← Quay lại trang sách

Chương 1 Bạn Bè, Kẻ Thù, Người Lạ Và Thương Nhân.

Biên giới

- Lãnh thổ không dùng chung

- Sử dụng đất chung.

- Bạn hữu, kẻ thù và người lạ.

- Những lần tiếp xúc đầu tiên.

- Thương mại và thương nhân Kinh tế thị trường.

- Các hình thức thương mại truyền thống

- Hàng hóa giao thương truyền thống.

- Ai buôn bán cái gì.

- Các quốc gia tí hon

Biên giới

Ở phần lớn thế giới ngày nay, công dân nhiều nước có thể đi lại tự do mà không gặp phải các hạn chế. Khi đi qua biên giới vào một nước khác, chúng ta đến mà không cần báo trước và chỉ cần đưa ra hộ chiếu, hoặc chúng ta phải xin visa trước nhưng sau đó có thể đi lại mà không gặp trở ngại nào ở đất nước đó. Chúng ta không phải xin giấy phép để đi lại trên đường hoặc các khu vực công cộng. Luật lệ của một số nước thậm chí còn đảm bảo quyền tiếp cận các khu vực tư nhân. Ví dụ, ở Thụy Điển người sở hữu đất có thể cấm công chúng không được vào cánh đồng hoặc khu vườn của ông ta nhưng khu rừng thì không. Chúng ta gặp hàng ngàn người lạ hàng ngày và không nghĩ gì về điều đó. Tất cả những quyền lợi này được chúng ta xem là hiển nhiên mà không hề nghĩ rằng việc đó khó tưởng đến thế nào ở hầu như khắp nơi trên thế giới trong suốt lịch sử loài người và ở nhiều phần trên thế giới ngày nay. Tôi sẽ trình bày các điều kiện truyền thống về quyền tiếp cận đất đai bằng kinh nghiệm của mình khi đi đến một làng vùng núi ở New Guinea. Các điều kiện truyền thống đó đặt nền tảng cho việc hiểu được chiến tranh và hòa bình, tuổi thơ và tuổi già, các mối hiểm nguy và tất cả những đặc tính khác của các xã hội truyền thống mà chúng ta sẽ khám phá trong phần còn lại của cuốn sách này.

Tôi đến khu làng này để khảo sát về các loài chim ở dải núi phía nam. Vào ngày thứ hai trong chuyến đi, vài dân làng đề nghị dẫn tôi đi dọc theo một đường mòn lên đỉnh núi, nơi tôi đặt trại nghiên cứu của mình. Đường mòn này đi qua các khu vườn trong làng, sau đó dẫn qua khu rừng nguyên sinh cao. Sau một tiếng rưỡi leo dốc, chúng tôi đi ngang qua một căn chòi bỏ hoang ở giữa một khu vườn nhỏ rậm rạp ngay phía dưới sườn núi, tại đó đường dẫn lên núi của chúng tôi chấm dứt ở một khúc giao chữ T. Bên phải khúc giao, một đường khác khá đẹp tiếp tục dọc theo sườn núi.

Vài trăm ki-lô-mét dọc theo đường mòn đó, tôi chọn khu đặt trại ngay phía bắc sườn núi, nói cách khác chính là bên hông khu làng miền núi của những người bạn mới này. Theo hướng ngược lại, về phía nam đường mòn và sườn núi, ngọn núi đổ dốc thoai thoải xuống những khu rừng cao trải rộng đến một đường rãnh, nơi tôi có thể nghe thấy tiếng suối từ bên dưới. Tôi sung sướng tìm được một nơi đẹp và thuận tiện như vậy, ở đỉnh cao nhất khu vực và do đó có cơ hội tốt nhất để xác định các loài chim sống ở vùng cao, có nơi tiếp cận dễ dàng đến vùng bằng phẳng phù hợp để quan sát chim, cũng như gần nguồn nước để uống, nấu nước, giặt giũ và tắm rửa. Và tôi cũng đề nghị với những người bạn đồng hành rằng, vào ngày hôm sau, tôi sẽ đi lên phía trên khu trại này và ở đó vài đêm cùng hai người khác để tìm kiếm chim và cắm trại.

Các bạn tôi gật đầu đồng ý cho đến khi tôi đề cập đến việc hai người ở lại trại với tôi. Vào lúc đó, họ lắc đầu và quả quyết rằng đây là khu vực nguy hiểm, rằng trại của tôi phải được bảo vệ bởi nhiều người có vũ trang. Thật là một viễn cảnh không vui vẻ gì đối với một nhà quan sát chim! Nếu xuất hiện nhiều người, chắc chắn họ sẽ gây ra tiếng ồn, nói chuyện liên tục và khiến lũ chim sợ bay mất. Tôi hỏi, tại sao tôi phải cần đội hộ tống lớn như vậy và khu rừng xinh đẹp, trông có vẻ hiền lành này có gì nguy hiểm đến vậy?

Câu trả lời được đưa ra ngay lập tức: ở chân núi phía bên kia (phía nam sườn núi) là làng của những người xấu được biết đến là người vùng sông nước, kẻ thù của các bạn tôi ở vùng núi. Người vùng sông nước giết người vùng núi chủ yếu bằng thuốc độc và yêu thuật, không phải bằng việc đánh nhau công khai với vũ khí. Tuy nhiên, ông cố của một thanh niên vùng núi đã bị bắn chết bởi những mũi tên khi đang ngủ trong căn lều đặt tại khu vườn ông cách xa khu làng trên núi. Người cao tuổi nhất có mặt trong buổi nói chuyện của chúng tôi nhớ lại rằng khi còn là một đứa trẻ, ông đã thấy xác của ông cố với những mũi tên còn cắm trên người sau khi ông được mang trở lại ngôi làng, và không quên cảnh người ta đã khóc lóc bên xác ông cố cũng như nỗi sợ của chính ông.

Tôi hỏi, liệu chúng tôi có "quyền" cắm trại ở sườn núi không? Người miền núi trả lời rằng chính đường sườn núi là biên giới giữa lãnh thổ của họ về phía bắc sườn núi và lãnh thổ của người miền sông nước xấu xa ở triền núi phía nam. Tuy nhiên, người miền sông nước cũng tuyên bố sở hữu một phần đất của người miền núi vượt qua đường sườn núi về phía bắc. Bạn tôi hỏi liệu tôi có nhớ ngôi lều bỏ hoang và khu vườn rậm rạp chỉ ngay phía dưới đường sườn núi không? Ngôi lều và khu vườn đó do người miền sông nước xấu xa lập nên như một cách để khẳng định tuyên bố của họ đối vùng đất ở phía bắc cũng như phía nam đường sườn núi.

Nhờ những kinh nghiệm không mấy vui vẻ trước kia của tôi về việc xâm nhập lãnh thổ đã công nhận ở New Guinea, tôi nhận ra rằng tốt hơn là nên cẩn trọng trong tình huống này. Dù sao đi nữa, bất kể tôi tự đánh giá mối nguy hiểm này như thế nào, người miền núi cũng không để tôi cắm trại trên sườn núi đó khi không có đội hộ tống hùng hậu. Họ yêu cầu tôi phải được đi kèm với 12 người đàn ông và tôi đáp lại với đề nghị chỉ 7 người. Chúng tôi rốt cuộc "thỏa hiệp" giữa 12 và 7: đến khi trại của chúng tôi được dựng xong, tôi đếm có khoảng 20 người đàn ông trong trại, tất cả đều được trang bị cung và tên, có cả phụ nữ để nấu nướng, đi lấy nước và củi lửa. Hơn nữa, tôi bị cảnh báo không nên bước ra khỏi con đường mòn dọc sườn núi dẫn đến khu rừng hấp dẫn ở triền núi thoai thoải phía nam. Khu rừng đó đã thuộc về người miền sông nước và sẽ rắc rối lớn nếu tôi bị bắt khi đi vào đó, dù chỉ là để quan sát chim. Cũng vậy, phụ nữ miền núi trong trại của chúng tôi không thể lấy nước từ khe nước gần đó ở triền núi phía nam, vì điều đó không chỉ là xâm nhập mà còn là lấy đi những tài nguyên có giá trị, từ đó có thể đền bù nếu vấn đề đó được giải quyết bằng cách hữu nghị. Thay vào đó, hàng ngày họ phải đi ngược lại toàn bộ chặng đường đến ngôi làng và mang các thùng chứa nước 20 lít ngược lên 1.500 feet7 đường núi cho trại chúng tôi.

Vào sáng ngày thứ hai ở trại, một sự kiện hú tim đã dạy cho tôi rằng quan hệ lãnh thổ giữa người miền núi và miền sông nước phức tạp hơn những tuyên bố rõ ràng trắng đen về sự loại trừ lẫn nhau hoàn toàn ở vùng đất của mỗi bên. Cùng với một người đàn ông miền núi, tôi đi ngược lại đến khúc giao hình chữ T của đường mòn và đi tiếp về bên trái dọc theo đường sườn núi để dọn sạch một đường mòn cũ kỹ rậm rạp. Bạn đồng hành miền núi của tôi không có vẻ lo lắng về sự có mặt của chúng tôi ở đây và tôi nghĩ rằng, kể cả nếu người miền sông nước thấy chúng tôi ở đây, họ không được phép phản đối hành động của chúng tôi ở đường sườn núi miễn là chúng tôi không lấn sang phía của họ. Tuy nhiên sau đó, chúng tôi nghe tiếng người đang lên núi từ phía nam. Uh-ho! Người miền sông nước! Nếu họ tiếp tục tiến lên núi đến đường sườn núi và khúc giao chữ T, họ sẽ nhận ra các dấu hiệu của việc dọn dẹp đường mòn mới diễn ra và lần theo chúng tôi, chúng tôi sẽ bị bắt ở đây, họ có thể cho là chúng tôi xâm phạm vào lãnh thổ của họ và ai mà biết được họ sẽ làm gì.

Tôi lắng nghe đầy vẻ lo lắng và cố gắng theo sát những chuyển động của tiếng người và ước tính vị trí của họ. Đúng vậy, họ thật sự đang đi lên hướng đến đường sườn núi từ phía của họ. Hiện giờ, họ đã phải có mặt ở khúc quanh chữ T, nơi họ không thể không thấy các dấu hiệu của con đường mòn sạch sẽ. Liệu họ có đuổi theo chúng tôi không? Tôi tiếp tục theo sát những giọng người khi chúng có vẻ như lớn dần, át tiếng tim đập nhói lên trong tai tôi. Tuy nhiên sau đó, những giọng nói này không tiến đến nữa mà đang xa dần. Có phải họ đang trở lại phía nam và làng của người miền sông nước? Không! Họ đang đi xuống phía bắc hướng đến làng người miền núi của chúng tôi! Không thể nào! Đó có phải là một cuộc tấn công đột kích? Nhưng có vẻ như chỉ có hai hoặc ba giọng người và họ lại đang nói lớn: không phải là thứ người ta chờ đợi từ một nhóm tập kích lén lút.

Người bạn đồng hành giải thích, không có gì phải lo lắm; mọi việc vẫn ổn. Người miền núi chúng tôi (anh ta nói) công nhận việc người miền sông nước được đi xuống con đường mòn một cách hòa bình đến làng chúng tôi và rồi đi từ đó đến bờ biển để mua bán. Người miền sông nước không được phép rời khỏi đường mòn để tìm kiếm thức ăn hoặc chặt gỗ, nhưng đi trên đường mòn thì được. Hơn nữa, có hai người đàn ông miền sông nước đã kết hôn với phụ nữ miền núi và chuyển đến định cư ở làng miền núi. Điều đó có nghĩa là, không chỉ là sự thù ghét thuần túy giữa hai nhóm, mà thay vào đó là một thỏa thuận căng thẳng. Một số điều được cho phép và những điều khác bị cấm theo sự đồng thuận chung, trong khi những điều khác (như chủ quyền đất ở ngôi lều và khu vườn bỏ hoang) vẫn còn đang tranh cãi.

Hai ngày sau, tôi không hề nghe thấy giọng nói người miền sông nước gần đó một lần nào nữa. Tôi vẫn chưa thấy một người miền sông nước nào và không hề biết họ trông ra sao và ăn mặc thế nào. Tuy nhiên, ngôi làng của họ đủ gần nên có một lần tôi nghe thấy tiếng trống trong làng đó vọng lên từ lưu vực sông phía nam cùng lúc tôi có thể nghe loáng thoáng tiếng hét ở xa phía dưới từ ngôi làng miền núi trên lưu vực phía bắc. Khi người dẫn đường miền núi và tôi đi bộ ngược lại phía cắm trại, chúng tôi trêu đùa nhau về việc mình sẽ làm gì với một người miền sông nước nếu chúng tôi bắt được một người ở đây. Bất ngờ, ngay khi chúng tôi vòng qua một khúc quanh ở đường mòn và sắp đến trại, người chỉ đường của tôi ngừng nói đùa, đưa tay anh ta che miệng tôi và cảnh báo tôi bằng một giọng trầm, "Sh-h-h! Người miền sông nước!"

Ở nơi đó, trong trại chúng tôi, là một nhóm những người đồng hành miền núi quen thuộc đang nói chuyện với sáu người tôi chưa từng thấy bao giờ: ba người đàn ông, hai phụ nữ và một trẻ em. Ở đó, cuối cùng thì tôi cũng đã thấy những người miền sông đáng sợ! Họ không phải là những con quái vật nguy hiểm mà tôi tưởng tượng trong vô thức, mà là những người New Guinea dáng vẻ bình thường, không khác với những người miền núi đang trò chuyện với họ. Đứa trẻ miền sông nước và hai người phụ nữ hoàn toàn không đáng sợ. Ba người đàn ông mang theo cung và tên (cũng như tất cả đàn ông miền núi) nhưng lại mặc áo thun ngắn tay và trông không giống như trang phục chiến đấu. Cuộc trò chuyện giữa người miền sông nước và miền núi có vẻ thân thiện và không căng thẳng. Hóa ra là nhóm người sông nước này đang đi xuống bờ biển và cố tình đến thăm trại chúng tôi, có lẽ chỉ để đảm bảo rằng ý định hòa bình của họ không bị hiểu lầm và chúng tôi không tấn công họ.

Đối với người miền núi và miền sông nước, chuyến viếng thăm này là một hoạt động bình thường trong mối quan hệ phức tạp trải rộng ở nhiều hành vi: hiếm hoi, các vụ giết người bí mật; thường xuyên hơn, các vụ giết người được tin là bằng thuốc độc hoặc yêu thuật; quyền qua lại được công nhận khi làm một số điều (như tạm đi ngang qua để đến bờ biển và viếng thăm xã giao) nhưng không phải là những điều khác (như tìm kiếm thức ăn, gỗ và nước khi đi ngang qua); mâu thuẫn về những vấn đề khác (như căn lều và khu vườn kia) mà thỉnh thoảng bùng lên bạo lực; việc kết hôn qua lại với tần suất bằng với các vụ giết người bí mật (cứ mỗi vài thế hệ). Tất cả những việc này giữa hai nhóm người mà với tôi không khác biệt về vẻ bề ngoài, nói những loại ngôn ngữ tuy khác biệt nhưng có liên hệ, hiểu được ngôn ngữ của nhau, mô tả lẫn nhau bằng những từ vốn chỉ được dành cho các giống mọi rợ xấu xa và xem nhóm còn lại là những kẻ thù tồi tệ nhất.

Những lãnh thổ không dùng chung

Theo lý thuyết, quan hệ không gian giữa các xã hội láng giềng truyền thống có thể bao gồm một tập hợp rất nhiều loại, từ một thái cực là loại lãnh thổ riêng biệt không chồng lấn với những ranh giới được canh gác và không dùng chung, đến hình thức lãnh thổ được tiếp cận tự do đối với mọi người từ mọi nơi và không lãnh thổ nào được thừa nhận ở thái cực còn lại. Có lẽ không xã hội nào lại theo đuổi đầy đủ cả hai thái cực này, dù một số đã tiến gần đến thái cực đầu tiên. Ví dụ, những người bạn miền núi mà tôi vừa kể không cách thái cực này quá xa: họ có những ranh giới xác định để tuần tra, họ khẳng định tuyên bố độc quyền với những tài nguyên trong lãnh thổ của họ và cho phép người ngoài tiếp cận chỉ để đi ngang qua và vì các vụ hôn nhân xuyên lãnh thổ hiếm hoi.

Các xã hội khác tiến đến thái cực lãnh thổ độc chiếm bao gồm người Dani của thung lũng Baliem phía tây Cao nguyên New Guinea, người Iñupiat (một nhóm người Inuit)8 ở Tây Bắc Alaska, người Ainu phía bắc Nhật Bản, người Yolngu (nhóm Dân bản địa ở vùng Arnhem Land ở Tây Bắc úc), thổ dân Da đỏ Shoshone ở thung lũng Owens, California, thổ dân Da đỏ Yanomamo ở Brazil và Venezuela. Ví dụ, người Dani làm thủy lợi và canh tác các khu vườn vốn được tách biệt khỏi những khu vườn của nhóm Dani liền kề bằng khu đất không có vườn và vô chủ. Mỗi nhóm xây dựng một hàng tháp canh bằng gỗ cao đến gần 10m về phía của họ ở vùng đất không thuộc sở hữu riêng, với một cái bệ trên cùng đủ lớn cho một người ngồi. Gần như cả ngày, người ta thay phiên nhau quan sát từ mỗi tháp canh, trong khi những người khác ngồi ở chân tháp để bảo vệ tháp và người quan sát, người này bao quát khu vực để tìm ra những kẻ thù đang tiếp cận lén lút và báo động trong trường hợp bị tấn công bất ngờ.

Một ví dụ khác, người Iñupiat của Alaska gồm 10 nhóm với các lãnh thổ không dùng chung. Người từ một vùng lãnh thổ bị bắt khi đi vào vùng lãnh thổ khác theo lệ sẽ bị giết nếu họ không chứng minh được mình có quan hệ với chủ nhân lãnh thổ đó, người đã bắt họ. Hai lý do thường xuyên nhất cho việc xâm nhập là những thợ săn vượt qua ranh giới khi mải miết đuổi theo tuần lộc và thợ săn hải cẩu trên tảng băng bị đứt gãy và trôi dạt khỏi đất liền. Trong trường hợp thứ hai, nếu tảng băng sau đó trôi ngược lại bờ và đưa người thợ săn đến vùng lãnh thổ khác, họ sẽ bị giết. Đối với chúng ta những người không phải người Iñupiat, điều đó có vẻ bất công một cách tàn nhẫn: những người thợ săn tội nghiệp đã phải gánh lấy rủi ro lớn khi bị đẩy đi trên một tảng băng trôi, họ gặp xui xẻo khi tảng băng đứt gãy, sau đó họ gặp rủi ro chết người nếu bị chìm hoặc trôi ra biển, giờ đây họ thật may mắn nếu sau đó được trôi lại vào bờ, họ không hề có ý định xâm nhập mà chỉ bị đưa đến một cách không chủ đích bởi dòng nước - nhưng họ vẫn bị giết ngay khi được cứu khỏi chết chìm hoặc trôi dạt ra đại dương. Nhưng đó là luật lệ trong cuộc sống của người Iñupiat. Tuy nhiên, tính loại trừ lãnh thổ của người Iñupiat không phải tuyệt đối: người ngoài thỉnh thoảng được phép đi vào lãnh thổ vì lý do đặc biệt như hội chợ hè, hoặc đi ngang qua lãnh thổ vì lý do đặc biệt khác như viếng thăm hoặc tấn công một nhóm ở xa sống bên ngoài rìa của vùng lãnh thổ được đi ngang qua.

Khi chúng tôi thu thập ví dụ về các xã hội (như những người bạn miền núi của tôi, người Dani, và người Iñupiat) đang tiến về thái cực lãnh thổ được bảo vệ không dùng chung, chúng tôi khám phá ra rằng kết quả đó hình thành từ sự kết hợp bốn điều kiện. Đầu tiên, lãnh thổ được bảo vệ đòi hỏi dân số đủ lớn và đủ đông để người ta có thể có dư người dành thời gian chỉ để canh gác lãnh thổ, nhờ đó người dân đó không cần phải trông cậy mọi người phải thi thoảng canh chừng kẻ xâm nhập khi đang trong cuộc mưu sinh hằng ngày. Thứ hai, lãnh thổ loại trừ đòi hỏi môi trường có năng suất cao, ổn định và tiên đoán được mà ở đó người chủ sở hữu lãnh thổ có thể tin tưởng thường xuyên tìm được hầu hết hoặc tất cả tài nguyên cần thiết, như thế họ hiếm khi hoặc không bao giờ phải đi ra ngoài lãnh thổ của mình. Thứ ba, lãnh thổ phải chứa một số tài nguyên cố định quý giá hoặc những cải tiến tư bản đáng để bảo vệ và hy sinh, như những khu vườn năng suất cao, những vườn cây ăn trái, đập cá hoặc mương thủy lợi vốn đòi hỏi nhiều nỗ lực xây dựng và duy trì. Cuối cùng, trạng thái thành viên của nhóm phải tương đối ổn định và các nhóm láng giềng phải thật khác biệt, ít có sự di cư giữa các nhóm - ngoại lệ chủ yếu là việc di chuyển của những thanh niên chưa kết hôn (phụ nữ thường nhiều hơn đàn ông) rời nhóm sinh thành để kết hôn ở một nhóm khác.

Chúng tôi có thể quan sát được bốn điều kiện này phù hợp đến mức nào ở các nhóm tôi vừa đề cập là tiến đến thái cực lãnh thổ độc chiếm và ranh giới được bảo vệ. Những người bạn miền núi New Guinea của tôi đầu tư nhiều vào các khu vườn quanh năm, lợn và cánh rừng của họ, những nơi mà theo truyền thống họ sẽ gặt hái tất cả những thứ họ cần. Dọn rừng và trồng vườn rất tốn sức lao động với họ, và thậm chí còn tốn nhiều hơn nữa đối với những người Dani ở phía tây New Guinea, họ phải đào và duy trì hệ thống mương chằng chịt để cấp nước và rút nước cho khu vườn. Người Iñupiat và Ainu chiếm đóng những vùng lãnh thổ quanh năm dồi dào nguồn tài nguyên biển là cá nước mặn, hải cẩu, cá heo và chim biển, cá nước ngọt, chim nước và các vùng trong đất liền với động vật có vú trên cạn để săn bắt. Tương tự, người Yolngu của vùng Arnhem Land sống trong những khu dân cư đông đúc được hình thành bởi sự kết hợp của những tài nguyên biển và đất liền năng suất cao. Thổ dân da đỏ Shoshone của thung lũng Owens là người săn bắt - hái lượm sống ở mật độ tương đối cao trong vùng nước nhiều cho phép họ tưới đất và gia tăng sản lượng hạt cỏ dại ăn được và mang lại những vụ thu hoạch trái thông có thể dự trữ được. Trữ lượng thức ăn, vườn thông, hệ thống tưới tiêu rất đáng bảo vệ và cũng có đủ người Shoshone của thung lũng Owens để bảo vệ chúng. Cuối cùng, thổ dân da đỏ Yanomamo duy trì việc trồng cây cọ đào và cây mã đề giúp cung cấp lương thực cho nhiều năm và đang được được bảo vệ.

Ở những vùng có dân số đặc biệt lớn và đông đúc như những vùng của người Dani và người Nuer ở Sudan, không chỉ có những nhóm riêng biệt với lãnh thổ riêng cho từng nhóm, mà các nhóm lãnh thổ đó cũng được chia thành các hệ thống cấp bậc với ba cấp hoặc hơn. Những hệ thống thứ bậc đó nhắc chúng ta về cách tổ chức thứ bậc liên quan đến đất đai, con người và sự kiểm soát chính trị vốn quen thuộc với chúng ta ở các xã hội nhà nước hiện đại, bắt đầu với mảnh đất xây nhà cá nhân, rồi kết hợp lại thành thành phố, hạt, bang rồi đến chính quyền quốc gia. Ví dụ, người Nuer, có khoảng 200.000 người trong diện tích 30.000 dặm9 vuông, được chia thành các bộ tộc với từ 7.000 đến 42.000 người trong mỗi bộ tộc, mỗi bộ tộc lại được chia và chia nhỏ hơn nữa thành các tiểu tộc cấp một, cấp hai và cấp ba, xuống đến các ngôi làng có khoảng 50 đến 700 người và cách nhau từ 9 đến 32km. Đơn vị càng nhỏ và càng thấp trong hệ thống cấp bậc, càng có ít xung đột về ranh giới và những vấn đề khác, họ hàng và bạn bè càng chịu áp lực phải liên kết với những bên xung đột để giải quyết mâu thuẫn nhanh chóng và không bạo lực đồng thời càng khó có ẩu đả xảy ra. Ví dụ, người Nuer chịu rất ít hạn chế trong cách ứng xử với các bộ tộc Dinka láng giềng: họ thường xuyên tấn công người Dinka, cướp gia súc Dinka, giết đàn ông Dinka, bắt một số phụ nữ và trẻ em Dinka làm tù binh và giết những người khác. Tuy nhiên, những cuộc chiến của người Nuer chống lại các tộc Nuer khác chỉ gồm vài cuộc tấn công thưa thớt, giết một vài người đàn ông và không giết hoặc bắt cóc phụ nữ, trẻ em.

Sử dụng đất chung

Thái cực trái ngược của ít hoặc không hề độc chiếm hiện diện ở các điều kiện là đảo ngược của các điều kiện có sự độc chiếm. Một điều kiện như vậy là dân số nhỏ và thưa thớt khiến việc tuần tra (thay vì thỉnh thoảng trông chừng những kẻ xâm nhập khi đang làm việc khác) trở nên bất khả thi. Ví dụ, một xã hội chỉ có một gia đình duy nhất không thể kham nổi việc tuần tra liên tục, vì xã hội này không thể để người đàn ông trưởng thành duy nhất ngồi cả ngày ở đỉnh tháp canh. Điều kiện thứ hai liên quan đến năng suất thấp, đất đai khó canh tác và môi trường biến động với tài nguyên ít ỏi và không thể dự đoán, như vậy bất kỳ lãnh thổ nào người ta có thể tuyên bố chủ quyền sẽ thường (vì một số lý do hoặc trong một năm không thuận lợi) không có những tài nguyên cần thiết, từ đó định kỳ người ta sẽ phải tìm kiếm tài nguyên ở lãnh thổ của một nhóm khác và ngược lại. Thứ ba, không cần phải đánh cược tính mạng để bảo vệ vùng lãnh thổ không có gì đáng để hy sinh: nếu lãnh thổ đó bị tấn công, tốt hơn là nên di chuyển đến nơi khác. Cuối cùng, các vùng lãnh thổ có khả năng dùng chung nếu quyền thành viên nhóm linh động và nếu các thành viên nhóm thường viếng thăm hoặc chuyển sang nhóm khác. Dù sao việc ngăn chặn một nhóm nào đó sẽ không có nghĩa lý gì khi nửa số thành viên của nhóm đó là những người viếng thăm hoặc chuyển đến từ nhóm của chính bạn.

Tuy nhiên, hình thức phân chia đất đai thông thường trong những điều kiện của tình trạng không độc chiếm không phải là thái cực mở cho tất cả mà bất kỳ ai cũng có thể làm bất cứ việc gì ở bất cứ nơi đâu. Thay vì vậy, vẫn là tình cảnh mà mỗi nhóm xác định một khu vực cốt lõi cụ thể. Các xã hội không độc chiếm khác với các xã hội độc chiếm ở chỗ, thay vì vùng đất không thuộc sở hữu của bất cứ ai vốn được phân định rõ ràng bởi các tháp canh của người Dani, các ranh giới được công nhận không hề tồn tại và quyền sở hữu đất ngày càng trở nên mờ nhạt vì người ta ngày càng di chuyển ra xa khỏi khu vực cốt lõi. Một điểm khác biệt khác nữa của xã hội không độc chiếm so với xã hội độc chiếm là các nhóm láng giềng được phép đi lại trong vùng lãnh thổ của bạn thường xuyên hơn với nhiều mục đích khác nhau hơn - đặc biệt là để lấy thức ăn và nước vào một số mùa hoặc trong một số năm. Cũng vậy, bạn có thể dễ dàng được phép đi đến lãnh thổ láng giềng khi bạn cần, do đó sự dàn xếp này trở thành một giao dịch dựa trên sự qua lại và lợi ích chung.

Một ví dụ về quyền sở hữu đất không loại trừ được trình bày chi tiết là những người!Kung săn bắt - hái lượm của vùng Nyae Nyae thuộc Sa mạc Kalahari. Khi được nghiên cứu vào những năm 1950, họ gồm 19 nhóm với 8-42 người/nhóm, mỗi nhóm với "lãnh thổ" riêng (gọi là n!ore) rộng từ 100 đến 250 dặm vuông. Tuy nhiên, biên giới giữa các n!ore không rõ ràng: khi các nhà nhân học và những người!Kung cung cấp thông tin đi cùng nhau từ trại của những người cung cấp thông tin này đến n!ore tiếp theo, những người cung cấp thông tin càng lúc càng không chắc chắn, hoặc càng bất đồng với nhau về việc họ đang đứng ở n!ore nào khi đi xa hơn khỏi trung tâm n!ore của họ. Không có tháp canh hoặc đường mòn sườn núi nào để đánh dấu ranh giới giữa các n!ore.

N!ore của người!Kung không bị độc chiếm vì việc chia sẻ tài nguyên của n!ore rất cần thiết và khả thi. Việc chia sẻ tài nguyên là cần thiết vì nước ở sa mạc Kalahari rất hiếm hoi và mỗi nhóm cần phải dành đa số thời gian ở gần nguồn nước. Tuy nhiên, cũng có những biến động không thể dự đoán được về lượng mưa giữa các năm. Nhiều nguồn nước trong vùng cạn đi trong mùa khô. Chỉ hai nguồn nước trong vùng không bao giờ biến mất trong giai đoạn nghiên cứu; 3 hồ khác thường có nước quanh năm dù có cạn trong một vài năm nhất định; 5 hồ nữa chỉ thỉnh thoảng có nước trong mùa khô; và 50 hồ có nước theo mùa và luôn khô hạn vào các mùa khác. Do đó trong mùa khô, có đến 200 người từ nhiều nhóm tụ tập ở một nguồn nước lâu dài với sự cho phép của các chủ sở hữu, những người chủ này rồi lại được phép đi đến và sử dụng tài nguyên của các n!ore khác khi những nơi đó có nguồn tài nguyên dồi dào. Do đó, nhu cầu về nước đòi hỏi người!Kung phải có các vùng lãnh thổ không độc chiếm: không có ý nghĩa gì khi tuyên bố độc quyền sử dụng một vùng nếu vùng đó có thể cạn nước và do đó trở nên vô dụng. Trái lại, mức độ dư thừa rất lớn một số tài nguyên theo mùa cho phép dùng chung: không có nghĩa gì khi gây hấn với những liên minh có thể sẽ hữu ích trong tương lai bằng cách ngăn họ vào lãnh thổ của bạn khi vùng đất đó đang tạo ra nhiều thức ăn hơn cần thiết. Điều đó đặc biệt đúng với loại lương thực là hạt mongongo, đậu và dưa theo mùa.

Có thể cho rằng, bất kỳ ai từ bất kỳ nhóm nào ở vùng Nyae Nyae cũng có thể săn bắt ở mọi nơi, kể cả bên ngoài n!ore của nhóm người đó. Tuy nhiên, nếu bạn giết một con thú bên ngoài n!ore của mình, bạn cần phải tặng quà là thịt thú nếu gặp phải một thành viên của nhóm sở hữu n!ore đó. Mặc dù vậy, sự tự do ra vào để săn bắt đó không áp dụng cho những thợ săn!Kung từ những vùng xa xôi hơn. Nhìn chung, các nhóm!Kung láng giềng có thể sẵn sàng cho phép nhau sử dụng n!ore của mình vào các mục đích khác, như lấy nước, hạt mongongo, đậu và dưa - nhưng trước tiên, họ phải xin phép và phải có nghĩa vụ đối ứng sau đó bằng cách cho phép những người bản địa đến n!ore của họ. Cuộc chiến có thể nổ ra nếu họ không xin phép. Các nhóm ở xa hơn phải đặc biệt cẩn thận khi xin phép và cần giới hạn khoảng thời gian cũng như số người tiếp cận. Những người ngoài không có quan hệ huyết thống và hôn nhân được công nhận với những người sở hữu n!ore đó không thể tiếp cận. Do đó, các lãnh thổ dùng chung chắc chắn không có nghĩa là tự do cho tất cả mọi người.

Quyền sử dụng đất và tài nguyên, cho dù độc chiếm hay không, bao hàm khái niệm quyền sở hữu. Ai sở hữu n!ore của một nhóm!Kung? Câu trả lời là k’ausi của nhóm đó, nghĩa là một nhóm nòng cốt gồm những người già hoặc nếu không thì là một người già trong những người đã sống ở khu vực đó lâu nhất. Tuy nhiên, thành phần của nhóm lại linh hoạt và thay đổi hằng ngày, vì người ta thường đi thăm họ hàng ở các n!ore khác, đi theo mùa đến những n!ore có nguồn nước hoặc thức ăn dồi dào, một số người còn thay đổi nhóm mãi mãi vì nhiều lý do, và một chú rể mới cùng với những người phụ thuộc anh ta (cha mẹ già, người vợ đầu tiên và những đứa con nếu anh ta đang lấy người vợ thứ hai) có thể sống với nhóm của người vợ mới trong khoảng một thập niên cho đến khi anh ta và người vợ mới sinh thêm vài đứa con. Do đó, nhiều người!Kung dành nhiều thời gian ở bên ngoài hơn là tại n!ore của họ. Trong một năm, trung bình 13% dân số chuyển khu sinh sống mãi mãi từ trại này sang trại khác và 35% dân số phân chia thời gian sinh sống bằng nhau giữa hai hoặc ba trại. Trong những điều kiện đó, chỉ một phần nào dân số của nhóm ở n!ore láng giềng là người của chính nhóm đó; họ không phải là lũ mọi rợ xấu xa với hình thức chuyển dịch duy nhất giữa các nhóm là hai cuộc hôn nhân khác nhóm trong vài thế hệ như trường hợp những người bạn miền núi New Guinea của tôi. Bạn sẽ không ứng xử độc chiếm cứng rắn với những tài nguyên của mình khi nhiều "người xâm nhập" thực ra lại là anh em ruột và họ hàng, hay những đứa con trưởng thành và cha mẹ cao tuổi của bạn.

Một miêu tả thú vị khác về lãnh thổ dùng chung có liên quan đến người Shoshone vùng Đại bồn địa ở Bắc Mỹ, họ là người châu Mỹ bản địa thuộc cùng nhóm ngôn ngữ với người Shoshone ở thung lũng Owens mà tôi đã đề cập trong mô tả về lãnh thổ độc chiếm. Những người anh em Đại bồn địa của họ khác họ về cách sử dụng đất vì những khác biệt môi trường. Trái với đất đai thung lũng Owens đầy đủ nước, phù hợp để làm thủy lợi và đáng để bảo vệ, vùng Đại bồn địa là một sa mạc khô hạn khắc nghiệt, rất lạnh vào mùa đông, tài nguyên hiếm hoi và khó ước đoán đồng thời có rất ít cơ hội để dự trữ thực phẩm. Mật độ dân số ở Đại bồn địa chỉ vào khoảng một người trên mỗi 16 dặm vuông. Người Shoshone vùng Đại bồn địa sống trong những gia đình tách biệt phần lớn thời gian trong năm, quy tụ lại vào mùa đông thành những trại có 5 hoặc 10 gia đình gần các dòng suối và rừng thông, thường xuyên kết hợp thành các nhóm lớn hơn gồm 15 gia đình cho những chuyến săn sơn dương và thỏ mang tính công xã. Họ không duy trì những vùng lãnh thổ được phân định rõ ràng. Thay vào đó, các gia đình đơn lẻ sở hữu một số địa phận cụ thể như khu rừng thông, vốn có thể được san sẻ với các gia đình khác nhưng có thỏa thuận: những người đi vào có ý định thu hoạch hạt thông mà không thỏa thuận trước sẽ bị đánh đuổi bằng cách ném đá. Các tài nguyên thực vật và động vật khác được chia sẻ theo những quyền không độc chiếm linh động hơn.

Cuối cùng, mức thấp nhất trong phân biệt và tuần tra lãnh thổ thuộc về thổ dân da đỏ Machiguenga của Peru và thổ dân da đỏ Siriono của Bolivia trong các vùng rừng nhiệt đới. Vào những thời điểm các nhóm người này được nghiên cứu bởi những nhà nhân học, người Machiguenga là những người trồng vườn sống với mật độ dân số ít ỏi, có thể vì dân số đông hơn trước đây đã bị tụt giảm do những căn bệnh mà người châu âu mang đến hoặc nếu không thì từ những vụ giết hại trong giai đoạn bùng nổ cao su và cũng vì nông nghiệp trong vùng của họ chỉ cho năng suất thấp. Người Machiguenga di chuyển theo mùa để tìm thức ăn hoang dã và để dọn khỏi những khu vườn chặt - và - đốt vốn chỉ tạo ra thức ăn cho một vài năm đồng thời không đáng phải đánh nhau để giữ lại. Không có lãnh thổ nào: về lý thuyết, mọi nguồn tài nguyên rừng và sông nước đều mở với tất cả những người Machiguenga. Trên thực tế, các nhóm gồm nhiều gia đình duy trì khoảng cách với vùng trú ngụ của những nhóm khác. Tương tự, thổ dân da đỏ Siriono do nhà nghiên cứu Allan Holmberg nghiên cứu sinh sống bằng cách săn bắt - hái lượm và một số loại hình nông nghiệp thông thường trong các nhóm gồm từ 60 đến 80 người, không có lãnh thổ xác định. Tuy nhiên, nếu một nhóm đi vào địa phận săn bắt do một nhóm khác tạo ra, nhóm này sẽ chọn không săn trong khu vực săn bắt của nhóm kia. Có một sự dè chừng không chính thức ở đây.

Do đó, cách sử dụng đất truyền thống bao gồm rất nhiều hình thức, từ lãnh thổ được đánh dấu rõ ràng có tuần tra, được bảo vệ và loại trừ người ngoài bằng việc giết hại, đến những khu vực trú ngụ không có ranh giới rõ ràng và người ngoài có thể sử dụng bằng những thỏa thuận chung đến các khu vực trú ngụ được giữ tách biệt chỉ bằng hình thức tránh lẫn nhau phi chính chức. Không một xã hội truyền thống nào chấp nhận quyền tiếp cận tương đối mở rộng như những người Mỹ hiện đại hoặc công dân Liên minh châu âu, hầu hết những người này có thể đi đến mọi nơi trong nước Mỹ hoặc Liên minh châu âu và cũng có thể đi đến nhiều nước khác chỉ bằng cách trình ra hộ chiếu và visa có hiệu lực cho các nhân viên kiểm soát hộ chiếu ở biên giới (Dĩ nhiên, vào ngày 11/9/2011, sự kiện tấn công Trung tâm Thương mại Thế giới đã đẩy người Mỹ lùi về với mối nghi ngờ người lạ truyền thống và đã dẫn đến những giới hạn trong việc đi lại tự do, chẳng hạn như danh sách cấm bay và các điểm kiểm tra an ninh sân bay). Tuy nhiên, người ta cũng có thể cho rằng hệ thống hiện đại của chúng ta về quyền tiếp cận tương đối mở là một phiên bản mở rộng cao cấp của các quyền và giới hạn tiếp cận truyền thống. Những người truyền thống, sống trong xã hội có vài trăm cá thể, tìm kiếm quyền tiếp cận đến lãnh thổ của người khác bằng khả năng quen biết cá nhân, bằng các mối quan hệ cá nhân và bằng cách xin phép cá nhân. Trong xã hội của chúng ta với hàng trăm triệu người, định nghĩa của chúng ta về "quan hệ" mở rộng ra với bất kỳ công dân nào của nhà nước chúng ta hoặc của một nhà nước bạn nào đó và việc xin phép được chính thức hóa cũng như được cung cấp với số lượng lớn bằng phương tiện hộ chiếu và visa.

Bạn hữu, kẻ thù và người lạ

Tất cả những hạn chế về di chuyển tự do đó khiến thành viên của các xã hội quy mô nhỏ phải phân loại con người thành ba nhóm: bạn hữu, kẻ thù và người lạ. "Bạn hữu" là những thành viên trong chính nhóm hoặc làng của bạn, của các nhóm và làng láng giềng mà nhóm bạn đang có quan hệ hòa bình vào thời điểm hiện tại. "Kẻ thù" là thành viên của các nhóm và làng láng giềng mà nhóm bạn đang có quan hệ thù địch vào thời điểm hiện tại. Tuy nhiên, bạn có thể biết ít nhất tên và mối quan hệ, khả năng cả bộ dạng của nhiều hoặc hầu hết cá thể trong các nhóm thù địch đó, vì bạn sẽ nghe về họ hoặc thật sự gặp họ trong quá trình đàm phán bồi thường, các giai đoạn hòa bình có được từ việc thay đổi liên minh và việc trao đổi cô dâu (hoặc thỉnh thoảng là chú rể) trong các giai đoạn ngừng chiến đó. Một ví dụ là hai người đàn ông miền sông nước nhờ hôn nhân đã trở thành một phần trong ngôi làng của những người bạn miền núi của tôi.

Nhóm còn lại là "người lạ": những cá thể không biết thuộc về các nhóm ở xa mà nhóm bạn ít hoặc không liên lạc. Hiếm khi hoặc không bao giờ thành viên của các xã hội quy mô nhỏ gặp phải người lạ vì việc đi vào một khu vực lạ với những cư dân bạn không biết hoặc hoàn toàn không có quan hệ là một hành động tự sát. Nếu bạn thực sự gặp một người trong lãnh thổ của mình, bạn phải xem như người đó rất nguy hiểm vì (với các mối nguy hiểm khi đi đến những khu vực không quen thuộc) người lạ rất có khả năng đang thám thính để đột kích hoặc giết chết nhóm của bạn, hoặc nếu không thì sẽ xâm nhập để săn bắt, ăn trộm tài nguyên hoặc bắt cóc phụ nữ chưa lập gia đình.

Trong vùng dân cư địa phương quy mô nhỏ với khoảng vài trăm người, bạn chắc chắn biết tên và mặt của tất cả thành viên, chi tiết của mọi mối quan hệ máu mủ, quan hệ hôn nhân và quan hệ nhận nuôi của họ, cũng như biết những việc đó có liên hệ đến bạn như thế nào. Khi bạn thêm vào nhóm của chính bạn một số nhóm láng giềng thân thiết, tất cả những "bạn hữu" tiềm năng của bạn có thể lên đến hơn 1.000 người, bao gồm nhiều người bạn đã nghe đến nhưng thực sự chưa bao giờ thấy. Do đó giả sử rằng, trong khi ra ngoài một mình cách xa khu vực trung tâm của bạn hoặc gần biên giới khu vực, bạn gặp một người hoặc những người bạn không thể nhận ra. Nếu họ có một số người và bạn chỉ có một mình, bạn sẽ chạy đi và ngược lại. Nếu bạn một mình và họ cũng một mình, và nếu hai người bạn thấy nhau từ xa, cả hai có thể sẽ chạy đi nếu nhìn qua để đoán thế cân bằng sức mạnh (ví dụ, hai người đàn ông trưởng thành, chứ không phải một người đàn ông đối mặt một phụ nữ hoặc một đứa trẻ). Nhưng nếu bạn đi qua một khúc cua và bất ngờ đối mặt một người khác, và đã quá trễ để chạy, đó là cách căng thẳng nảy sinh. Tình huống này có thể được giải quyết bằng cách cả hai cùng ngồi xuống, mỗi người tự xưng danh, họ hàng của mình và nói cụ thể bạn có liên quan đến họ như thế nào đồng thời tiếp tục nỗ lực xác định một người bà con chung, như vậy để xác minh cả hai sẽ có quan hệ nào đó với người còn lại và không có lý do để tấn công lẫn nhau. Nhưng nếu sau một vài giờ đối thoại như vậy mà cả hai vẫn không thể xác định được bà con chung, bạn không thể quay lưng đi và nói, "Rất vui được gặp bạn, tạm biệt". Thay vào đó, bạn hoặc anh ta hoặc cả hai phải xem nhau là người xâm nhập mà không có mối quan hệ để biện minh cho chuyến đi, rất có khả năng giữa hai người sẽ nổ ra một cuộc đuổi bắt hoặc một cuộc chiến.

Người sử dụng thổ ngữ!Kung Trung tâm trong khu vực Nyae Nyae gọi những người khác sử dụng cùng ngôn ngữ đó là jũ/wãsi, với jũ nghĩa là "người," si là hậu tố số nhiều và wã gần nghĩa với "thật, tốt, thành thật, sạch sẽ, không có hại". Những chuyến đi tới lui giữa mọi người trong khu vực Nyae Nyae tạo nên sự quen thuộc cá nhân hợp nhất 19 nhóm và toàn bộ khoảng 1.000 thành viên của khu vực đó và biến họ thành jũ/wãsi của nhau. Từ ngược lại jũ/dole (từ dole hàm ý "xấu xa, lạ, có hại") được dùng cho tất cả người da trắng, người Bantu da đen và thậm chí cả người!Kung nói cùng thổ ngữ nhưng thuộc về một nhóm ở xa mà bạn không có họ hàng hay người quen. Như thành viên của các xã hội quy mô nhỏ khác, người!Kung hơi lo ngại về người lạ. Trên thực tế, họ thành công trong việc tìm kiếm một số thuật ngữ chỉ quan hệ để dùng cho hầu như tất cả những người!Kung họ gặp. Nhưng nếu bạn gặp một người!Kung lạ và không thể xác định được bất kỳ quan hệ nào với anh ta sau khi bạn dò theo quan hệ của bạn và anh ta dò theo quan hệ của anh ta, thì khi đó anh ta trở thành người xâm nhập mà bạn cần đánh đuổi hoặc giết chết.

Ví dụ, một người đàn ông!Kung tên Gao, theo đề nghị của nhà nhân học Lorna Marshall, đưa cô đến một nơi gọi là Khadum, nằm ngoài nhưng không quá xa về phía bắc của vùng Nyae Nyae. Gao chưa từng đến Khadum và rất ít người!Kung Nyae Nyae khác từng ở đó. Người!Kung ở Khadum ban đầu gọi Gao là một jũ/dole, đồng nghĩa với một sự tiếp đón lạnh nhạt và có thể gây rắc rối. Tuy nhiên, Gao nhanh chóng nói rằng anh có nghe cha của ai đó sống ở Khadum có cùng tên với cha của Gao và ai đó ở Khadum có người anh em tên Gao, giống tên của Gao. Người!Kung ở Khadum sau đó nói với Gao, "Như vậy, bạn là!gun!a của Gao [nghĩa là Gao của chúng tôi]."(!gun!a là từ chỉ quan hệ). Sau đó, họ chấp nhận cho Gao tham gia lửa trại và tặng thức ăn cho anh ta.

Một cách phân loại tương tự tồn tại giữa những thổ dân da đỏ Ache của Paraguay. Khi những người châu âu sống trong hòa bình tiếp cận khoảng 700 người Ache, sống thành các nhóm với mỗi nhóm gồm từ 15 đến 70 người và vài nhóm sẽ kết hợp chặt chẽ thành một nhóm lớn. Có bốn nhóm lớn như vậy. Người Ache gọi những thành viên trong nhóm lớn của họ là irondy (nghĩa là những người theo tục lệ là người của chúng ta hoặc là anh em) và gọi người Ache ở ba nhóm lớn khác là irolla (nghĩa là những người Ache không phải người của chúng ta).

Trong các xã hội quy mô lớn hiện đại với công dân đi lại khắp đất nước và khắp thế giới, chúng ta tích lũy nhiều tình bạn dựa trên quan hệ cá nhân thay vì quan hệ nhóm. Một số bạn bè suốt đời của chúng ta là những người cùng chúng ta lớn lên và đi học, nhưng cũng có những người khác ta gặp khi di chuyển. Tình bạn có nghĩa là người ta quý mến nhau, chia sẻ những sở thích chung, chứ không phải là có liên minh chính trị với nhóm của người khác. Chúng ta sử dụng khái niệm tình bạn cá nhân quá phổ biến đến nỗi chỉ sau nhiều năm làm việc ở New Guinea mới có một sự kiện giúp tôi hiểu rõ quan điểm khác biệt về tình bạn phổ biến ở các xã hội New Guinea quy mô nhỏ.

Sự kiện đó liên quan đến một người New Guinea tên Yabu, làng của anh này ở Cao nguyên Trung tâm có lối sống truyền thống cho đến khi hệ thống kiểm soát của chính quyền được áp dụng và chiến tranh giữa các bộ lạc kết thúc vào khoảng một thập niên trước. Trong quá trình nghiên cứu chim, tôi để Yabu làm việc bên mình như một trong những trợ lý thực địa tại vùng cắm trại ở Cao nguyên Đông Nam, nơi tôi được một giáo viên người Anh tên Jim viếng thăm trong vài ngày. Yabu và Jim dành nhiều thời gian nói chuyện và trêu chọc lẫn nhau, kể cho nhau những câu chuyện dài và rõ ràng rất thích đi chung với nhau. Khu phố Cao nguyên Trung tâm mà Jim dạy học chỉ cách làng của Yabu vài chục ki-lô-mét. Khi Yabu hoàn tất công việc thực địa với tôi, anh ta sẽ trở lại làng của mình bằng cách bay từ sân bay ở khu phố của Jim và sau đó đi bộ về làng của anh ta. Do đó khi Jim rời trại của chúng tôi và tạm biệt Yabu và tôi, Jim làm một việc có vẻ "đương nhiên" đối với tôi: mời Yabu ghé lại và đến thăm anh ta khi Yabu đến khu phố của Jim.

Vài ngày sau khi Jim đi, tôi hỏi Yabu liệu anh ta có kế hoạch đến thăm Jim trên đường về không. Phải ứng của Yabu là sự ngạc nhiên và hơi phật lòng với câu hỏi tôi như một sự lãng phí thời gian: "Thăm anh ta? Để làm gì? Nếu anh ta thuê tôi làm gì đó, thì tôi sẽ đến. Nhưng anh ta đâu có việc gì cho tôi. Dĩ nhiên là tôi sẽ không dừng lại ở khu phố của anh ta và tìm anh ta chỉ vì ‘tình bạn’!" (Cuộc nói chuyện diễn ra bằng thổ ngữ Tok Pisin của Papua New Guinea; câu nói tiếng Tok Pisin mà tôi chuyển ngữ thành "vì ‘tình bạn’ " là "bilong pren nating".) Tôi sửng sốt nhận ra rằng mình đã giả định sai về những đặc tính được cho là phổ quát của loài người, những đặc tính mà tôi thậm chí chưa từng bao giờ thắc mắc.

Đương nhiên, khám phá này của tôi cần phải được hiểu chính xác. Dĩ nhiên, thành viên của các xã hội quy mô nhỏ thân thiện với một số cá nhân hơn những cá nhân khác trong xã hội của họ. Khi các xã hội quy mô nhỏ dần lớn hơn hoặc tiếp xúc nhiều hơn với các ảnh hưởng phi truyền thống bên ngoài, các quan điểm truyền thống thay đổi, bao gồm cả cách nhìn nhận về tình bạn. Tuy nhiên, tôi cho rằng sự khác biệt giữa các quan niệm tình bạn ở các xã hội quy mô lớn và nhỏ, lần lượt thể hiện qua lời mời của Jim và phản ứng của Yabu, là thực tế thông thường. Đó không chỉ là sự khác biệt giữa cách trả lời của Yabu với người châu âu và cách anh ta phải hồi với người New Guinea. Như một người bạn New Guinea quen thuộc với cả những cách thức phương Tây và New Guinea truyền thống giải thích với tôi, "Ở New Guinea chúng tôi không đi và gặp người khác mà không có mục đích. Nếu bạn chỉ mới gặp và đi cùng nhau một tuần với ai đó, điều đó không có nghĩa là bạn đã tạo được mối quan hệ hoặc tình bạn với người đó." Ngược lại, vô vàn cơ hội ở các xã hội Tây phương hóa quy mô lớn, cùng những lần di chuyển địa lý thường xuyên, đã gia tăng phạm vi - và nhu cầu - về các mối quan hệ dựa trên các liên kết tình bạn cá nhân hơn là quan hệ gia đình, quan hệ hôn nhân và những gần gũi tình cờ nhờ khoảng cách địa lý từ khi còn nhỏ.

Trong các xã hội phân cấp quy mô lớn mà hàng ngàn hoặc hàng triệu người sống với nhau dưới sự kiểm soát của một tù trưởng quốc hoặc nhà nước, thì việc gặp gỡ người lạ là chuyện bình thường và an toàn, không có gì mang tính đe dọa. Ví dụ, mỗi lần đến Đại học California hoặc đi dọc những con đường ở Los Angeles, tôi gặp hàng trăm người mà không cảm thấy sợ hãi hoặc nguy hiểm, những người đó tôi chưa từng thấy trước đây và có thể sẽ không bao giờ gặp lại, đồng thời tôi cũng không có mối quan hệ có thể truy nguyên nào với họ, dù là huyết thống hay hôn nhân. Giai đoạn ban đầu trong việc thay đổi thái độ với người lạ này được cho thấy bởi người Nuer của Sudan, những người mà tôi đã đề cập với khoảng 200.000 cá thể và tổ chức thành hệ thống gồm một số cấp bậc từ làng lên đến bộ lạc. Dĩ nhiên, không người Nuer nào biết và nghe nói về toàn bộ 199.999 người Nuer còn lại. Tổ chức chính trị yếu: mỗi ngôi làng có một trưởng làng bù nhìn không có mấy quyền lực, sẽ được mô tả trong chương 2. Tuy nhiên (theo lời của nhà nhân học E. E. Evans-Pritchard), "Giữa những người Nuer, bất kể họ đến từ đâu và dù họ là người lạ đối với nhau, thì các mối quan hệ hữu nghị ngay lập tức được thiết lập khi họ gặp gỡ nhau ở ngoài đất nước của họ, vì người Nuer không bao giờ xem nhau là người nước ngoài như đối với người Dinka hoặc người Shilluk. Cảm giác ưu việt hơn và xem thường mà họ thường có trước tất cả người nước ngoài và sự sẵn sàng chiến đấu chống lại là mối liên kết chung của nhóm người, còn tiếng nói và các giá trị chung cho phép sự liên lạc dễ dàng giữa các nhóm."

Do đó, so với các xã hội quy mô nhỏ, người Nuer không còn xem người lạ như một mối đe dọa mà xem họ như những người trung lập hoặc thậm chí là có khả năng kết thân - miễn họ là người Nuer. Người lạ không phải người Nuer hoặc sẽ bị tấn công (nếu là người Dinka) hoặc chỉ đơn thuần bị khinh miệt (nếu họ thuộc các nhóm người khác). Còn trong các xã hội lớn hơn với nền kinh tế thị trường, người lạ có giá trị tiềm năng tích cực như là các đối tác kinh doanh, khách hàng, nhà cung cấp hoặc nhân viên tương lai.

Những lần tiếp xúc đầu tiên

Đối với các xã hội quy mô nhỏ truyền thống, sự chia tách thế giới thành bạn hữu và các nhóm láng giềng, kẻ thù láng giềng và những người lạ ở xa hơn dẫn đến sự hiểu biết về thế giới rất cục bộ. Con người ta biết về khu vực và trung tâm lãnh thổ của họ và biết nhiều hơn về khu vực bao quanh gần nhất các lãnh thổ láng giềng nhờ những cuộc viếng thăm dựa trên các quyền sử dụng qua lại hoặc trong các giai đoạn ngừng chiến. Tuy nhiên, họ ít có khả năng biết về khu vực bao quanh thứ hai; và những khi hòa bình với người ở khu vực bao quanh đầu tiên, thì có khả năng họ đang chiến tranh với những láng giềng ở khu vực thứ hai, như vậy một lần nữa ngăn cản họ đến được những khu vực láng giềng đó.

Thậm chí đi vào lãnh thổ của những người láng giềng ngay cạnh (khu vực thứ nhất) vào những thời điểm được cho là hòa bình cũng dấy lên các mối nguy hiểm. Bạn có thể không nhận ra rằng những láng giềng đó mới vừa nổ ra chiến tranh với một số đồng minh khác của nhóm bạn và vì vậy, bạn được xem như kẻ thù vào lúc đó. Lúc này, người chứa chấp và họ hàng của bạn trong xã hội láng giềng đó có thể không sẵn sàng hoặc không thể bảo vệ bạn. Ví dụ, Karl Heider, Jan Broekhuijse và Peter Matthiessen đã mô tả về sự kiện diễn ra ngày 25/8/1961 giữa những người Dani vùng Dugum của thung lũng Baliem. Người Dani được chia thành vài chục liên minh, hai trong số đó là Liên minh Gutelu và Liên minh Widaia, chiến đấu chống lại người láng giềng Dugnum. Gần đó là Liên minh Asuk-Balek riêng biệt, hình thành từ một nhóm tách khỏi những người Gutelu từ bỏ quê hương và tị nạn dọc dòng sông Baliem sau các trận chiến. Bốn người đàn ông Asuk-Balek liên minh với Liên minh Widaia đến một ngôi làng Gutelu nhỏ tên là Abulopak nơi hai trong số những người này có họ hàng tại đó. Tuy nhiên, các vị khách này không biết rằng Widaia gần đây đã giết hai người Gutelu, rằng người Gutelu gần đây đã thất bại trong những cố gắng đáp trả bằng cách giết một người Widaia và rằng căng thẳng giữa những người Gutelu đang ở cao độ.

Chuyến viếng thăm của những người Asuk-Balek chân thành, liên minh với Widaia, tạo cho những người Gutelu Abulopak cơ hội hoàn hảo thứ hai để trả thù, thứ hai chỉ sau việc giết một người Widaia. Hai người Asuk-Balek có họ hàng tại Abulopak không bị ảnh hưởng, nhưng hai người không có họ hàng bị tấn công. Một người xoay sở trốn thoát được. Người kia trốn trong gác ngủ của một căn chòi nhưng bị ngã và bị đâm. Cuộc tấn công đó tạo nên niềm hân hoan chung giữa những người Abulopak khi họ kéo cơ thể của người Asuk-Balek chưa chết suốt con đường lầy lội đến nơi nhảy múa. Sau đó, những người Abulopak ăn mừng suốt đêm bên thi thể và cuối cùng ném cái xác vào một mương nước, nhấn chìm nó và lấp lại bằng cỏ. Vào sáng hôm sau, hai người Asuk-Balek có họ hàng Abulopak được phép mang xác đi. Sự kiện này cho thấy yêu cầu cẩn trọng đến mức đa nghi khi đi lại. Chương 7 sẽ nói nhiều thêm về yêu cầu này với hiện tượng mà tôi gọi là "đa nghi mang tính xây dựng".

Khoảng cách truyền thống của việc đi lại và sự hiểu biết về khu vực rất thấp ở những vùng có mật độ dân số và tính ổn định môi trường cao và cao ở những vùng có dân cư thưa thớt cũng như môi trường biến đổi. Sự hiểu biết địa lý có tính địa phương rất cao ở Cao nguyên New Guinea với các vùng dân cư đông và môi trường tương đối ổn định. Việc đi lại và hiểu biết trở nên rộng hơn ở những vùng có môi trường ổn định nhưng dân số thấp hơn (như các vùng đất thấp ở New Guinea, các khu rừng nhiệt đới châu Phi có người Pygmy châu Phi cư trú) và rộng hơn nữa ở những vùng có môi trường biến đổi và dân số thấp (như các sa mạc hoặc các vùng đất liền Bắc Cực). Ví dụ, người dân đảo Adaman không biết gì về các bộ lạc Andaman sống cách đó hơn 32km. Thế giới được biết đến của người Dani Dugum chủ yếu giới hạn đến thung lũng Baliem, họ có thể quan sát hầu khắp khu vực từ đỉnh đồi, nhưng chỉ có thể đi đến một phần nhỏ của thung lũng vì khu vực đó đã bị chia tách bởi các chiến trận khiến việc đi vào đồng nghĩa với tự sát. Như người Pygmy, khi được cho xem một danh sách lên đến 70 địa điểm và hỏi những nơi nào họ đã đến, họ chỉ biết một nửa những nơi nằm trong vòng hơn 30km và chỉ một phần tư số nơi nằm trong vòng 70km. Khi tôi sống ở Anh vào những năm 1950 và 1960, việc nhiều người ở nông thôn Anh dành trọn đời ở trong hoặc ở gần những ngôi làng của họ vẫn là điều đương nhiên, trừ khi họ phải đi vượt biển để phục vụ quân đội trong Chiến tranh Thế giới Thứ nhất hoặc Thứ hai.

Do đó, sự hiểu biết về thế giới vượt khỏi những khu vực láng giềng thứ nhất hoặc thứ hai của một người không hề tồn tại hoặc chỉ được nghe lại giữa các xã hội quy mô nhỏ truyền thống. Ví dụ, không ai trong các vùng thung lũng dân cư đông đúc của trung tâm New Guinea từng thấy hoặc thậm chí là nghe nói về đại dương, cách đó chỉ từ 90 đến 120km. Người cao nguyên New Guinea khi buôn bán có nhận những vỏ sò biển và (sau khi người châu âu lên đến bờ biển) một số rìu thép là vật để định giá. Tuy nhiên, những vỏ sò và cây rìu đó được buôn bán từ nhóm này cho nhóm kia và được truyền tay nhiều người trong suốt quãng đường từ bờ biển đến Cao nguyên. Cũng như trong trò chơi gọi điện thoại của trẻ em, khi đám trẻ ngồi thành một hàng hoặc vòng tròn, một đứa thì thầm điều gì đó cho đứa kế bên, sau đó thông tin mà đứa trẻ cuối cùng nghe được không có liên hệ gì với điều đứa trẻ đầu tiên nói ra, tất cả những hiểu biết về môi trường và con người nơi cung cấp vỏ sò và rìu bị mất đi khi chúng đến được Cao nguyên.

Đối với nhiều xã hội quy mô nhỏ, những giới hạn truyền thống về sự hiểu biết thế giới này bị chấm dứt đột ngột bởi cái gọi là những lần tiếp xúc đầu tiên, khi những cuộc đổ bộ của thực dân, nhà thám hiểm, thương lái và nhà truyền giáo châu âu chứng minh sự tồn tại của một thế giới bên ngoài chưa hề được