← Quay lại trang sách

Phần Thứ Hai (2)

Khi tỉnh giấc, tôi thấy bốn bề im lặng hoàn toàn, chỉ còn tiếng chuột chạy và nghe rõ tiếng tích tắc của đồng hồ tay. Không nghe gió thổi nữa, tôi vạch mái che ra nhìn, trời cao lồng lộng và lấp lánh đầy sao. Té ra giữa đêm tuyết lạnh, tôi đã làm một giấc ngon lành trong cái giường thô sơ nhưng ấm áp này. Tôi ngồi dậy, xếp lại mấy bó bắp quanh mình như cái lều để đợi sáng.

Thấy trời hừng đông, tôi bỏ bớt áo quần, xếp lại vào va li và giã từ tổ ấm. Theo dấu chân tôi hôm qua đã bị tuyết xoá mờ, tôi đi ngược trở lại ngọn đèo gần một cây số mới tìm được đường đi. Từ đây nhìn xuống đã thấy thung lũng Hinton trắng xoá dưới làn tuyết phủ. Hôm nay là thứ bảy, lẽ ra giờ này đã có người qua lại đèo này, nhưng bốn bề vẫn vắng lặng, chỉ mình tôi đạp tuyết mà đi. Bây giờ tuyết đã cao bằng đôi ủng của tôi. Đi được một chập khá lâu, tôi mới gặp mấy người phu sửa đường đánh xe phá tuyết do những đôi la kéo đi ngược lên. Tới gần, họ chăm chú nhìn tôi như cười ngạo. Nhìn lại mình mới thấy rơm rác dính đầy cả áo choàng. Tôi phải dừng lại phủi sạch trước khi ghé vào cối xay của ông Gullet. Ông ngạc nhiên thấy tôi tới đây quá sớm như vậy. Tôi thuật lại ông nghe việc không may của tôi tối qua. Ông cho biết sáng sớm nay, hàn thử biểu xuống tới hai mươi lăm dưới độ không. Ông không hiểu làm sao tôi lại thay đổi được quần áo giữa cơn bão tuyết trên đỉnh núi, làm sao tôi chịu đựng được cái lạnh kinh người suốt đêm như vậy. Ông vội bỏ thêm than vào lò và lăng xăng lo pha cà phê nóng cho tôi uống.

*

9 giờ sáng hôm đó, khi ông Thanh Tra Anderson tới văn phòng ông đã thấy tôi ngồi chờ. Tôi đã giang xe chở than của một chủ trại để đi nốt quãng đường từ cối xay đến Landsburgh.

- Ủa! Làm cách gì mà ông tới đây sớm thế? Không lẽ ông đi thẳng từ Winston về đây có mấy tiếng đồng hồ ư? - Thưa không. Tôi đã ngủ đêm ở giữa đường.

Ông không hỏi ngủ ở đâu và tôi cũng không nói rõ, vì mục đích gặp ông không phải để kể lể việc ấy.

- Sao, công việc của ông tiến triển thế nào?

- Theo tôi, tôi cho là khả quan. Còn người ta báo cáo với ông Thanh Tra về trường tôi như thế nào?

- Báo cáo tốt.

- Tôi vui mừng thấy việc làm của tôi được cấp trên tán thưởng. Phần riêng, tôi cũng đang học hỏi thêm. Bọn học trò tôi chúng bắt tôi phải học gắt lắm, chẳng khác gì tôi thôi thúc chúng.

Ông Thanh Tra tưởng tôi nói đùa, cười phá lên. Tôi vội xác nhận.

- Điều tôi vừa trình bày đúng với sự thật, không phải chuyện khôi hài. Bây giờ tôi còn học dữ hơn ngày ở Trung học và Đại học.

Ông ta vẫn cười, cười sằng sặc, rất lớn, có lẽ ở ngoài hành lang cũng nghe được. Ông cố nhịn, bảo tôi:

- Hình như ông biết rằng không gì khoẻ người hơn là sớm mai đã được cười no nê như thế này.

- Thưa ông Thanh Tra, tôi không dám nói đùa đâu. Giảng dạy cho mười bốn học trò ở Winston là việc rất khó khăn cho tôi. Không có trò nào thuộc hạng xoàng. Chỉ có hai trò hạng trung bình, tuy nhiên, không có bài làm nào khiến chúng phải bó tay. Trong số học trò tôi có một em đúng là một thiên tài. Em ấy hơn hẳn các học sinh ưu tú của tôi một bậc. Hắn mới học năm thứ nhất Trung học, vậy mà trong một vài môn, đôi khi hắn biết nhiều hơn tôi. Tôi đoan xác với ông tên Budge Waters là một thiên tài.

- Thế ông cho điểm chúng nó như thế nào? Có theo tiêu chuẩn thông thường không?

- Thưa không.

- Tại sao thế?

- Ngày ở trung học, tôi không phải là học trò dở, khi tốt nghiệp Đại học, điểm số tôi trên hạng “bình”. Thế mà bọn học trò đệ nhất niên Trung học ấy không để cho tôi một phút nghỉ ngơi. Luôn luôn chúng nêu những thắc mắc rất hữu lý khiến tôi, đôi lúc, trả lời không xuôi. Vì vậy, phê điểm chúng theo tiêu chuẩn thông thường là điều phi lý. Ông Thanh Tra nhìn tôi tận mắt chậm rãi hỏi:

- Vậy ông có điều gì phải bận tâm không?

- Thưa, có một việc tôi muốn thử xem, nên mới tới hỏi ông. Xin ông cho biết tôi phải làm gì để trường tôi có thể tham dự cuộc thi tuyển toàn Tiểu Bang? Dường như cuộc thi ấy sẽ được tổ chức vào mùa xuân sắp tới?

- Muốn dự cuộc thi tuyển toàn Tiểu Bang, phải qua mấy vòng thi loại. Trước hết, học trò của ông phải tranh đua với học sinh trường Landsburgh. Loại được trường này, lại phải thi vòng loại ở trên tỉnh với các quận khác, tại Auckland. Thắng được vòng này mới vào chung kết với các miền khác của Tiểu bang.

Tôi thấy rõ, muốn loại trường Landsburgh, nhóm học trò ít oi của tôi phải thắng những phần tử ưu tú nhất trong số bốn năm trăm học sinh. Lên đến miền, liệu rồi chúng nó có được tuyển chọn trong số hàng ngàn học sinh khác? Dầu sao số đông không phải là yếu tố quyết định: trò nào thông minh nhất sẽ thắng. Vậy mà Budge lại là kẻ thông minh phi thường. Nếu được chuẩn bị chu đáo, chắc chắn hắn sẽ toàn thắng. Về đại số, Billie Leonard có thể cầm cự ít nhất lên đến cấp tỉnh. Như thế tôi dám cho thi đua với trường Landsburgh về năm môn tôi dạy ở Winston.

- Thưa ông Thanh Tra, nếu không có gì bất tiện, xin ông vui lòng thu xếp cho trường tôi thử tài với trường Landsburgh về các môn đại số, hình học, sử ký, Anh văn và cổ ngữ La Tinh. Xin ông định ngày giờ gặp gỡ của hai trường.

- Ông có thể tin nơi tôi. Còn hai trường gặp nhau vào tháng giêng tới đây được không?

- Xin tùy ông quyết định, chỉ cần biết có gì trở ngại cho trường Landsburgh chăng?

- Thôi được rồi.

*

Khi phổ biến tin trên với học trò, tôi chú ý xem chúng phản ứng thế nào. Dự định ấy khiến chúng thích chí ra mặt. Vậy là bản thân chúng đã sẵn tinh thần ganh đua. Tôi bảo chúng:

- Chúng ta phải ôn lại tất cả các bài đã học rồi, đồng thời vẫn tiếp tục học thêm bài mới cho kịp chương trình. Em nào đồng ý, giơ tay!

Cả lớp đồng loạt giơ tay. Thế là ngay từ lúc ấy, không bỏ phí một giây, thày trò bắt đầu làm việc say sưa. Tuy rằng lúc nào cũng nghĩ đến kỳ thi, chúng tôi vẫn không bỏ qua những trò giải trí hàng ngày. Mặt sông Tiber đã đóng băng. Tối nào chúng tôi cũng kéo nhau ra đó để trượt tuyết và chỉ về nghỉ ngơi vào khoảng mười một giờ đêm. Tiếng pa-tanh của chúng tôi xiết trên mặt băng hoà với tiếng nói cười rộn rã làm vang động cả giòng sông và các vùng phụ cận. Những ngày nghỉ cuối tuần, chúng tôi đào lỗ trên mặt băng để đâm cá với mũi lao, hay kéo nhau đi săn thỏ núp trong những đống rạ phủ đầy tuyết. Đôi khi chúng tôi tổ chức những cuộc săn đuổi những con chồn, con phụ thử đến tận hang ổ của chúng nó. Những cuộc vui ấy cho phép chúng tôi xao lãng sách đèn một thời gian cho đỡ nhức óc, nhưng những hoạt động ấy cũng mở rộng tầm hiểu biết của chúng tôi theo một khía cạnh khác. Để chuẩn bị cuộc tranh đua cam go sắp tới, chúng tôi rất cần làm sao cho đỡ căng thẳng tinh thần. Vả chăng, mùa đông ở vùng này bình thường không gay gắt lắm, nên ít khi được tập dượt hay đùa nghịch trên băng. Năm nay là năm lạnh đặc biệt và chúng tôi đã triệt để lợi dụng thời cơ đó. Các nữ sinh không theo chúng tôi đi săn, nhưng ít khi chịu ở nhà nếu có các cuộc vui đùa trên băng tuyết.

Những ngày ấm trời, băng tuyết đều tan, đất đai lầy lội, chúng tôi lại tổ chức vui chơi ngay trong phòng học. Nào là phóng phi tiêu, ném đinh vào các hộp nhỏ, đánh cờ ngỗng v.v… Chính chúng tôi vẽ lấy bàn cờ và dùng các hột bắp khác màu làm quân. Vì vậy, suốt mùa đông, trong những ngày ảm đạm và chóng tối ấy, học trò tôi không khi nào ở nể, và không lúc nào thấy thoáng vẻ buồn trên nét mặt. Thày trò chúng tôi tuy không đông, nhưng thống nhất hành động, khi học, khi chơi đều rán hết sức mình, nên là một nhóm rất mạnh.

*

Ngày trong đại đối với chúng tôi đã tới, một ngày trong thượng tuần tháng giêng. rất tiếc là một trận bão tuyết đã ập đến, tuyết rơi nhiều, gió thổi mạnh, rét căm căm. Tuy vậy không ai lùi bước. Duy có Leona Maddox, giỏi nhất lớp về tiếng La Tinh không đi được, vì ông già của trò ấy nhất định không muốn con mình ngồi trên lưng ngựa suốt hai mươi lăm cây số với thời tiết quá xấu như vậy. Tôi năn nỉ mãi nhưng vô hiệu.

Budge Waters còn tới trường sớm hơn thường lệ. Trời quá lạnh, hắn lui cui đốt lò sưởi cho ấm căn phòng. Lối 7 giờ những em đi thi và tôi cùng tới một lúc. Chúng tôi cột ngựa ngoài rào, vào cả trong lớp sưởi cho ấm người, rồi mới ra đi. Gió thổi mạnh lắm, nhưng chúng tôi đi xuôi chiều nên gió như đẩy chúng tôi đi nhanh hơn. Bảy con ngựa chạy kế bên nhau nhịp nhàng và hùng dũng. Khi bắt đầu leo núi, gió thổi tạt vào giữa mặt chúng tôi, người nào ngựa ấy, nước mắt cay xè tràn khỏi bờ mi. Budge Waters lên tiếng đánh tan sự im lặng của đoàn kỵ sĩ, khi đi qua nơi tôi ngủ đêm giữa rừng.

- Tôi thiển nghĩ, nếu thày có thể ngủ trong đống bắp giữa trời đông với độ lạnh dưới hai mươi lăm, thì chúng tôi cũng có thể đánh bại học sinh trường Landsburgh lắm. Tôi không thể quên việc thày đi bộ hai mươi lăm cây số để lấy sách về cho chúng tôi. Có lẽ anh em chúng tôi không ai quên được. Vì vậy, thày cứ vững tin ở bọn này.

Xuống chưa hết triền núi, Billie Leonard, mới mười ba tuổi, than rằng tay chân nó lạnh cóng và buồn ngủ lắm. Chính tôi cũng cảm thấy như vậy. Mấy thày trò bèn ghé vào nhà đầu tiên trông thấy bên đường. Chủ nhà không khỏi ngạc nhiên thấy chúng tôi xông pha mưa gió mà đi như vậy. Sau khi được biết chúng tôi là ai và đi đâu, để làm gì, ông ta lắc đầu thương hại và đi lấy thêm cành khô bỏ vào lò lửa. Trong người ấm áp rồi, chúng tôi lại lên yên. Như vậy là đã đi được quá nửa đường. Từ đây, chỉ đi hơn một khắc nữa giữa đồng trống, kế đó là làng mạc, nên nhà cửa và cây cối che đỡ gió cho chúng tôi nhiều lắm.

*

Đúng 11 giờ, thày trò chúng tôi tới trường Trung học Landsburgh và cột ngựa vào cọc rào. Rất đông học sinh, chen nhau dán mũi vào cửa kính, nhìn chúng tôi đi vào. Chúng tôi đi thẳng tới văn phòng Hiệu Trưởng. Chính ông Ernest Charters tiếp đón chúng tôi. Ông không giấu ngạc

nhiên thấy chúng tôi tới đúng hẹn tuy trời rất xấu, và còn tới sớm hơn dự liệu. Trong khi chúng tôi ngồi sưởi quanh cái lò ga, bên ngoài học sinh trường Landsburgh tụ tập khá đông, cười nói ồn ào. Chúng thấy thày trò tôi dị dạng nên đứng ngoài cửa nhìn vào lom lom. Ít khi chúng thấy một lượt bảy con ngựa cột thành hàng trước sân trường và không bao giờ chúng thấy một thành phần tới dự thi quá ít như vậy.

Trước khi đi lấy các đề thi, ông Hiệu trưởng Charters bảo tôi rằng, đây là một cuộc tập dượt cho học trò ông, trước khi chúng lên dự thi trên tỉnh. Khi trở lại với các bao thư, ông nói:

- Đây là những đề thi do Hàn Lâm Viện chọn lựa. Tôi không biết khó dễ ra sao.

Sau đó, chúng tôi được đưa qua cái phòng rộng nhất trường, dưới quyền giám thị của một giáo sư ở Landsburgh. Khi học sinh trường này ùn ùn kéo vào, chúng tôi mới vỡ lẽ tại sao lại phải chọn cái phòng rộng lớn này.

Jesse Jarvis, ứng viên của tôi về hình học phẳng phải đối chọi với mười học sinh Landsburgh. Billie Leonard, một mình phải cầm cự với hai mươi mốt học sinh chọn lọc của trường này. Sau khi hội ý với Budge, tôi cho hắn tranh tài về bốn môn: Văn phạm, anh văn, sử ký và công dân giáo dục. Trường tôi không dạy công dân giáo dục, nếu Budge biết gì thì đó là những điều hắn đã đọc trong sách. Robert Batson cũng dự thi về sử ký và văn phạm. Robin Baylor thi về đại số, còn Snookie Baylor về đại số và hình học phẳng. Tôi cáo lỗi với ông Hiệu Trưởng Charters vì không có thí sinh về môn cổ ngữ La Tinh, do trường hợp bất khả kháng. Tôi rời khỏi trường Landsburgh khi cuộc thi khởi sự. Tôi dắt cả bảy con ngựa tới nhà ông Walter Scott ở đầu phố và cho chúng ăn uống. Các thí sinh cũng nghỉ trưa chốc lát ăn lót dạ trước khi tiếp tục làm bài. Mãi 2 giờ 30 chiều mới xong. Các thí sinh được mời ra ngoài cho ban giám khảo làm việc. Ban này gồm có ông Charters, cô Bertha Madden, người coi thi ban nãy, hai vị giáo sư khác và tôi. Ông Charters đọc to những bài giải đáp mẫu để chúng tôi theo đó, dò lại bài các thí sinh mà chấm. Đôi khi gặp những đầu đề quá khó khăn, chúng tôi tạm ngừng để trao đổi cảm nghĩ với nhau. Chúng tôi đều xuất thân từ các trường Đại học, vậy mà phải tự hỏi với các đề thi ấy chúng tôi có thể trả lời đến mức nào?

Chấm xong, ông Charters cho gọi các thí sinh vào phòng. Với giọng nói hơi gượng gạo ông tuyên bố:

- Các trò hãy nghe đây bảng xếp hạng theo kết quả cuộc thi: Budge Waters, giải nhất về văn chương. Budge Waters, giải nhất về văn phạm. Budge Waters, giải nhất về sử ký với số điểm tối đa. Budge Waters, nhất về công dân giáo dục. Quay về phía tôi, ông hỏi, vẻ khó chịu:

- Tại sao ông không đem đến đây nguyên một mình trò này thôi?

- Tại vì tôi còn nhiều học trò giỏi khác nữa.

Ông đọc tiếp: Billie Leonard, nhất về đại số… Jesse Javis nhì về hình học. Robin Baylor và Snookie Baylor, giải nhì đồng hạng về đại số. Tôi xin có lời chúc mừng các trò thắng cuộc và cả ông nữa. Thật là một thành công hết sức tốt đẹp. Tôi chưa hề thấy một bảng thành tích nào rực rỡ như thế. Trường Winston sẽ đại diện cho Quận lên thi trên tỉnh. Rời khỏi phòng thi đi ra ngoài, chúng tôi thoáng nghe tiếng sụt sịt của nhiều học sinh Landsburgh. Các trò ấy ức tình vì bị cái trường Winston quê mùa kia đánh bại. Mấy phút sau, trên đường về, đoàn người ngựa của chúng tôi lại đi qua trường này. Những vạt áo choàng và các khăn quàng cổ của chúng tôi phất phới bay trong gió như những lá cờ chiến thắng, trong khi chúng tôi dong ngựa chạy qua đường phố chính.

*

Tin thắng lợi của chúng tôi được loan đi rất nhanh. Ở Tiber Valley, không nhà nào không bàn tán đến việc ấy. Theo lời mấy người láng giềng thì ông già của Leona Maddox tiếc ngẩn tiếc ngơ vì không cho con gái đi thi. Ông Thanh tra Anderson cũng thuật lại sự kiện hi hữu ấy với các giáo sư các trường làng. Mấy ông này về nói lại cho học trò nghe, học trò về nhà khoe với cha mẹ anh em, thế là tất cả quận Greenwood đều biết rành mạch về những thành tích vẻ vang của chúng tôi. Hầu hết mọi người đều có cảm tình với chúng tôi và cho rằng được hãnh diện lây. Trường Winston là nhỏ nhất trong các trường trung học nông thôn và cũng là trường duy nhất dám thách thức trường trung học Landsburgh lớn nhất quận và có danh tiếng lâu rồi. Nhưng chẳng bao lâu, ông Anderson và đồng bào trong toàn quận, kể cả phụ huynh học sinh trường Landsburgh, đều có thêm cơ hội để hãnh diện hơn nữa vì chúng tôi. Hai em đã chiếm giải nhất là Billie Leonard và Budge Waters lên thi trên tỉnh lại chiếm thêm mấy giải nhất nữa: Budge nhất về văn phạm, sử ký và công dân; Billie nhất về đại số. Tiếc rằng sau đó Billie bị sưng phổi không dự thi toàn quốc được. Budge đi có một mình và đã đem về cho quận nhà hai giải nhất về sử ký và công dân. Tôi vui mừng vì đã không lầm trong việc đánh giá khả năng của học trò tôi. Tôi còn nhớ ông Thanh tra Anderson đã đồng ý với tôi về điểm: một giáo sư giỏi không cần phải căn cứ vào điểm số để biết rõ giá trị của học trò mình. Tại Lonesome, nơi mà sức mạnh làm mưa làm gió, tôi nổi tiếng vì đã trị được Guy Hawkins. Trái lại, tại đây tôi được nổi danh vì khả năng sư phạm, vì đã đào tạo được những học sinh ưu tú, thi đâu đậu đó.

*

Xuân tới, đem về sự đổi khác trong nếp sống của chúng tôi. Lại đá banh ngoài trời, lại trở về ven sông để thả lưới và câu cá. Giòng sông Tiber cung ứng cho chúng tôi nhiều thú vui nên tất cả đều sung sướng được trở lại nơi đây. Tôi lại được ngắm nhìn giòng nước trong veo, bắt nguồn từ những rặng núi đá vôi, lượn lờ uốn khúc dưới chân những hàng liễu rũ. Con sông mà tiếng nước chảy róc rách dịu dàng như du tôi vào cõi mộng… Cũng như đồng bào địa phương, tôi đã mến thương giòng sông mà cây cối hai bên bờ đâm chồi nảy lộc trước tất cả mọi nơi. Giòng sông đã nhập vào cuộc sống của tôi.

Niên học sắp hết. Chúng tôi đã học hết chương trình và đang ôn tập lại lần chót. Không có trò nào phải ở lại. Chỉ có hai em bị liệt vào hạng trung bình, còn mười hai em kia thuộc loại giỏi và ưu tú. Về phương diện kỷ luật, tôi chưa bao giờ phải bận tâm. Học trò của tôi hoà thuận và thương mến nhau như anh chị em một nhà. Chúng coi tôi như người cha. Tôi hướng dẫn chúng học tập, nhưng cũng đi săn bắn, câu cá, chơi đùa với chúng. Đối với đám đệ tử này, tôi vừa là một giáo sư, vừa là một người bạn.

Một buổi chiều nọ, sau giờ học, tôi ra bờ sông ngồi câu cá. Ngồi yên một lúc, có cá cắn câu, tôi định giựt lên thì nghe cành lá sột soạt phía sau lưng mình. Quay lại, tôi thấy một ông đứng tuổi mập mạp, đầu đội mũ lưỡi trai, mặc bộ đồ xám, rẽ lá tiến ra. Ông tươi cười nói:

- À, ông giáo sư danh tiếng đang ngồi câu cá! Đẹp trời thế này, tôi cũng thích đi câu lắm, nhưng công việc bận rộn, nên không thể làm theo sở thích được. Tôi xin tự giới thiệu: Larry Kenwood, Chủ tịch Hội đồng Giáo dục thành phố Landsburgh.

- Hân hạnh được biết ông.

- Tôi xin đi thẳng vào vấn đề. Hội đồng chúng tôi định mời ông về làm Hiệu trưởng trường Trung học Land sburgh. Ông cựu Hiệu trưởng Charters đã từ nhiệm để nhận chức vụ khác. Vấn đề hiện nay của trường là kỷ luật, nhưng đối với ông, sẵn có uy tín, có lẽ không phải là nan giải. Điều ông vừa nói làm tôi chới với không nói nên lời. Thấy tôi im lặng, ông hỏi tiếp:

- Thế nào? Đề nghị của tôi có làm ông vui lòng không?

- Đó là lẽ đương nhiên.

- Vậy xin mời ông tới gặp chúng tôi tại trường vào thứ ba đầu tháng tới.

- Vâng, xin y hẹn.

Ông Kenwood quày quả ra về cũng lẹ làng như khi ông xuất hiện. Khi những cành lá của cây bạch phong đã khép lại sau lưng ông ta, lời đề nghị mới rồi dường như chỉ là một ảo giác. Thật là một sự hết sức bất ngờ đối với riêng tôi. Từ ngày rời khỏi mái trường Landsburgh đến nay mới có năm năm. Tôi học trường làng có ba mươi tháng là xin thi vào trường Landsburgh. Trong kỳ thi ấy tôi cũng lượm được 78 điểm trung bình, như có thể nói rằng trong số sinh viên Đại học không có ai thiếu chuẩn bị như tôi. Ngày học ở Landsburgh bạn bè gọi nhạo tôi là “chồn hôi”, vì cứ đến tiết thu là tôi đi săn chồn và không mấy khi tẩy sạch được mùi hôi ấy. Mới cách biệt năm năm, tôi sẽ trở lại với tư cách Hiệu trưởng, chẳng ai còn dám gọi mình là “chồn hôi “ nữa. Tôi mỉm cười lơ đãng, để cá ăn hết mồi lúc nào không hay. Tại sao người ta mời tôi giữ chức vụ quan trọng ấy? Phải chăng vì trường Winston đã thắng trường Land sburgh? Chắc chắn là thế. Nhờ thắng lợi ấy mà Hội đồng giáo dục Landsburgh đã nghĩ đến tôi, tuy tôi không hề xin xỏ. Nói cho đúng, chính nhờ tài học của các môn sinh hơn là nhờ khả năng giảng dạy của tôi, mà tôi được đặc cách thăng chức như vậy. Tôi được cái may mắn đã có những học trò phi thường. Tôi chỉ có công đem hết cái hay của tôi truyền thụ cho các em ấy. Về phần các em đã ban thưởng rất xứng đáng cho công khó của tôi. Rồi đây các em sẽ trở lại với các công việc cấy cày gặt hái trong nắng gió, giữa cái thung lũng nhiều sương mù và có mùa Xuân tuyệt đẹp. Riêng tôi sẽ trở lại Đại Học Đường dự khoá bổ túc sư phạm, chuẩn bị gánh vác nhiệm vụ nặng nề đang chờ đợi tôi.