mấy cây kim. Gió thổi mạnh hơn, rồi những lọn tuyết bắt đầu rơi. Có thể là bão tuyết. Bỗng nghe như có tiếng người, thật là kỳ thú. Rồi tiếng xe ngựa. Tôi suýt đâm sầm vào con bên mặt, tuy xe đã thắp đèn. Tôi nhận ra người đánh xe là ông Eif Potters. Ngạc nhiên thấy tôi lạc lõng ở đây, ông ghìm ngựa lại và hỏi tôi đi đâu trong khi xấu trời thế này. Tôi nói về nhà lấy thêm sách và lúc ra đi, mạn dưới không có mưa tuyết. Ông nói mới đi bán một lô thuốc ở Landsburgh trở về, lền gần đỉnh dãy núi Racoon, ông mới gặp bão tuyết. Ông khuyên tôi nên trở về Tiber Valley, và mời tôi lên xe bên cạnh ông. Tôi cảm ơn ông rồi quày quả ra đi. Cuộc đối thoại đã làm mất thêm năm phút. Gió bão thêm mạnh. Lọn tuyết thêm to đập vào áo khoác ngoài kêu bồm bộp. Người và xe ngựa của ông Potters đã mất hút, chỉ còn văng vẳng tiếng ông quát tháo hai con ngựa, mỗi lúc một nhỏ dần. Trên đỉnh đèo bây giờ hoàn toàn cô quạnh. Tôi vừa đi, vừa giang tay để tìm hàng rào kẽm gai, nhưng không thấy.
Thình lình chân tôi bước vào vũng nước, thế là hai ống quần và giày vớ ướt sạch. Tôi không bận tâm về vụ này vì nghĩ rằng mình đang đi đúng đường. Tôi lội nhầu trong nước, trong tuyết, không một phút nghỉ ngơi. Thời gian trong đêm tối dường như nó dài thêm…
Con đường đổ dốc, có lẽ lối về thẳng Land sburgh cũng chẳng bao xa. Vừa đi vừa nghĩ vẩn vơ, chợt thấy mình đã đi vào một ruộng bắp hồi nào. Bên cạnh tôi xù xù một đụn bắp tuyết phủ trắng xoá. Thôi, lạc lối nữa rồi. Muốn quay lại cũng không được nữa, đêm tối dường này, làm sao tìm lại được dấu chân, trong khi tuyết rơi bộn bề. Biết mình không thoát được, tôi hò ầm lên, hy vọng có người nghe được và tới giúp tôi. Đáp lại, tôi thoáng nghe có tiếng gầm gừ của một chú cáo ở phía xa xa. Mới dừng chân, người còn nóng ran, mồ hôi còn chảy đầy mặt. Nhưng gió mạnh thổi liên hồi, tuyết rơi vào mặt đã thấy rát, tôi thấy cần phải hành động gấp, nếu không chẳng bao lâu sẽ chết cóng giữa trời đêm. Cho rằng một ruộng bắp gặt rồi tất phải có nhiều đụn, phải tập trung lại để lấy cái che thân. Vì e không tìm được va li nếu đặt nó xuống đất, tôi vẫn phải xách nơi tay. Tay kia sờ soạng và chẳng mấy chốc tôi đã kéo lại một chỗ cả mười đụn bắp. Tôi xoay các đầu nặng về phía gió thổi, trải ba đụn xuống đất làm giường, để hai đụn nằm dài hai bên, ba đụn khác để ở đầu giường chặn ngọn gió thổi. Mấy đụn còn lại, tôi tháo rời ra, rải thêm vào những nơi lồi lõm cho mặt giường êm hơn. Đứng trên đó, tôi tháo đôi ủng ra, cởi bỏ cả áo choàng và quần ướt. Lấy mấy cái sơ mi bẩn trong va li, tôi quấn nhanh hai bàn chân cho đỡ lạnh rồi lục hết còn cái áo quần nào là mặc đụp vào thân. Xong xuôi tôi nằm xuống, trải áo choàng lên mình và vươn tay kéo gập mấy bó bắp trên đầu để che tuyết cho tôi. Cái mái bắp tuy khá dầy nhưng nhẹ và thông hơi. Nằm dài trên cái giường tạm bợ này tôi lắng nghe tiếng chuột chạy sột soạt giữa những cây bắp quanh đây và tiếng gió thổi rào rào.
Không được ngủ! Tôi tự nhủ thầm, vì ngủ quên để gió tốc mất cái mái che, ngày mai chủ ruộng ra đây chỉ còn thấy tôi biến thành cái xác chết cứng đơ. Một con cú mèo đậu trên cây không xa lắm rúc lên một hồi, kẻ yếu bóng vía có lẽ run sợ, nhưng lúc ấy tôi thấy đỡ cô đơn. Một lát sau, nhiều tiếng cú kêu đáp lại loáng thoáng từ nhiều nơi. Đây là nơi hội ngộ của loài chim ăn đêm này hay sao mà nhiều cú thế. Tôi nằm mơ màng, rồi mệt mỏi ngủ quên lúc nào không hay.