← Quay lại trang sách

Chương 2 Bồi Thường Cho Cái Chết Của Một Đứa Trẻ.

Tai nạn

- Đám tang.

- Chuyện gì xảy ra nếu...?

- Nhà nước đã làm gì.

- Bồi thường ở New Guinea.

- Quan hệ lâu dài.

- Các xã hội phi nhà nước khác.

- Thẩm quyền nhà nước.

- Tư pháp dân sự nhà nước.

- Các nhược điểm trong tư pháp dân sự nhà nước.

- Tư pháp hình sự nhà nước.

- Tư pháp phục hồi.

- Lợi thế và cái giá của lợi thế

Tai nạn

Vào một chiều muộn cuối mùa khô, chiếc xe hơi do người đàn ông tên Malo cầm lái bất ngờ đâm phải và khiến cậu học trò nhỏ tên Billy tử vong trên một con đường ở Papua New Guinea. Billy đang trên đường đi học về trên chiếc xe buýt công cộng nhỏ (không phải xe buýt của trường) và chú của Billy là Genjimp khi đó đang đứng đợi cậu ở bên kia đường. Còn Malo là tài xế của một công ty nhỏ tại địa phương, đang trên đường chở nhân viên công ty về nhà đi ngược hướng với chiếc xe buýt chở Billy. Khi Billy bước xuống xe, cậu bé nhìn thấy chú Genjimp và chạy ngay qua đường để gặp chú của cậu. Tuy nhiên, khi qua đường, Billy không đi vòng lên phía trước chiếc xe buýt nhỏ để được nhìn thấy từ xe của Malo và những phương tiện đang lưu thông khác. Thay vào đó, cậu bé lại khuất dạng phía sau xe buýt và chỉ xuất hiện trước xe của Malo khi cậu đột ngột chạy ra giữa đường. Malo không thể dừng kịp nên đâm vào Billy và khiến cậu bé bị hất văng lên. Chú Genjimp mang Billy đến thẳng bệnh viện cấp cứu, nhưng cậu bé đã chết vài giờ sau đó do chấn thương đầu quá nặng.

Ở Mỹ, khi một tài xế gây ra tai nạn nghiêm trọng, người đó phải ở lại hiện trường cho đến khi cảnh sát đến: nếu người đó rời khỏi và không báo với cảnh sát, anh ta sẽ bị cho là bỏ trốn, và chính việc bỏ trốn được xem như một tội ác. Tuy nhiên, ở Papua New Guinea và một số nước khác, luật pháp cho phép tài xế không phải ở lại hiện trường nhưng phải chạy đến trụ sở cảnh sát gần nhất. Đó là bởi những người qua đường đầy giận dữ có thể ngay lập tức lôi người tài xế gây tai nạn kia ra khỏi xe và đánh đến chết, kể cả khi tai nạn là lỗi của người đi bộ. Bên cạnh rủi ro đối với Malo và những hành khách của anh ta, Malo và Billy thuộc các tộc người khác nhau, mà ở Papua New Guinea, điều đó thường rất dễ dẫn đến căng thẳng. Malo là người dân địa phương ở làng bên cạnh, nhưng Billy thuộc nhóm người ở vùng đất thấp cách đó nhiều ki-lô-mét. Rất nhiều người vùng đất thấp đã di cư đến nơi này để làm việc đang ở gần nơi xảy ra vụ tai nạn. Nếu Malo dừng lại và bước ra để giúp cậu bé, anh ta rất có thể sẽ bị đánh đến chết bởi những người qua đường là dân vùng đất thấp, những hành khách cũng có thể bị lôi ra ngoài và bị giết chết. Nhưng Malo đã nhanh trí lái xe đến trụ sở cảnh sát địa phương và khai báo. Cảnh sát tạm giữ hành khách ở trụ sở vì lý do an toàn và hộ tống Malo về làng an toàn, nơi anh ta sẽ ở lại nhiều tháng sau đó.

Những câu chuyện sau đây cho thấy cách người New Guinea, cũng như nhiều kiểu người truyền thống khác sống chủ yếu ngoài tầm kiểm soát của hệ thống tư pháp do chính quyền nhà nước thiết lập, tuy nhiên họ vẫn đạt được công bằng và giải quyết những vấn đề mâu thuẫn một cách hòa bình bằng các cơ chế truyền thống của họ. Các cơ chế giải quyết tranh chấp như vậy có thể đã vận hành suốt thời tiền sử của con người cho đến khi hình thành các quốc gia với các bộ luật, tòa án, thẩm phán và cảnh sát được luật pháp hóa bắt đầu từ 5.400 năm trước đây. Trường hợp của Malo và Billy trái ngược với trường hợp mà tôi sẽ đề cập đến ở chương tiếp theo, một trường hợp cũng được giải quyết bằng các phương thức truyền thống nhưng lại trái ngược với phương thức sử dụng trong trường hợp của Malo và Billy: bằng cách giết hại kẻ thù và gây chiến tranh. Tùy vào hoàn cảnh và các bên liên quan, tranh chấp trong xã hội truyền thống có thể được giải quyết một cách hòa bình hoặc bằng chiến tranh nếu hòa bình bị phá vỡ hoặc không đạt được.

Quá trình diễn ra trong hòa bình này liên quan đến cái được gọi là "bồi thường" (như chúng ta sẽ thấy, bản dịch thông thường sang tiếng Anh của từ New Guinea này không chính xác; việc bồi thường cho cái chết của đứa trẻ là không thể và đó cũng không phải là mục đích. Từ này trong ngôn ngữ chung Tok Pisin của New Guinea là sori money, nghĩa là "tiền xin lỗi" và cách dịch đó phù hợp hơn vì nó thể hiện chính xác là tiền được trả để sẻ chia nỗi đau hay là lời xin lỗi cho những gì đã xảy ra). Tôi được nghe về câu chuyện bồi thường hậu sự theo truyền thống cho Billy qua một người đàn ông tên là Gideon, tại thời điểm đó, người này là quản lý văn phòng địa phương của doanh nghiệp thuê Malo làm tài xế và cũng tham gia vào quá trình diễn ra sau đó. Hóa ra cơ chế tư pháp truyền thống của New Guinea có những mục tiêu cơ bản khác với hệ thống tư pháp nhà nước. Dù tôi đồng ý rằng tư pháp nhà nước có ưu điểm lớn và hoàn toàn cần thiết để giải quyết tranh chấp giữa các công dân của nhà nước, đặc biệt là tranh chấp giữa những người lạ, nhưng giờ đây, tôi lại cảm thấy cơ chế tư pháp truyền thống có thể dạy ta nhiều điều khi các bên tranh chấp không phải là những người xa lạ mà sẽ còn bị ràng buộc trong những mối quan hệ tiếp diễn sau khi giải quyết tranh chấp: ví dụ như hàng xóm, những người có liên hệ trong quan hệ làm ăn, cha mẹ ly dị và anh em tranh chấp thừa kế.

Đám tang

Vì lo ngại thị tộc của Billy có thể tìm cách trả thù Malo và Gideon cùng các nhân viên khác của công ty, nên Gideon yêu cầu nhân viên không đến làm việc vào ngày sau vụ tai nạn. Gideon vẫn ở một mình trong văn phòng của mình, thuộc khu phức hợp có tuần tra và rào kín, chỉ cách ngôi nhà mà Gideon và gia đình ông sinh sống khoảng 100m. ông chỉ thị cho các nhân viên bảo vệ cảnh giác, không để người lạ vào và đặc biệt là cẩn thận với mọi người dân vùng đất thấp. Tuy nhiên, trong buổi sáng hôm đó, Gideon ngước nhìn lên từ bàn làm việc và kinh hoàng thấy ba người đàn ông cao to, dễ nhận biết là người vùng đất thấp nhờ vẻ ngoài của họ, đứng ngoài cửa sổ sau của văn phòng. Suy nghĩ đầu tiên của Gideon là: hoặc tôi mỉm cười với họ hoặc là chạy. Nhưng sau đó, ông suy nghĩ kỹ rằng vợ và các con ông đang ở rất gần đó, việc bỏ chạy chỉ có thể cứu mạng một mình ông. ông cố gắng nở nụ cười và ba người đàn ông kia cũng cố gắng mỉm cười lại. Gideon tiến đến cửa sổ sau của văn phòng và mở cửa, nhận ra rằng việc làm đó có thể gây chết người ngay lập tức, nhưng ông không còn cách nào khác vì mọi lựa chọn khác đều sẽ tệ hơn. Một trong ba người đàn ông, hóa ra là Peti, cha của cậu bé đã chết, hỏi Gideon, "Tôi có thể vào văn phòng và nói chuyện với ông không?" (Cuộc trò chuyện này và hầu hết những đối thoại khác mà tôi sẽ đề cập không sử dụng tiếng Anh mà bằng tiếng Tok Pisin. Những từ mà Gideon thực sự nghe thấy từ Peti là: "Inap mi kam insait long opis bilong yu na yumi tok- tok?")

Gideon gật đầu, đi ra phía trước văn phòng, mở cửa, mời Peti vào một mình và ngồi xuống. Đối với một người đàn ông có con trai vừa bị giết chết và lúc này đang đối mặt với ông chủ của kẻ gây chết người, thái độ của Peti thật ấn tượng: rõ ràng vẫn còn rất sốc, nhưng ông vẫn bình tĩnh, tôn trọng và thẳng thắn. Peti ngồi im lặng một lúc rồi cuối cùng nói với Gideon, "Chúng tôi đều hiểu đây là một tai nạn và ông không cố ý làm điều đó cũng như không muốn gây ra bất cứ rắc rối nào. Chúng tôi chỉ muốn sự hỗ trợ của ông cho tang lễ. Chúng tôi muốn ông cung cấp một ít tiền và thực phẩm để những người thân của chúng tôi dùng tại buổi lễ". Gideon trả lời bằng cách bày tỏ sự cảm thông thay mặt công ty cũng như nhân viên và bằng việc đưa ra một số cam kết chung chung. Ngay chiều hôm đó, ông đến siêu thị địa phương để bắt đầu mua các mặt hàng thực phẩm thiết yếu gồm: gạo, thịt đóng hộp, đường và cà phê. Khi ở cửa hàng, ông tình cờ gặp lại Peti và một lần nữa không có vấn đề gì xảy ra.

Đến ngày thứ hai, một ngày sau vụ tai nạn, Gideon nói chuyện với một nhân viên cấp cao trong đội ngũ của ông, một người New Guinea tên Yaghean, tuy là người gốc ở một huyện khác nhưng đã lão luyện trong các cuộc đàm phán bồi thường ở New Guinea. Yaghean đề nghị Gideon để ông ta xử lý các cuộc đàm phán. Vào ngày hôm sau (ngày thứ 3), Gideon triệu tập một cuộc họp nhân viên của công ty ông để thảo luận về cách thức tiến hành. Nỗi sợ lớn nhất của mọi người là dòng họ cậu bé đã chết (họ hàng xa và người trong thị tộc) có thể trở nên hung hãn, dù người cha đã đảm bảo rằng gia đình họ sẽ không gây một rắc rối nào. Được khích lệ bởi thái độ bình tĩnh của Peti trong hai cuộc gặp giữa họ, ban đầu Gideon nghiêng về lựa chọn tự mình tiến thẳng đến khu sinh sống của những người vùng đất thấp, đi tìm gia đình Billy và "nói xin lỗi" (chính thức xin lỗi), cố gắng xoa dịu các mối đe dọa từ dòng họ này. Nhưng Yaghean nhấn mạnh rằng Gideon không được làm điều này: "Nếu ông tự mình đến đó quá sớm, tôi lo rằng dòng họ đó và toàn thể cộng đồng vùng đất thấp vẫn có thể nổi giận. Thay vì vậy, ta nên tiến hành quá trình bồi thường thích hợp. Ta sẽ gửi đi một sứ giả và người đó sẽ là tôi. Tôi sẽ nói chuyện với ủy viên hội đồng phường phụ trách việc hòa giải với người vùng đất thấp, rồi ông ta sẽ nói chuyện với cộng đồng người vùng đất thấp. Cả ông ta và tôi đều biết quá trình đền bù nên tiến hành thế nào. Chỉ sau khi quá trình này hoàn thành, ông và nhân viên mới có thể tiến hành buổi lễ nói - xin - lỗi [tok-sori trong tiếng Tok Pisin] với gia đình này".

Yaghean đến nói chuyện với người ủy viên hội đồng, người sẽ sắp xếp cuộc họp ngày hôm sau (ngày thứ 4) giữa Yaghean, ủy viên hội đồng, gia đình của Billy và gia tộc. Gideon không biết nhiều về những gì diễn ra tại cuộc họp đó, ngoại trừ báo cáo của Yaghean rằng họ đã bàn rất lâu về cách thức xử lý vấn đề, rằng chính gia đình đó không có ý định dùng đến bạo lực, nhưng một số đàn ông trong cùng khu vực sinh sống vô cùng thương tiếc Billy và vẫn còn đang rất giận dữ. Yaghean nói với Gideon rằng ông nên mua thêm thức ăn cho lễ đền bù thiệt hại và tang lễ. Thỏa thuận cuối cùng đã đạt được với khoản bồi thường 1.000 kina (tương đương khoảng 300 đô-la Mỹ) từ công ty Gideon cho gia đình Billy (Kina là đơn vị tiền tệ quốc gia của Papua New Guinea).

Buổi lễ bồi thường diễn ra vào ngày hôm sau, ngày thứ 5, với những thỏa thuận chính thức và chặt chẽ. Buổi lễ bắt đầu với Gideon, Yaghean và các nhân viên còn lại ngoại trừ Malo lái xe từ công ty đi vào khu sinh sống của những người dân vùng đất thấp. Họ đậu xe, đi qua khu sinh sống và bước vào phần sân sau căn nhà của gia đình Billy. Các nghi thức tang lễ truyền thống của New Guinea diễn ra dưới một mái che, giăng trên đầu những người tham dự tang lễ; trong trường hợp này mái che mà gia đình Billy dựng lên là một tấm bạt và tất cả mọi người - gia đình và khách - sẽ tụ họp ở đây. Khi khách viếng tiến vào, một trong các chú bác của cậu bé đã chết chỉ cho họ vị trí ngồi và ra hiệu cho người trong gia đình đến chỗ ngồi khác.

Buổi lễ bắt đầu khi một người bác của cậu bé phát biểu, cảm ơn khách viếng đã đến và bày tỏ việc cái chết của Billy đã khiến họ đau buồn đến nhường nào. Tiếp đó, Gideon, Yaghean và nhân viên công ty lên phát biểu. Khi kể lại sự việc này với tôi, Gideon giải thích, "Thật khủng khiếp, khi phát biểu lúc đó, tôi đã khóc. Tôi cũng có con nhỏ. Tôi đã nói với gia đình họ rằng tôi hiểu nỗi đau buồn của họ. Nỗi đau của họ chắc chắn là khôn tả. Tôi nói với họ rằng thực phẩm và số tiền mà tôi đưa đến chẳng là gì so với mất mát mà họ phải chịu đựng."

Gideon tiếp tục kể với tôi, "Tiếp đó là phát biểu của cha Billy, ông Peti. ông nói rất đơn giản. ông đã khóc. ông hiểu rằng cái chết của Billy là một tai nạn và không phải do sơ suất của chúng tôi. ông cảm ơn chúng tôi đã đến và nói rằng người của ông có thể gây rắc rối cho chúng tôi. Sau đó, ông nói về Billy, đưa lên một bức ảnh của con trai ông, và nói: ‘chúng tôi nhớ nó’. Mẹ của Billy ngồi lặng lẽ phía sau người cha khi ông nói. Một vài người chú bác khác của Billy đứng dậy và nhắc lại, ‘Các vị sẽ không gặp bất kỳ vấn đề gì với chúng tôi, chúng tôi hài lòng với phản ứng của các vị và với sự bồi thường.’ Tất cả mọi người - đồng nghiệp, tôi và cả gia đình Billy - đều khóc."

Gideon và các đồng nghiệp đã mang thức ăn đến để "nói xin lỗi" với dòng chữ "Thức ăn này là để giúp các bạn trong thời điểm khó khăn này." Sau các cuộc nói chuyện, gia đình và khách viếng cùng ăn một bữa ăn đơn giản gồm khoai lang (thực phẩm truyền thống của người New Guinea) và các loại rau khác. Có rất nhiều cái bắt tay ở cuối buổi lễ. Tôi hỏi Gideon liệu có những cái ôm không và chẳng hạn liệu ông và cha cậu bé có ôm lấy nhau trong khi khóc. Nhưng câu trả lời của Gideon là "Không, buổi lễ đã được sắp đặt và nó diễn ra theo đúng nghi thức". Tuy nhiên, tôi khó có thể tưởng tượng được một cuộc gặp hòa giải tương tự ở Mỹ hay bất kỳ xã hội Tây phương nào khác, trong đó gia đình của đứa bé đã chết và người vô tình giết chết đứa bé, trước đây là những người lạ, ngồi xuống, khóc và cùng dùng một bữa ăn một vài ngày sau cái chết. Thay vì vậy, gia đình của cậu bé sẽ lên kế hoạch cho một vụ kiện dân sự, còn gia đình của người vô tình giết người sẽ hỏi ý kiến các luật sư và nhà môi giới bảo hiểm để chuẩn bị biện hộ cho vụ kiện cùng với những cáo buộc hình sự có thể có.

Chuyện gì xảy ra nếu…?

Như người cha và họ hàng của Billy công nhận, Malo đã không cố tình giết Billy. Tôi hỏi Malo và Gideon chuyện gì sẽ xảy ra nếu thực sự Malo cố ý giết Billy, hoặc nếu Malo ít nhất có sơ suất rõ ràng.

Malo và Gideon trả lời rằng, trong trường hợp đó, vấn đề vẫn có thể được giải quyết theo quy trình bồi thường tương tự. Kết quả sẽ chỉ không chắc chắn bằng, tình hình nguy hiểm hơn và yêu cầu thanh toán bồi thường lớn hơn. Tồn tại một rủi ro cao hơn là người thân của Billy sẽ không chờ đợi kết quả của cuộc đàm phán bồi thường, hoặc sẽ từ chối việc trả tiền và thay vào đó sẽ tiến hành cái gọi là giết người trả đũa: tốt nhất là bằng cách giết chính Malo, hoặc nếu không thì một người nào đó trong gia đình của Malo nếu họ không thể giết anh ta, hoặc nếu không nữa sẽ là một người khác cùng thị tộc có quan hệ xa hơn với Malo trong trường hợp họ không thể giết một thành viên trong gia đình của anh ta. Tuy nhiên, nếu người thân của Billy bị thuyết phục chờ đợi kết quả của quá trình bồi thường, họ sẽ yêu cầu bồi thường cao hơn nhiều. Malo ước tính cho tôi khoản bồi thường yêu cầu (nếu anh ta phải chịu trách nhiệm cho cái chết của Billy) là khoảng năm con lợn cộng với 10.000 kina (tương đương với khoảng 3.000 đô-la Mỹ), đi kèm với lượng thực phẩm địa phương bao gồm một buồng chuối, khoai môn, khoai lang, bột cọ cao lương, rau vườn và cá khô.

Tôi cũng tự hỏi điều gì sẽ xảy ra nếu Malo không phải là lái xe cho công ty mà chỉ là một người New Guinea đơn độc và do đó không dính dáng đến công ty. Malo trả lời rằng các cuộc đàm phán bồi thường từ phía anh sau đó sẽ không được đồng nghiệp công ty Yaghean của anh tiến hành, mà thay vào đó là chú bác của anh ta và những người lớn tuổi trong làng của anh. Khi đó, bản thân khoản bồi thường sẽ không được thanh toán bởi công ty, mà bởi cả làng Malo, bao gồm gia đình, người cùng tộc và dân làng thuộc các thị tộc khác mà Malo có thể phải kêu gọi sự giúp đỡ để gom góp khoản bồi thường. Từ đó, Malo sẽ mang nợ tất cả những người đã đóng góp. Một lúc nào sau đó trong đời, anh sẽ phải thanh toán cho những người đó vì những đóng góp của họ và cho những người chú bác của anh vì nhiệm vụ tiến hành các cuộc đàm phán đầy khó khăn. Nếu Malo chết trước khi thanh toán các khoản này, những người đóng góp và những chú bác của anh sẽ đòi thanh toán từ gia đình và thị tộc của anh. Tuy nhiên, ngoài sự khác biệt ở đối tượng tiến hành đàm phán và thanh toán, nếu công ty không liên quan đến, quá trình bồi thường sẽ cởi mở hơn nhiều so với thực tế đã diễn ra.

Nhà nước đã làm gì?

Chuỗi sự kiện mà tôi kể lại là một ví dụ về cách các cơ chế trong New Guinea truyền thống xử lý một cách hòa bình những tổn thất mà người này gây ra cho người kia. Nó trái ngược với cách thức hệ thống tư pháp của nhà nước phương Tây giải quyết những tổn thất như vậy. Trong trường hợp Billy và Malo, phản ứng của nhà nước Papua New Guinea là cảnh sát không quan tâm đến các cảm xúc đau buồn hay thù hận của người thân Billy nhưng lại truy tố Malo về việc lái xe ẩu. Mặc dù gia đình của Billy, bao gồm cả ông chú Genjimp, người đã thực sự có mặt tại hiện trường vụ tai nạn, không đổ lỗi cho việc lái xe của Malo, cảnh sát vẫn cho rằng Malo đã lái xe quá nhanh. Trong vòng nhiều tháng, Malo phải ở lại ngôi làng của mình, chỉ trừ khi ông vào thị trấn để nói chuyện với cảnh sát. Đó là bởi Malo vẫn còn sợ những người vùng đất thấp trẻ tuổi nóng nảy trả thù. Những người bạn trong làng của Malo vẫn phải cảnh giác và sẵn sàng để bảo vệ trong trường hợp anh ta bị tấn công.

Sau buổi điều trần đầu tiên với cảnh sát, vài tháng trôi qua mới đến buổi điều trần thứ hai, khi mà Malo được lệnh đi vào thị trấn hai lần một tuần để báo cáo với cảnh sát giao thông trong khi chờ đợi trường hợp của mình được đưa ra xét xử. Mỗi chuyến đi báo cáo như vậy kết thúc với việc Malo ngồi chờ trong văn phòng giao thông từ nửa ngày đến một ngày. Giấy phép lái xe của Malo bị thu giữ từ buổi điều trần thứ hai. Vì công việc của Malo ở công ty là tài xế, nên việc bị thu giấy phép cũng khiến anh mất việc.

Vụ tai nạn của Malo cuối cùng cũng được đưa ra xét xử tại tòa một năm rưỡi sau đó. Trong thời gian đó, Malo tiếp tục sống trong tình trạng thất nghiệp, chờ chực ở làng. Khi Malo có mặt tại tòa vào ngày xét xử định trước, người thẩm phán phụ trách lại vướng vào một nhiệm vụ mâu thuẫn khác nên ngày xét xử bị dời lại ba tháng sau đó. Một lần nữa vào ngày xử thứ hai đã được sắp xếp lại, thẩm phán không thể có mặt nên ngày xét xử lại được dời lại ba tháng sau đó. Lần hẹn thứ ba và vẫn còn một ngày xét xử khác đã phải trì hoãn vì các vấn đề khác nữa liên quan đến thẩm phán. Cuối cùng, vào ngày được định lần thứ năm để xét xử, hai năm rưỡi sau vụ tai nạn, thẩm phán đã xuất hiện. Nhưng cảnh sát được công tố viên gọi đến không xuất hiện và như vậy thẩm phán đã bác bỏ vụ án. Sự can thiệp của nhà nước vào vấn đề của Billy và Malo kết thúc. Để tránh việc các bạn nghĩ rằng những lần không xuất hiện và những dịp trì hoãn như vậy là dấu hiệu cho thấy chỉ duy nhất hệ thống tư pháp của Papua New Guinea là kém hiệu quả, một người bạn thân của tôi gần đây đã trải qua một quá trình và kết quả tương tự trong phiên tòa ở Chicago.

Bồi thường ở New Guinea

Quá trình bồi thường truyền thống, được khắc họa qua câu chuyện của Billy và Malo, có mục đích hướng đến việc giải quyết nhanh chóng vụ tranh chấp trong hòa bình, hòa giải tình cảm giữa hai bên và khôi phục mối quan hệ trước đó. Điều này có vẻ đơn giản, tự nhiên và lôi cuốn đối với chúng ta, cho đến khi chúng ta suy nghĩ kỹ rằng về căn bản phương thức này khác nhau như thế nào với các mục tiêu của hệ thống tư pháp nhà nước của chúng ta. Xã hội New Guinea truyền thống không sở hữu hệ thống tư pháp nhà nước, chính quyền nhà nước, hệ thống chính trị tập trung, hoặc các nhà lãnh đạo, các quan chức và các thẩm phán chuyên nghiệp với quyền ra quyết định và tuyên bố độc quyền sử dụng vũ lực. Nhà nước có lợi ích riêng của họ trong việc giải quyết tranh chấp và thực hiện công bằng giữa các công dân. Các lợi ích của nhà nước đó không nhất thiết trùng hợp với lợi ích của những bên tham gia trong tranh chấp. Thay vào đó, công lý trong xã hội truyền thống New Guinea là một dạng tự-mình-làm-lấy, được dàn xếp bởi chính các bên tranh chấp cùng những người ủng hộ tương ứng. Quá trình bồi thường chỉ theo một hướng, hướng hòa bình, trong hệ thống hai hướng giải quyết tranh chấp truyền thống. Hướng còn lại (chương 3 và 4) là tìm cách trừng phạt cá nhân bằng bạo lực, có xu hướng leo thang thành vòng luẩn quẩn trừng phạt trả đũa và cuối cùng là chiến tranh.

Một thực tế căn bản định hình quá trình bồi thường ở New Guinea truyền thống và phân biệt nó với những tranh chấp của phương Tây, là những bên tham gia trong hầu hết các vụ tranh chấp ở New Guinea truyền thống đều từng biết đến nhau trước đây, hoặc từng trải qua một hình thức quan hệ cá nhân nào đó, hoặc ít nhất là biết tên nhau hoặc tên cha hay liên minh. Ví dụ, ngay cả khi bạn là một người Guinea không quen biết cá nhân một người đàn ông trong ngôi làng cách xa vài ki-lô-mét từng giết lợn của bạn khi nó lang thang trong rừng, thì bạn chắc chắn đã nghe đến tên người đó, biết thị tộc của người đó và quen biết cá nhân một số thành viên của thị tộc đó. Đó là bởi nước New Guinea truyền thống bao gồm những xã hội bản địa (localized societies) có quy mô nhỏ từ vài tá đến vài trăm người. Theo truyền thống, họ duy trì khu vực cư trú hoặc nếu không thì di cư trong phạm vi gần chỉ vì những lý do đặc biệt, chẳng hạn như kết hôn hay đoàn tụ với họ hàng. Người New Guinea truyền thống hiếm khi hoặc không bao giờ gặp phải "người lạ" hoàn toàn như chúng ta, công dân của xã hội nhà nước hiện đại. Tuy nhiên, những công dân của các quốc gia phương Tây, không giống như người New Guinea, sống trong các xã hội gồm hàng triệu người, nên dĩ nhiên hàng ngày chúng ta phải gặp và đối mặt với các thành viên trong xã hội mà chúng ta chưa từng biết đến trước đây. Thậm chí trong khu vực nông thôn ít người sinh sống, nơi tất cả các cư dân biết nhau, như Big Hole Basin của Montana, nơi tôi đã trải qua những mùa hè của tuổi thiếu niên, người lạ thường xuất hiện định kỳ - ví dụ như một người lái xe qua thị trấn và dừng lại để đổ xăng. Hơn nữa, chúng ta phải di chuyển xa vì công việc, trong kỳ nghỉ, hoặc sở thích cá nhân và do đó gần như thay thế hoàn toàn những mối liên hệ trong suốt cuộc đời chúng ta.

Do đó, trong khi ở các xã hội nhà nước, hầu hết các tranh chấp của chúng ta phát sinh từ tai nạn xe hơi hoặc giao dịch kinh doanh với người lạ mà chúng ta không biết trước đây và với người mà chúng ta sẽ không bao giờ gặp lại, thì ở New Guinea truyền thống, mọi tranh chấp sẽ diễn ra với một ai đó mà bạn sẽ tiếp tục có mối liên hệ thực sự hoặc tiềm năng trong tương lai. Ở mức cao nhất, vụ tranh chấp của bạn sẽ diễn ra với một người nào đó, như một người cùng làng, mà bạn chạm mặt liên tục và bạn không thể không tiếp xúc hàng ngày. ít nhất thì, bên tranh chấp còn lại sẽ là người mà bạn không phải gặp nhiều lần trong tương lai (ví dụ, người dân cách làng bạn một vài ki-lô-mét đã giết lợn của bạn), nhưng người đó vẫn sống trong phạm vi đi lại của bạn, và ít ra bạn có thể trông đợi không gặp phải rắc rối nào khác với anh ta. Đó là lý do tại sao mục tiêu chính trong quá trình bồi thường của nước New Guinea truyền thống là khôi phục lại mối quan hệ trước đó, ngay cả khi nó chỉ đơn thuần là "tình trạng không quan hệ" vốn chỉ bao gồm việc không đem lại rắc rối gì cho nhau dù vẫn có khả năng diễn ra điều đó. Nhưng mục tiêu đó và những thực tế căn bản phía sau mục tiêu đó, cho thấy điểm khác biệt rất lớn so với hệ thống giải quyết tranh chấp của nhà nước phương Tây, trong đó việc khôi phục lại mối quan hệ thường là không thích hợp vì đã không có bất kỳ quan hệ gì trước đó đồng thời sẽ không có quan hệ một lần nào nữa trong tương lai. Ví dụ, trong đời mình, tôi có tham gia vào ba tranh chấp dân sự - với nhà sản xuất tủ, với nhà thầu hồ bơi và với nhà môi giới bất động sản - khi đó tôi không hề biết đến bên có liên quan trước khi giao dịch tranh chấp diễn ra và cũng không còn bất kỳ liên hệ nào nữa hay thậm chí không còn nghe đến họ sau khi vụ tranh chấp được giải quyết hoặc bỏ qua.

Đối với người New Guinea, yếu tố then chốt để khôi phục mối quan hệ bị tổn hại là sự thừa nhận và tôn trọng cảm xúc của nhau, nhờ đó tùy tình huống hai bên có thể xua tan hết mức có thể bầu không khí tức giận và tiếp tục với mối liên hệ hoặc tình trạng không liên hệ trước kia. Mặc dù hiện giờ, khoản thanh toán nhằm thắt chặt mối quan hệ cần khôi phục ở Papua New Guinea được mọi người gọi bằng từ "tiền bồi thường", nhưng thuật ngữ này sẽ gây hiểu nhầm. Thực ra khoản thanh toán này là một phương tiện mang tính biểu tượng nhằm thiết lập lại mối quan hệ trước đó: bên A "nói xin lỗi" với bên B và thừa nhận cảm xúc của bên B phát sinh từ mất mát của bên này, trong đó có cả khoản bồi thường đã trả. Ví dụ, trong trường hợp của Billy và Malo, những gì cha Billy thực sự muốn là Malo và người chủ của anh ta thừa nhận sự mất mát lớn lao và đau buồn mà ông phải chịu đựng. Như Gideon nói rõ với cha Billy lúc chuyển khoản bồi thường cho ông, khoản tiền đó chẳng đáng gì so với cái chết của Billy; số tiền đó chỉ là một cách nói xin lỗi và chia sẻ mất mát của gia đình Billy.

Tái lập quan hệ là tất cả trong xã hội New Guinea truyền thống, còn việc xác lập tội danh hay sự tắc trách hoặc hình phạt theo khái niệm phương Tây không phải là vấn đề chính. Quan điểm này giúp lý giải một giải pháp - vốn khiến tôi rất sửng sốt khi được biết - về một tranh chấp kéo dài giữa một số thị tộc miền núi New Guinea, một trong các thị tộc là bạn của tôi ở làng Goti. Những người bạn Goti của tôi đã tham gia vào các cuộc tấn công và giết chóc lẫn nhau liên miên với bốn thị tộc khác, suốt thời gian đó, cha và một người anh trai của người bạn thân Goti của tôi tên là Pius đã bị giết. Tình hình trở nên rất nguy hiểm khi hầu hết các bạn bè Goti của tôi phải chạy trốn khỏi vùng đất của tổ tiên họ và tị nạn giữa các đồng minh tại ngôi làng láng giềng để thoát khỏi các cuộc tấn công sau đó. Chỉ cho đến 33 năm sau, người Goti mới cảm thấy đủ an toàn để di chuyển trở lại vùng đất của tổ tiên. Ba năm sau đó, để kết thúc dứt khoát việc sống trong nỗi sợ bị tấn công, họ tổ chức một buổi lễ hòa giải tại Goti, trong đó, Goti trả tiền bồi thường bằng những con lợn và hàng hóa khác cho những kẻ tấn công họ trước đây.

Khi Pius kể cho tôi câu chuyện này, lúc đầu tôi không tin vào tai mình và nghĩ chắc rằng tôi hiểu lầm anh. "Anh trả tiền bồi thường cho họ?" Tôi hỏi anh ta. "Nhưng họđã giết cha và những người thân khác của anh; tại sao không phải là họ trả anh?" Không, Pius giải thích, đó không phải là diễn biến của mọi việc; mục đích cuối cùng của việc này không phải là để đòi tiền thanh toán, cũng không phải là thanh toán sòng bằng việc bên A nhận X con lợn từ bên B sau khi bên B gây ra Y cái chết cho bên A. Thay vào đó, mục đích là tái thiết quan hệ hòa bình giữa các kẻ thù và giúp thị tộc một lần nữa có thể sinh sống an toàn tại làng Goti. Thị tộc đối thủ cũng có những oán trách của riêng họ đối với sự xâm lấn do người Goti tuyên bố trên đất của họ và đối với việc người Goti giết hại một số thành viên của họ. Sau các cuộc đàm phán, hai bên tuyên bố họ hài lòng và sẵn sàng bỏ qua cảm giác nặng nề của mình; trên cơ sở thỏa thuận này, các thị tộc đối thủ nhận được lợn và hàng hóa khác, người Goti giữ lại phần đất trước đây của họ và cả hai bên có thể sống mà không có cuộc tấn công nào nữa.

Quan hệ lâu dài

Trong xã hội New Guinea truyền thống, vì mạng lưới quan hệ xã hội có xu hướng quan trọng hơn và lâu dài hơn so với ở các xã hội nhà nước phương Tây, nên hậu quả của việc tranh chấp có khuynh hướng ảnh hưởng xa hơn tới những người tham gia trực tiếp đến mức khó hiểu đối với những người phương Tây. Đối với người phương Tây chúng ta, việc những thiệt hại ở khu vườn của một thành viên thị tộc gây ra bởi con lợn của một thành viên thị tộc khác có thể châm ngòi chiến tranh giữa hai thị tộc nghe có vẻ vô lý, nhưng đối với người Cao nguyên New Guinea, kết quả đó không đáng ngạc nhiên. Người New Guinea có xu hướng giữ gìn trong cuộc sống các mối quan hệ quan trọng nuôi lớn họ. Những mối quan hệ đó mang đến cho mỗi người New Guinea sự hỗ trợ từ nhiều người khác và cũng tạo ra nghĩa vụ với nhiều người khác. Tất nhiên, người phương Tây hiện đại chúng ta cũng có quan hệ xã hội lâu dài, nhưng chúng ta phát triển và thay thế các mối quan hệ trong suốt cuộc đời mình nhiều hơn người New Guinea và chúng ta cũng sống trong một xã hội tưởng thưởng cho những cá nhân tìm cách vượt lên trước. Do đó trong các tranh chấp của New Guinea, các bên nhận hoặc phải bồi thường không chỉ là những người có liên quan trực tiếp, như Malo và cha mẹ Billy, mà còn là những người có liên quan xa hơn ở cả hai bên: người trong thị tộc của Billy, những người gây lo sợ về sự giết chóc trả thù; đồng nghiệp của Malo, những người là mục tiêu trả đũa tiềm năng và chủ của họ − người thực sự trả tiền bồi thường thiệt hại; và bất kỳ thành viên nào của dòng họ hoặc thị tộc của Malo, những người sẽ trở thành cả mục tiêu trả đũa và đối tượng đòi bồi thường nếu Malo không đi làm ở công ty. Tương tự, ở New Guinea, nếu một cặp vợ chồng đang xem xét về việc ly hôn thì những người bị ảnh hưởng khác tham gia vào các tranh luận trong cuộc ly hôn sẽ nhiều hơn nhiều so với ở phương Tây. Những người khác đó là họ hàng của người chồng, những người đã trả chi phí quà hồi môn và giờ đây sẽ yêu cầu thanh toán lại cho họ; họ hàng của người vợ, những người nhận được quà hồi môn và giờ đây sẽ phải đối mặt với việc đòi trả lại; cũng như bao gồm cả hai thị tộc nếu cuộc hôn nhân đại diện cho một liên minh chính trị quan trọng và do đó cuộc ly hôn sẽ gây nên mối đe dọa với liên minh đó.

Trái ngược với việc nhấn mạnh vào các mạng lưới xã hội trong xã hội truyền thống là sự chú tâm lớn hơn vào cá nhân ở xã hội nhà nước hiện đại, đặc biệt tại Hoa Kỳ. Chúng ta không chỉ cho phép mà còn thực sự khuyến khích các cá nhân phát triển bản thân, giành chiến thắng và tìm kiếm lợi ích trên tổn thất của người khác. Ở nhiều giao dịch kinh doanh, chúng ta cố gắng tối đa hóa lợi nhuận và không bao giờ để tâm đến cảm xúc của đối tác mà chúng ta thật sự đã gây ra mất mát. Ngay cả những trò chơi cho trẻ em Mỹ cũng thường là các cuộc thi thắng và thua. Điều đó không diễn ra trong xã hội truyền thống New Guinea, nơi trò chơi của trẻ em hướng đến sự hợp tác thay vì phân định thắng thua.

Ví dụ, nhà nhân học Jane Goodale quan sát một nhóm trẻ em (trẻ người Kaulong ở Anh), được trao cho nải chuối đủ cho mỗi đứa trẻ một quả. Lũ trẻ tiến hành chơi một trò chơi. Thay vì trong cuộc thi, mỗi trẻ phải tìm cách giành được quả chuối lớn nhất, thì ở đây mỗi trẻ cắt quả chuối của nó thành hai nửa bằng nhau, ăn một nửa, nửa còn lại đưa cho đứa trẻ khác và lần lượt nhận được một nửa quả chuối của đứa trẻ đó. Sau đó, mỗi đứa trẻ tiến hành cắt một nửa thừa chưa ăn thành 2/4, ăn một phần trong 2/4 đó, rồi đưa một phần tư cho đứa trẻ khác và nhận được 1/4 quả chuối còn thừa của đứa trẻ khác bù lại. Các trò chơi diễn ra thành 5 vòng, khi những phần còn lại của quả chuối được chia thành 8 phần bằng nhau, sau đó là 16 phần bằng nhau, cho đến khi cuối cùng mỗi đứa trẻ sẽ ăn phần cuối tương đương 1/32 quả chuối ban đầu, đưa cho đứa trẻ khác ăn 1/32 kia, rồi nhận được và ăn 1/32 cuối cùng của một quả chuối khác từ một đứa trẻ khác nữa. Toàn bộ trình tự của trò chơi này là một phần của việc tập luyện cách chia sẻ và không tìm kiếm lợi ích cho riêng mình mà những đứa trẻ New Guinea học được.

Một thiếu niên chăm chỉ và đầy tham vọng tên Mafuk làm việc cho tôi được vài tháng là một điển hình cho việc không đặt nặng lợi ích cá nhân trong xã hội truyền thống New Guinea. Khi tôi trả lương cho anh ta và hỏi anh ta định làm gì với số tiền đó, anh ta trả lời rằng sẽ mua máy may để vá quần áo cho những người dân khác. Anh ta sẽ tính phí việc sửa vá, từ đó thu hồi lại và nhân số vốn đầu tư ban đầu của mình lên, đồng thời bắt đầu tích lũy tiền để thay đổi số mệnh của mình. Tuy nhiên, người thân của Mafuk lại xúc phạm những gì họ cho là tính ích kỷ của anh ta. Đương nhiên, trong xã hội định cư, người dân có quần áo mà Mafuk vá sẽ là những người mà anh ta biết, hầu hết trong số họ là người thân hoặc họ hàng xa với anh ta. Điều này vi phạm chuẩn mực xã hội New Guinea khi Mafuk tìm lợi cho bản thân mình bằng cách lấy tiền của họ. Thay vào đó, anh ta sẽ phải vá quần áo miễn phí cho họ và để đáp lại họ sẽ ủng hộ theo những cách khác trong suốt cuộc đời của anh ta, chẳng hạn như bằng cách góp vào sính lễ kết hôn của anh ta. Tương tự như vậy, những người thợ mỏ vàng ở Gabon nào không chia sẻ vàng và tiền bạc với những người bạn bè và người thân đang ghen tị sẽ trở thành mục tiêu của những pháp sư vốn được cho là gây ra căn bệnh chết người - sốt xuất huyết Ebola.

Khi các nhà truyền giáo phương Tây - những người đã sống ở New Guinea với con nhỏ của họ - trở lại úc hoặc Hoa Kỳ, hoặc khi họ gửi con cái của họ trở lại úc hay Mỹ để đi học nội trú, bọn trẻ nói với tôi rằng vấn đề về thích nghi lớn nhất của các em là phải đối mặt và hòa nhập với phong cách chủ nghĩa cá nhân ích kỷ phương Tây và phải từ bỏ sự tập trung hợp tác và chia sẻ mà các em đã học được qua trẻ em New Guinea. Các em cho biết các em cảm thấy xấu hổ về bản thân nếu chơi các trò chơi cạnh tranh để giành chiến thắng, hoặc nếu cố gắng để nổi trội trong trường, hoặc nếu tìm kiếm một lợi ích hay cơ hội mà đồng đội của các em không đạt được.

Các xã hội phi nhà nước khác

Thế còn sự khác biệt trong giải quyết tranh chấp giữa các xã hội phi nhà nước thì sao? Trong khi việc sử dụng hòa giải, như trong trường hợp của Billy và Malo, có thể có hiệu quả ở những làng New Guinea truyền thống, nó lại có thể không cần thiết hoặc không hiệu quả ở các loại hình xã hội khác. Thực ra có một sự biến đổi gần như liên tục, từ những xã hội nhỏ không có các cấp thẩm quyền hoặc hệ thống tư pháp tập trung, đến những tù trưởng quốc trong đó người đứng đầu giải quyết tranh chấp, rồi đến các nhà nước yếu ở đó các cá nhân thường vẫn tự thực thi công lý, cuối cùng là các nhà nước mạnh thi hành quyền lực hiệu quả. Chúng ta hãy xem xét phương pháp giải quyết tranh chấp trong hòa bình ở 5 xã hội phi nhà nước khác nhau, từ những xã hội nhỏ hơn cả các ngôi làng New Guinea đến các xã hội lớn đã bắt đầu tập trung chính trị.

Chúng ta bắt đầu với những tranh chấp ở các xã hội nhỏ nhất, bao gồm các thị tộc có quy mô địa phương với vài chục thành viên. Người!Kung gây ấn tượng với một nhà nhân học tìm hiểu một xã hội mà ở đó con người nói không ngừng, các cuộc tranh chấp được công khai và mọi người trong thị tộc tham gia vào mọi cuộc tranh chấp của bất kỳ hai thành viên nào trong thị tộc. Nhà nhân học đó tình cờ đến thăm trong vòng một tháng vào lúc một cặp vợ chồng không sống hạnh phúc với nhau và khi những người khác trong thị tộc (tất cả họ theo cách nào đó đều có quan hệ với người chồng hoặc vợ hoặc cả hai) liên tục tham gia vào những cuộc tranh cãi của cặp vợ chồng. Một năm sau đó, nhà nhân học này trở lại trong một chuyến viếng thăm khác và nhận thấy cặp vợ chồng đó vẫn sống với nhau, vẫn không vui vẻ với nhau và những thành viên khác trong thị tộc vẫn tham gia vào những cuộc cãi cọ của họ.

Người Siriono ở Bolivia, vốn cũng sống theo những nhóm nhỏ, cũng được mô tả là cãi nhau liên tục, đặc biệt là giữa chồng và vợ, giữa những người vợ có chung chồng, giữa những người dâu rể và giữa trẻ con trong dòng họ. Trong số 75 vụ tranh chấp được ghi nhận ở người Siriono, 44 vụ là vì thực phẩm (không chia sẻ, tích trữ, ăn cắp, ăn vụng vào ban đêm trong trại, hoặc ăn cắp sau đó trốn vào rừng để ăn vụng); 19 vụ là vì tình dục, đặc biệt là về ngoại tình; và chỉ có 12 vụ vì một cái gì đó khác thức ăn hoặc tình dục. Nếu không có người phân xử, hầu hết các vụ tranh chấp Siriono được giải quyết giữa những người tranh chấp, đôi khi với sự tham gia của một người thân để hỗ trợ một bên. Nếu tình trạng đối đầu giữa hai gia đình trong cùng trại trở nên căng thẳng, một gia đình có thể di chuyển ra khỏi trại sống riêng trong rừng cho đến khi cảm giác thù địch giảm xuống. Nếu sự đối đầu vẫn tiếp tục tồn tại, một gia đình tách ra để tham gia thị tộc khác hoặc để tạo thành một thị tộc mới. Điều đó cho thấy một sự khái quát hóa quan trọng: trong số những người săn bắt - hái lượm du canh du cư và các nhóm lưu động khác, tranh chấp trong nhóm có thể giải quyết đơn giản bằng cách phân chia nhóm để tách biệt những bên tranh chấp. Lựa chọn đó trở nên khó khăn cho nông dân làng định cư vốn đã đầu tư lớn vào vườn của họ và thậm chí khó hơn nữa đối với công dân phương Tây chúng ta, những người vốn gắn liền với công việc và nhà ở.

Vẫn còn một nhóm nhỏ khác, thổ dân da đỏ Pariha của Brazil, sự tẩy chay từng bậc tạo nên áp lực xã hội phải hành xử theo các chuẩn mực của xã hội và phải giải quyết tranh chấp. Hiện tượng này bắt đầu bằng việc loại trừ ai đó khỏi hoạt động chia sẻ thức ăn trong một ngày, rồi vài ngày, rồi khiến người đó sống xa khỏi khu rừng, cắt các trao đổi thương mại và xã hội thông thường. Hình phạt nghiêm trọng nhất của người Pariha là tẩy chay hoàn toàn. Ví dụ, một thiếu niên tên Tukaaga giết một thổ dân da đỏ Apurina tên là Joaquim sống gần đó và khiến người Pariha phải đối mặt rủi ro bị tấn công trả đũa. Sau đó, Tukaaga đã bị buộc phải sống bên ngoài tất cả các làng Pariha khác và trong vòng một tháng, anh ta chết vì những nguyên do bí ẩn, được cho là do cảm lạnh, nhưng thay vì vậy có thể anh ta đã bị giết bởi những người Pariha khác, những người cảm thấy bị đe dọa bởi hành động của Tukaaga.

Ví dụ áp chót của tôi liên quan đến người Fore, một nhóm người vùng Cao nguyên New Guinea mà tôi làm việc cùng vào những năm 1960, những người này sống với mật độ dân số đông hơn đáng kể, và do đó có vẻ như hung hăng hơn người!Kung, Siriono hoặc Pariha. Từ năm 1951 đến năm 1953, đôi vợ chồng nhà nhân chủng học, Ronald và Catherine Berndt, đã nghiên cứu nhóm người Fore vào thời điểm chiến tranh vẫn còn đang diễn ra ở địa bàn của nhóm này. Khi không có một quyền lực trung tâm hoặc cơ chế chính thức để giải quyết sai phạm, những tranh chấp của người Fore trong thị tộc hay dòng dõi đều phải tự giải quyết. Chẳng hạn, trách nhiệm bảo vệ tài sản khỏi trộm cắp thuộc về chủ sở hữu. Dù tên trộm bị lên án theo các tiêu chuẩn cộng đồng, nhưng việc đòi bồi thường bằng lợn hoặc một hình thức khác lại tùy thuộc vào chủ sở hữu tài sản. Mức độ đền bù không được chuẩn hóa theo giá trị của vật bị đánh cắp mà phụ thuộc vào tương quan sức mạnh giữa kẻ phạm tội và người bị hại, vào hiềm khích trong quá khứ và vào việc họ hàng của tên trộm đánh giá hắn thế nào và có thể hỗ trợ hắn không.

Một cuộc tranh chấp của người Fore có khả năng lôi kéo nhiều hơn hai người liên quan ban đầu. Trong trường hợp bất đồng giữa vợ chồng, người thân của cả hai có thể sẽ tham gia nhưng chính họ có thể gặp phải xung đột lợi ích. Trong khi một người cùng thị tộc với người chồng có thể hỗ trợ người cùng tộc (người chồng) chống lại vợ của người cùng tộc này, thì thay vào đó, người này cũng có thể hỗ trợ người vợ chống lại chồng vì đã góp phần vào việc mua sính lễ để rước người vợ đó về thị tộc. Do đó, các tranh chấp trong một dòng dõi thường bị áp lực phải giải quyết nhanh chóng, bằng cách thanh toán khoản đền bù, trao đổi quà, hoặc tổ chức tiệc để báo hiệu việc tái lập quan hệ hữu nghị. Những tranh chấp giữa hai dòng dõi cùng khu vực cũng có thể được giải quyết bằng cách thanh toán tiền đền bù, nhưng (như chúng ta sẽ thấy trong hai chương tiếp theo) nguy cơ dùng đến bạo lực sẽ cao hơn nếu tranh chấp trong cùng một dòng dõi, vì những người khác sẽ ít tạo áp lực phải giải quyết hơn.

Xã hội cuối cùng trong các xã hội phi nhà nước mà tôi so sánh ở đây là người Nuer của nước Sudan, với dân số thống kê khoảng 200.000 người (chia thành nhiều bộ lạc) vào lúc nhà nhân chủng học E. E. Evans-Pritchard nghiên cứu trong những năm 1930. Trong số 5 xã hội vừa nêu, những người này là đông nhất, là một trong những xã hội với tình trạng bạo lực chính thức hóa lan tràn có vẻ như cao nhất, và là xã hội duy nhất có lãnh đạo chính trị được công nhận chính thức với tên gọi "tù trưởng da báo". Người Nuer dễ dàng cảm thấy bị xúc phạm và cách thức được ca tụng để đàn ông giải quyết tranh chấp bên trong một làng là đánh nhau với các thị tộc cho đến khi một người bị thương nặng, hoặc (thường xuyên) cho đến khi người làng khác can thiệp và chia tách những người đánh nhau.

Hành vi phạm tội nghiêm trọng nhất giữa những người Neur là giết người, châm ngòi cho cuộc đổ máu: nếu X giết Y, người thân của Y có nghĩa vụ tìm cách trả thù bằng cách giết X và/hoặc một trong những người thân của X. Do đó, việc giết người đánh dấu một sự mâu thuẫn không chỉ giữa kẻ giết người và kẻ bị giết mà còn giữa tất cả những người thân của cả hai và toàn bộ cộng đồng của họ. Ngay lập tức sau khi giết người, kẻ giết người hiểu rằng anh ta là một mục tiêu của việc trả thù, xin tị nạn tại nhà người tù trưởng, nơi anh ta tránh khỏi sự tấn công nhưng những kẻ thù của anh ta vẫn tiếp tục trông chừng để tấn công anh ta nếu anh ta dại dột rời khỏi nhà người tù trưởng. Người tù trưởng đợi vài tuần sau cho sự tức giận lắng dịu (tương tự như sự trì hoãn ngắn hơn trong trường hợp cái chết của Billy ở New Guinea mà tôi đã đề cập), rồi thiết lập các cuộc đàm phán về đền bù giữa họ hàng của kẻ giết người và người nhà nạn nhân. Khoản đền bù thông thường cho cái chết là 40 hoặc 50 con bò.

Tuy nhiên, cần phải hiểu rằng người tù trưởng của người Nuer không có thẩm quyền cai trị, quyền quyết định đúng sai trong một cuộc tranh chấp, hoặc quyền tiến hành giải quyết. Thay vào đó, người tù trưởng chỉ là trung gian hòa giải được cần đến khi và chỉ khi cả hai bên muốn đạt đến thỏa thuận và trở về trạng thái ban đầu trước đó. Người tù trưởng tìm kiếm đề xuất từ một bên, mà thường phía bên kia sẽ từ chối. Cuối cùng, người tù trưởng kêu gọi một bên chấp nhận đề xuất của phía bên kia và bên đó sẽ làm như vậy một cách miễn cưỡng, nhấn mạnh rằng làm như vậy chỉ để tôn trọng người tù trưởng. Có nghĩa là, người tù trưởng tạo nên phương cách giữ thể diện khi cần chấp nhận thỏa hiệp vì lợi ích của cộng đồng. Thù hằn trong cùng một làng là việc không được chấp nhận còn thù hằn giữa các làng gần nhau khó có thể duy trì lâu. Tuy nhiên khoảng cách giữa hai dòng dõi liên quan càng lớn, việc giải quyết hận thù càng khó khăn (vì càng có ít động lực khôi phục quan hệ bình thường), dẫn đến việc giết người ban đầu càng dễ leo thang thành bạo lực.

Tù trưởng da báo của người Nuer cũng có thể có khả năng hòa giải những tranh chấp nhẹ hơn, chẳng hạn như những tranh chấp về ăn cắp gia súc, tấn công người khác hoặc gia đình của cô dâu sau khi ly dị không trả lại số bò sính lễ mà họ nhận được tại thời điểm kết hôn. Tuy nhiên, tranh chấp của người Nuer không đặt ra vấn đề quyết định đúng sai rạch ròi. Ví dụ, nếu tranh chấp về ăn cắp gia súc, kẻ trộm không phủ nhận hành vi trộm cắp mà thay vào đó, mạnh dạn biện minh cho hành vi đó bằng cách viện dẫn một số điểm cần phải giải quyết: vụ trộm gia súc trước đó của người chủ hiện tại hoặc thân nhân của người chủ, hoặc một số món nợ (ví dụ như bồi thường cho tội ngoại tình, cho thương tích, cho quan hệ tình dục với một cô gái chưa lập gia đình, cho việc ly hôn, cho trả thiếu hoặc không trả lại sính lễ hoặc cho cái chết của người vợ trong khi sinh nở mà trách nhiệm bị xem là do người chồng). Cũng vì khoản bồi thường của người Nuer không liên quan đến đúng hay sai, bên bị hại sẽ không thể có được tiền bồi thường trừ khi anh ta sẵn sàng sử dụng vũ lực và trừ khi người ta sợ rằng anh ta và người thân sẽ dùng bạo lực nếu không được bồi thường. Cũng như người Fore, tự lực cánh sinh hoặc tự lo liệu là nền tảng trong hoạt động giải quyết tranh chấp của người Nuer.

So với 4 xã hội phi nhà nước khác thảo luận ở đây, vai trò của người tù trưởng Nuer chứng tỏ bước đầu hướng đến hoạt động xét xử tranh chấp. Tuy nhiên, cần tái nhấn mạnh rằng các tính năng xét xử tranh chấp của nhà nước vẫn thiếu vắng ở người Nuer, cũng như trong hầu hết các xã hội phi nhà nước khác ngoại trừ các tù trưởng quốc vững mạnh. Người tù trưởng Nuer không có thẩm quyền giải quyết tranh chấp, chỉ là một trung gian hòa giải, một phương tiện để giữ thể diện và tạo ra giai đoạn lắng dịu nếu cả hai bên muốn vậy, điều đó cũng đúng với vai trò của Yaghean trong xung đột giữa gia đình Billy và nhân viên của Malo. Người tù trưởng Nuer không có độc quyền sử dụng vũ lực và thực sự cũng không có bất kỳ biện pháp sử dụng vũ lực nào; các bên tranh chấp vẫn là những người có khả năng dùng đến bạo lực. Mục đích giải quyết tranh chấp của người Nuer không phải là quyết định đúng hay sai mà để thiết lập lại quan hệ bình thường trong một xã hội nơi mà mọi người đều quen hoặc ít nhất là biết đến mọi người khác và nơi mà sự tồn tại ý đồ xấu giữa hai thành viên sẽ đe dọa đến sự ổn định xã hội. Tất cả những hạn chế này của các tù trưởng bộ tộc Nuer sẽ thay đổi khi chúng ta tiếp cận các tù trưởng quốc đông dân hơn (chẳng hạn như người ở các hòn đảo Polynesia lớn và những chính thể người Mỹ bản địa rộng lớn), nơi người tù trưởng giữ quyền lực chính trị và tư pháp thực sự, tuyên bố độc quyền sử dụng vũ lực và đại diện cho các chế độ trung gian có tiềm năng dẫn đến nguồn gốc của chính quyền nhà nước.

Thẩm quyền nhà nước

Đến đây hãy cùng so sánh các hệ thống giải quyết tranh chấp phi nhà nước với các hệ thống nhà nước. Cũng như nhiều hệ thống phi nhà nước chúng ta đã thảo luận dù có chung một số đặc điểm nhưng vẫn khác nhau ở các đặc điểm khác, các hệ thống nhà nước cũng chia sẻ một số nền tảng chung giữa các biến thể đa dạng. Những đánh giá của tôi về việc giải quyết tranh chấp sẽ hầu hết dựa trên hệ thống quen thuộc nhất với tôi, đó là Hoa Kỳ, nhưng tôi cũng sẽ đề cập đến một số khác biệt trong những hệ thống nhà nước khác.

Cả giải quyết tranh chấp nhà nước và giải quyết tranh chấp phi nhà nước đều có hai quy trình thay thế lẫn nhau: các cơ chế để đạt được thoả thuận giữa các bên xung đột, sau đó (nếu các cơ chế này đã được thử nhưng thất bại) là cơ chế để đạt được một giải pháp tranh chấp. Ở các xã hội phi nhà nước, mặt trái của quá trình bồi thường để đạt được thỏa thuận chung là sự leo thang của bạo lực (chương 3, 4). Các xã hội phi nhà nước thiếu những cơ chế nhà nước trung ương chính thức để ngăn cản các cá nhân không hài lòng theo đuổi mục tiêu của họ bằng biện pháp bạo lực. Vì một hành vi bạo lực có xu hướng kích động hành vi bạo lực khác nên bạo lực leo thang và trở thành một mối đe dọa đặc trưng với hòa bình ở các xã hội phi nhà nước. Do đó, mối quan tâm chính của một chính quyền nhà nước hiệu quả là phải đảm bảo hoặc ít nhất là cải thiện an toàn công cộng bằng cách ngăn chặn những công dân trong xã hội nhà nước đó sử dụng vũ lực chống lại nhau. Để duy trì hòa bình và an toàn nội bộ, cơ quan chính trị trung ương của nhà nước tuyên bố gần như là độc quyền quyền sử dụng vũ lực trả đũa: chỉ có nhà nước và cảnh sát của nước đó được phép (với đầy đủ lý do) sử dụng các biện pháp bạo lực trả đũa chống lại chính những người dân của nhà nước đó. Tuy nhiên, nhà nước cũng cho phép công dân sử dụng vũ lực để bảo vệ mình: ví dụ, nếu người dân bị tấn công trước, hoặc nếu họ có lý do tin rằng họ hoặc tài sản của họ gặp phải nguy hiểm trầm trọng.

Người dân bị ngăn cản dùng vũ lực cá nhân theo hai cách: vì sợ hãi sức mạnh vượt trội của nhà nước; và vì tin rằng bạo lực cá nhân là không cần thiết bởi nhà nước đã thành lập một hệ thống tư pháp được cho là không thiên vị (ít nhất là trên lý thuyết), bảo đảm an toàn thân thể và tài sản cho công dân và gán tội đồng thời trừng phạt những người gây tổn hại đến sự an toàn của người khác. Nếu nhà nước thực thi hiệu quả những điều đó thì những công dân bị tổn hại có thể cảm thấy ít hơn hoặc không cần phải viện đến công lý tự - lo - liệu, như cách của người New Guinea và người Nuer (Tuy nhiên, tại các nhà nước yếu hơn nơi mà công dân thiếu niềm tin rằng nhà nước sẽ ứng phó hiệu quả, chẳng hạn như ở nhà nước Papua New Guinea ngày nay, công dân thường tiếp tục những tập tục bạo lực truyền thống). Gìn giữ hoà bình trong xã hội là một trong những sự giúp ích quan trọng nhất mà một nhà nước có thể mang lại. Sự giúp ích đó góp phần giải thích rõ ràng nghịch lý rằng, kể từ khi các chính quyền nhà nước đầu tiên ở Fertile Crescent được hình thành vào khoảng 5.400 năm trước đây, người dân đã ít nhiều sẵn sàng (không chỉ bị cưỡng ép) từ bỏ một số quyền tự do cá nhân của họ, chấp nhận thẩm quyền của chính quyền nhà nước, nộp thuế hỗ trợ lối sống cá nhân thoải mái cho các lãnh đạo và quan chức nhà nước.

Một ví dụ về hành vi mà chính quyền nhà nước muốn ngăn chặn bằng mọi giá là vụ án Ellie Nesler ở thị trấn nhỏ của Jamestown, California, cách San Francisco hơn 100km về phía đông. Ellie là mẹ của cậu con trai 6 tuổi, William, vốn bị cho là bị người quản trại Daniel Driver lạm dụng tình dục ở trại hè Cơ Đốc Giáo. Tại buổi điều trần phiên tòa sơ bộ ngày 2/4/1993, nơi Daniel bị buộc tội lạm dụng William và ba cậu bé khác, Ellie đã bắn 5 phát súng ở cự ly gần vào đầu Daniel, khiến anh ta chết ngay lập tức. Đó là một hành động trả thù: Ellie không phải đang bảo vệ con trai mình trước một cuộc tấn công đang diễn ra, cũng không phải trước viễn cảnh sắp xảy ra của cuộc tấn công, mà cô đang trả đũa sau một sự kiện tình nghi. Trong lời biện hộ của mình, Ellie khai rằng con trai cô đã quá quẫn trí vì bị lạm dụng đến mức nôn mửa và không có khả năng làm chứng chống lại Daniel. Cô sợ rằng Daniel sẽ được tự do và cô thiếu niềm tin vào hệ thống tư pháp bất lực vốn đã cho phép một kẻ cuồng dâm với tiền án xâm hại tình dục vẫn được