Chương 1 (tt 2) Ngày ấy và bây giờ
Đầu giờ chiều, chúng tôi đến ngay sát một thị trấn bị nhuộm xanh. Thị trấn khá lớn, có hợp tác xã nông nghiệp, bưu điện và cả cửa hàng tiện lợi nữa. Nơi này có lẽ bị ánh sáng rọi xuống khá sớm. Thế nhưng rất nhiều bóng người hiện ra qua màn sương mỏng.
Cậu nhìn xem, Mizuki nói và cho tôi mượn ống nhòm.
Nhìn qua ống kính, tôi thấy người dân ở đây vẫn trong bộ dạng thường nhật của họ, như thể không có chuyện gì xảy ra. Chẳng hề có cảm giác mọi thứ đã kết thúc.
Ở trong công viên nhỏ kia là một gia đình gồm cặp vợ chồng trẻ và hai đứa con nhỏ. Đứa con gái lớn đánh đu dưới tay bố, há miệng cười to. Đứa em trai nằm trong lòng mẹ, ngủ say sưa. Hai vợ chồng nhìn nhau, giao tiếp mà không dùng lời nói.
“Thế này là được anh nhỉ?” người vợ nói. “Ừ, thế này là được rồi,” người chồng trả lời. “Anh vẫn muốn kết thúc mọi thứ như thế này. Cùng với cả gia đình mình.”
Ở bãi đỗ xe của tiệm tạp hóa, một ông lão đang kéo tay một cậu bé. Không thể đợi được đến lúc về nhà, cậu bé đã bắt đầu bóc hộp bánh trên tay. Có khi cái cậu nhắm đến là món đồ chơi đi kèm trong đó cũng nên. Ông lão nhìn đứa cháu với một nụ cười làm hằn những nếp nhăn trên gương mặt.
Một người phụ nữ mập mạp làm nông. Đôi vợ chồng già đang đi dạo. Đôi tình nhân trẻ trong bộ đồng phục cấp hai.
Gương mặt ai nấy đều rất đỗi bình yên. Thậm chí còn có cả những nụ cười.
Chẳng ai nghĩ mọi thứ sẽ kết thúc như thế. Không có bạo động, cướp giật. Cũng không có những người trưởng thành giẫm đạp lên lưng con trẻ mà chạy thoát thân.
Mizuki đã nói nguyên nhân là bởi bầu không khí. Có lẽ vậy thật. Một thứ thuốc bổ không màu đã tràn đầy khí quyển, đánh thức một điều gì đó đang say ngủ trong tâm khảm mỗi người. Điều gì thức tỉnh còn tùy thuộc vào từng cá nhân, nhưng đại khái tất cả đều thay đổi theo hướng tích cực.
Ánh sáng rửa tội xuất hiện đầu tiên ở những vùng đô thị lớn, nên chẳng mấy chốc chính quyền không hoạt động nữa. Nhưng tất cả đều cố gắng nâng đỡ nhau cùng đi đến ngày cuối cùng.
Ai đó đã từng nói, trong cái rủi có cái may. Quả đúng thế. Ít nhất chúng ta, dù muộn màng nhưng vẫn nhận ra rằng, con người thực chất là một sinh vật cao quý.
Hôm nay mặt trời cũng sớm lặn. Mây tà tà trôi thấp, cuộn vào nhau như hàng ngàn con rồng, xoáy vòng và lượn sóng. Khoảng trời phía Tây dần nhuộm trong một sắc màu kỳ lạ.
“Nhìn bao nhiêu lần cũng chẳng thấy chán nhỉ,” Mizuki nói. “Cảnh này có phải trả tiền tôi cũng muốn ngắm.”
“Công nhận anh nhỉ. Nhưng mà trông có hơi đáng sợ.”
“Ừ, thế nên mới tuyệt đấy.”
Nơi chúng tôi đang đứng giống một thung lũng hẹp nối liền với cánh đồng nhỏ. Trời đã bắt đầu tối.
Chúng tôi đi dọc thung lũng đã nhá nhem tối một hồi thì thấy bóng ai ngồi thụp xuống trước con đường xuyên qua ruộng lúa. Mizuki cũng để ý ngay và khẽ thầm thì “Có người kìa.”
Khi tiến lại gần chúng tôi mới biết ấy là một ông lão đã khá cao tuổi. Ông ngồi bệt xuống đất, lưng dựa vào cái gùi bằng gỗ. Trong gùi chất đầy củi.
“Ông ơi, ông sao thế?” Mizuki bắt chuyện.
Ông lão chầm chậm ngẩng mặt lên, hơi tỏ vẻ ngạc nhiên khi nhìn thấy chúng tôi.
“Ối chà, hẵng còn người kia à.”
“Còn chứ ạ,” Mizuki đáp. “Thế giới đã kết thúc đâu ông.”
“Lưng tôi đau quá,” ông lão nói. “Không đứng dậy nổi.”
“Do ông hơi tham quá đấy thôi,” Mizuki liếc nhìn chiếc gùi đầy ắp củi và nói. “Cái này chẳng phải nặng quá sức ông sao?”
“Vợ tôi đang đợi ở nhà,” ông lão đáp. “Bà ấy cứ rên rỉ lạnh quá, lạnh quá mãi.”
Mizuki bật cười.
“À, ra là ông muốn thể hiện với bà nhà. Nhưng ông nhiệt tình hơi thái quá rồi đấy.
“Thôi biết làm sao được,” anh nói và chuyển ba lô đang đeo sau lưng về phía trước, đoạn ngồi thụp xuống, chìa lưng trước mặt ông lão. “Để cháu cõng ông. Ông cứ ngồi đây thế này chắc chết cóng mất thôi.”
“Yuu,” Mizuki gọi tôi, đoạn hất cằm về phía chiếc gùi. “Nhờ cậu cái kia nhé.”
Tôi đồng ý và nhấc gùi lên, giật mình vì nó nặng hơn tôi tưởng nhiều. Không tài nào đi cho thẳng được. Đeo cái này đau lưng là phải.
Đi bộ chừng mười phút thì đến nhà ông lão. Ấy là một căn nhà cũ kỹ lợp mái tranh, bây giờ rất hiếm gặp.
Khi ông lão cất tiếng gọi từ bậc thềm trước hiên, một bà lão nhỏ người mở cánh cửa trượt của căn phòng trong góc và lao ra ngoài. Đưa mắt nhìn thoáng qua, tôi cảm giác có gì đó kỳ lạ. Nhìn kỹ thì thấy mặt bà lão hằn đầy nếp nhăn, nhưng cử chỉ và trang phục của bà đều giống trẻ con, dù đương nhiên không có phần nào ở bà là trẻ con cả.
Bà là vợ ông lão. Chiếc khăn trùm đầu chần bông của bà sùm sụp đến tận vai, trên người khoác không biết bao nhiêu lớp quần áo, dáng vẻ ấy làm tôi liên tưởng tới những con búp bê Nga.
Nhìn thấy người lạ trước thềm nhà, nét mặt bà bỗng lộ vẻ cảnh giác. Bà quan sát bộ dạng chúng tôi, đoạn nhẹ nhàng ngồi xuống đối diện chiếc lò sưởi đặt ngay chính giữa phòng khách.
Tôi ngầm so sánh bà với một con thú hoang tuyệt đối không lơ là cảnh giác trước con người.
“Các cậu đừng để ý,” ông lão nói. “Bà ấy bắt đầu hơi lẩm cẩm rồi. Người già hóa trẻ con đó mà.”
Hai anh em dìu ông lão vào phòng khách, nhanh chóng cho củi mới mang về vào lò sưởi và nhóm lửa, đoạn lấy tấm chăn cuộn trong góc nhà ra quấn quanh thân thể ông lão đang lạnh cóng. Bà lão ngồi trên sàn nhà, lặng im nhìn chúng tôi tất bật.
“Hai cậu giúp đỡ tôi nhiều quá,” ông lão lại tỏ lòng cảm kích. “Quanh khu này chỉ còn lại hai vợ chồng tôi thôi.
“Làng này vốn đã thưa dân từ trước. Mọi người cứ dần biến mất. Người chuyển đi nơi khác, người trở về với cát bụi. Hai vợ chồng tôi là những dân làng cuối cùng rồi. Nếu các cậu không đi qua đây, chắc tôi chết cóng thật ấy chứ.”
“Không có gì đâu ông,” Mizuki nói. “Người ta chẳng có câu đồng bệnh tương lân là gì? Những lúc hoạn nạn giúp đỡ nhau mới là con người chứ.”
Anh nhìn lên rầm nhà dính đầy bồ hóng và hỏi ông lão.
“Mà hai ông bà ở căn nhà cũ kỹ thế này suốt sao?”
“Ừ, đúng thế đấy. Mấy chục năm rồi chỉ có hai thân già này sống ở đây.”
Rồi cứ thế, ông lão bắt đầu kể chúng tôi nghe chuyện đời mình.
Chắc hẳn ông lão đã quá thèm khát được nói. Thèm một người chịu lắng nghe, thèm được trò chuyện tử tế...
Ông kể rằng hai vợ chồng ông vốn là họ hàng không xa lắm.
“Tôi vẫn nhớ rõ ngày bà ấy sinh ra. Lúc ấy tôi mới có năm tuổi.
“Mãi đến khi lớn rồi bà ấy mới chịu mở miệng,” ông nói.
“Mọi người xung quanh cứ lo lắng mãi, nhưng bà ấy đơn giản chỉ cảm thấy nói là việc rất phiền phức. Sau nàỵ nhà tôi mới bộc bạch, rằng nếu cố thì vẫn nói được, nhưng bà ấy không sao làm nổi.
“Mà dù sao đi nữa thì,” ông tiếp lời. “Nhà tôi rất kiệm lời. Không bao giờ nói gì trừ những chuyện tối cần thiết. Thế nên tới tuổi cập kê rồi mà bạn bè không có, lúc nào cũng thui thủi một mình.”
“Đám con trai thì sao ạ?” Mizuki hỏi. “Con gái đến tuổi đó rồi trai làng nào có để yên bao giờ?
“Còn phải xem đứa con gái ấy thế nào chứ. Nhà tôi khi ấy thô kệch phát sợ. Không có lấy một mẩu duyên dáng. Lúc nào cũng chơi với chim chóc sâu bọ, lại còn nói hiểu chúng nói gì nữa chứ. Thử hỏi ai muốn rước một đứa con gái kỳ quặc như thế?”
“Thế mà ông lại kết hôn với bà.”
“Đúng là vậy mà,” ông lão nói. “Bị ép gả đấy. Mấy người trong họ tự ý sắp đặt thế. Từ ngày cha mẹ mất, tôi một mình làm việc đồng áng trên đất này, sống tự do tự tại. Nhưng tự nhiên một ngày ông lão trưởng họ dắt bà ấy đến, nói rằng ‘Từ hôm nay hai đứa là vợ chồng’. Tôi cũng chẳng ừ hử câu nào. Thế rồi mọi sự an bài trong khi tôi chẳng hay biết gì. Mà dù sao bà ấy cũng chẳng làm phiền bao giờ. Chẳng mấy khi hé lời nào, ăn cũng không nhiều. Thế nên tôi cứ kệ.”
“Chuyện là thế sao?”
“Ừ,” ông lão đáp. “Tôi và bà ấy cũng chẳng phải trường hợp cá biệt gì. Thời đó là vậy mà.”
“Rồi sau đó?” Mizuki hỏi. “Hai người thế nào?”
“Thì thành vợ chồng thôi,” ông lão đáp. “Vợ chồng thật sự ấy.
“Ở với nhau lâu cũng nảy sinh tình cảm. Cùng là hai kẻ lạc loài trong làng, sống ở đây sẽ không cần phải nể nang ai. Chẳng nhàn hạ gì nhưng có hai mình quả thật vẫn vững dạ hơn một mình. Nếu biết trân trọng đối phương thì cũng giống như yêu thôi.”
“Ra vậy,” Mizuki nói. “Thế là từ bấy đến giờ hai người vẫn ở đây...”
“Ừ. Chẳng hiểu sao mãi chẳng có nổi một mụn con. Chắc do máu đặc quá chăng? Tôi với bà ấy giống nhau, chẳng mấy khi đặt chân ra khỏi làng. Nơi này là tất cả đối với hai vợ chồng tôi. Mấy người ở sở cư trú cũng đến nói ra nói vào, nhưng chúng tôi cứ tiếp tục sống như từ trước đến nay vẫn thế. Đằng nào chẳng sắp nhắm mắt xuôi tay rồi. Cuống quýt lên mà làm gì không biết?”
“Công nhận,” Mizuki nói và gật đầu thật mạnh. Đoạn anh im lặng một hồi như suy nghĩ điều gì rồi hỏi ông lão.
“Ông này, ông có hạnh phúc không?”
Gương mặt ông lão thoáng vẻ bất ngờ. Ông không trả lời ngay được.
“Hạnh phúc ấy à?” ông hỏi lại sau một thoáng khá lâu.
“Thì cuộc đời sắp đến đoạn kết, chẳng phải người ta hay suy ngẫm cái nọ cái kia sao? Giả dụ như có một cuộc đời khác, biết đâu mình lại hạnh phúc hơn chẳng hạn.”
“Tôi thấy ngạc nhiên lắm.”
“Tại sao kia?”
“Tôi chưa từng nghĩ đến mấy chuyện đó cho đến khi nghe cậu hỏi vậy.”
“Thế thì tuyệt thật,” Mizuki đáp. “Chứng tỏ ông đã sống cực kỳ viên mãn đấy.”
“Thế sao?”
“Đúng vậy đấy.”
“Ha!” Ông lão buột miệng cảm thán.
“Giờ cậu nói tôi mới thấy, có lẽ là vậy thật. Tôi chỉ dồn hết tâm sức để sống từng ngày nên chẳng nghĩ đến bao giờ, nhưng quả đúng thế...”
Ông lão nhìn quanh bốn bức tường và trần của căn nhà cũ kỹ, đoạn hướng ánh mắt về phía người vợ ngồi đối diện lò sưởi, dáng vẻ như thiếu nữ.
“Chắc tôi cũng hài lòng với cuộc sống này. Được sống như bây giờ luôn là niềm ao ước của tôi. Kết đôi với cô gái thô kệch kiệm lời mình biết từ thuở mới lọt lòng, được làm bạn với đất đai, không cần phải kiêng nể bất kỳ ai. Tôi không làm tổn thương người khác, cũng chẳng hận thù ai cả. Chỉ chấp nhận mọi thứ và sống thật bình yên...”
Ông lão nhìn người phụ nữ mình yêu với đôi mắt ngấn lệ, nói mà giọng nghe như rên rỉ.
“Nói thật với các cậu, chăm sóc nhà tôi khi bà ấy đã hóa trẻ con thế này, chẳng hiểu sao tôi cứ thấy vui vui là. Tôi nhớ đến hồi xửa hồi xưa, ngày tôi còn chưa được mười tuổi, suốt ngày phải trông nom bà ấy. Cũng nhàn lắm, chỉ cần để ý không cho bà ấy đi xa quá. Hồi nhỏ, bà ấy bắt bướm, nói chuyện với cây, rồi còn nghe chim hót chẳng biết chán là gì.
“Yên bình thật đấy,” ông tiếp tục.
“Tôi còn nghĩ, có lẽ đây là một giấc mơ. Ngẫm mới thấy, từ hồi đó đến giờ, có lẽ tôi vẫn sống trong giấc mơ của bà ấy cũng nên...”
Trước khi trời tối hẳn, chúng tôi đi qua đi lại giữa nhà ông lão và ngọn núi, chất đầy củi vào nhà kho trong vườn. Chỗ này có lẽ đủ dùng trong một thời gian.
Ông lão cho phép hai anh em tự nhiên sử dụng nhà tắm và bếp đun nên chúng tôi dùng củi nấu nước tắm và thổi cơm trên bếp (có ống máng dẫn nước suối từ ngọn núi sau nhà nên có thể dùng thỏa thuê). Trong nhà vẫn còn kha khá gạo và rau. Chúng tôi bắc nồi lên chiếc lò sưởi đặt giữa nhà và nấu xúp nấm, bốn người quây quần cùng nhau ăn. Lâu lắm rồi mới được ăn no nên chúng tôi sung sướng lắm.
“Đương nhiên rồi,” ông lão nói. “Hai cậu là ân nhân của hai vợ chồng tôi mà.”
Ăn xong, hai anh em tắm bồn sau một khoảng thời gian khá lâu không được làm việc này, nằm xuống chiếc nệm cho khách trải cạnh lò sưởi.
“Lâu rồi nhà này chẳng có khách, nệm có khi mọc mốc rồi cũng nên.”
Ông lão nói vậy nhưng nệm rất sạch, chạm vào da cảm giác rất dễ chịu. Hai vợ chồng già ngủ cùng nhau trong căn phòng kế bên, như đứa bé gái và người trông trẻ vậy.
Mượn lửa lò sưởi thay ánh đèn, tôi giở thư nàng ra đọc. Tôi cất toàn bộ những lá thư nàng viết trong cặp. Từ ngày lên đường, việc đọc những lá thư ấy trước khi đi ngủ đã trở thành thói quen của tôi.
Ngồi đối diện lò sưởi, Mizuki lật giở từng trang một cuốn sách khá cũ kỹ.
“Anh đọc gì thế?” Nghe tôi hỏi, anh giơ bìa sách về phía tôi.
Trên bìa ghi Của chuột và người.
“Tiểu thuyết ạ?”
“Ừ, của Steinbeck.”
“Em có nghe qua.”
“Đương nhiên, tác giả nổi tiếng mà. Cậu biết đấy, tôi có đi học đàng hoàng đâu. Vào cấp ba được nửa năm, tôi nghỉ học luôn. Thế nên thầy của tôi là những tác giả này đây. Diễn đạt làm sao cho thông minh, thế giới này vận hành ra sao, làm thế nào để nhìn thấu sự thật, những điều đó tôi học từ tiểu thuyết ra cả đấy.”
“Tuyệt thật anh ạ,” tôi nói, nhưng Mizuki chỉ thờ ơ đáp lại “Chẳng biết thế nào.”
“Tiểu thuyết thực ra là những lời nói dối được thêu dệt tài tình,” anh tiếp lời. “Những chuyện hư cấu rất thuyết phục. Nhưng nếu đọc cẩn thận, ta sẽ nhận ra sự thật ẩn trong lời nói dối đó. Đọc tiểu thuyết là một cách luyện tập rất tốt, nó rèn cho con người ta con mắt nhìn đời.”
“Vậy ư?”
“Thật mà. Nếu nhìn thấu được sự thật trong lời dối trá, thì khi người ta nói cái này là sự thật đấy, mình cũng có thể nhận ra ngay có bao nhiêu phần trong đó là bốc phét. Nói tóm lại, mình sẽ trở thành con người sắc sảo. Mấy thứ này ở trường đâu có được dạy.”
“Đúng thế nhỉ,” tôi đáp. “Ở trường không dạy những điều đó thật.”
“Công nhận không? Những người này...” anh nói và giơ quyển sách lên cao. “Họ cắm mặt xuống bàn học hành đến ê ẩm cả mông, chắt lọc phần tinh tế nhất để tôi có thể nằm duỗi ra mà hưởng thụ. Nhàn hạ đến mức tôi còn thấy tội lỗi ấy.”
Ánh mắt Mizuki chợt dừng lại ở tay tôi. “Cái gì thế?” anh hỏi.
“Thư của cô ấy anh ạ.”
“Hửm,” anh nói. “Của cô bạn gái chẳng phải người yêu cậu, cũng chưa một lần hôn ấy hả?”
“Vâng,” tôi đáp.
“Cô bé thế nào? Tôi vẫn chưa hỏi nhỉ.”
Tôi lẳng lặng rút tấm ảnh từ trong ba lô ra, đi vòng qua bếp lửa và đưa cho Mizuki xem.
Ấy chính là tấm ảnh kỷ niệm ngày chúng tôi gặp nhau trước tòa tháp thép.
“Ồ,” Mizuki trầm trồ. “Cô bé được đấy chứ. Giờ tôi mà mười lăm tuổi xem, kiểu gì cũng cưa đổ.”
“Thế hả anh?”
“Ừ. Tôi tự tin vào mắt nhìn gái của bản thân phết đấy. Nếu có cô bé nào khá thế này ngóng đợi, dẫu phải bò tôi cũng quyết đến nơi cho bằng được.”
“Công nhận anh nhỉ.”
“Ừ, chứ còn sao nữa.”
“Thôi chuẩn bị ngủ đi,” Mizuki nói.
“Vâng.”
“Ngủ cho say vào. Ngày mai còn đi bộ đến phát chán luôn đấy.”
“Vâng, anh ngủ ngon.”
“Ừ, cậu cũng thế.”
Ngày hôm sau, trước khi mặt trời mọc chúng tôi đã chuẩn bị xong xuôi cho chuyến hành trình. Ông lão cho chúng tôi rất nhiều gạo và rau để mang theo. Có vẻ như lưng ông đã đỡ nhiều.
Ông tiễn chúng tôi đến tận đầu vườn.
“Mong hai cậu thượng lộ bình an,” ông nói, mắt hơi ươn ướt, nhưng có khi chỉ là gỉ mắt cũng nên. Trông ông buồn buồn.
“Ông cũng mạnh khỏe nhé,” Mizuki nói.
Đoạn anh vỗ vai tôi thúc giục “Mình đi thôi.”
Khi ấy, vợ ông lão không ra mặt. Nhưng đi được một đoạn, ngoảnh lại mới thấy bà đang nấp sau lưng chồng và nhìn theo chúng tôi.
Trông bà quả thật chẳng khác nào một bé gái. Thậm chí nhìn từ góc độ này, bộ dạng ông lão cũng tựa như một cậu thiếu niên được giao nhiệm vụ trông trẻ. Đến bộ đồ hai người mặc trông cũng khác. Cảm giác tươi sáng và ấm áp như đốm nắng mùa xuân vậy.
Bình yên quá, cứ như thể tôi vừa trải qua một giấc mơ ngập tràn hạnh phúc.
❖ ❖ ❖
Sau sự việc ngày hôm ấy, thỉnh thoảng chúng tôi lại gặp nhau dưới chân tòa tháp thép.
Hai đứa chưa một lần hứa hẹn gì. Thế nên lần nào gặp nhau cũng là tình cờ.
Tôi thầm cầu mong sẽ có thật nhiều sự tình cờ xảy đến. Không chỉ cầu mong, tôi còn bền bỉ nỗ lực vì những dịp tình cờ ấy.
Nhà chỉ có tôi và bố. Mẹ tôi mắc bệnh qua đời năm tôi sáu tuổi. Thế nên tôi chỉ còn nhớ được rất ít. Do hồi tưởng quá nhiều lần, những ký ức về mẹ trong tôi đã mất đi sắc màu nguyên bản, tựa như những bức hình sờn cũ khi được giở ra xem quá thường xuyên.
Bố tôi làm nghề sửa chữa đồng hồ. Xưởng làm của ông là một căn phòng trong khu căn hộ cũ kỹ cách nhà một quãng. Ngày nào ông cũng đi bộ đến đó. Thu nhập chẳng nhiều nhặn, nhưng ông yêu công việc này từ tận đáy lòng. Quá yêu là đằng khác.
Một khi đã bắt tay vào làm, ông sẽ vùi đầu vào đó, không còn nghĩ được tới bất kỳ điều gì khác nữa. Thế nên có nhiều hôm ông làm việc đến tận khuya. Nấu cơm tối là nhiệm vụ của tôi, nhưng chẳng mấy khi hai bố con ngồi ăn chung.
Khi trời tối, tôi lặng lẽ rời nhà và đi dạo quanh thị trấn. Ngồi vò võ một mình xem tivi trong phòng làm tôi muốn khóc quá thể. Nỗi buồn không sao chịu thấu cứ thế dâng đầy trong lồng ngực.
Thế nhưng khi chuồi mình vào màn đêm, cảm giác đó bỗng bay biến đi đâu mất.
Đêm rất dịu dàng. Không hề dồn ép con người ta như ánh sáng buổi ngày. Bóng đêm tựa như tấm chăn mềm mại, bao bọc và ủ ấm tôi.
Tôi muốn hòa hợp được như vậy với người mình yêu.
Tôi rời nhà sớm hơn một chút so với thường lệ. Trước khi trời tối hẳn, tôi bước về phía tòa tháp thép. Ngày trước không mấy khi tôi bén mảng tới khu này. Bình thường tôi hay đi dạo trên lối đi rải sỏi ven đường quốc lộ, khu dân cư nhìn y hệt nghĩa trang trong công viên hay rừng thông bao quanh viện điều dưỡng. Ra mấy chỗ đó tôi chẳng gặp ai bao giờ nên cảm giác rất tự do. Tôi thường tập huýt sáo, ném đá, hay ngồi trên bờ rào mà hát vu vơ.
Tôi chỉ gặp nàng dưới chân tòa tháp cùng lắm mỗi tuần một lần. Không phải ngày nào nàng cũng tới đây. Có ngày nàng phải tới lớp luyện thi, có ngày phải làm việc nhà vì mẹ bận công việc.
Lần nào gặp nàng, tôi cũng tỏ vẻ ngạc nhiên.
“Tình cờ quá.”
Nghe tôi nói thế, nàng cũng tử tế đáp lại, “Công nhận, tình cờ thật đấy.”
“Cậu tập hát à?”
“Ừ. Tớ tập hát.” (Đại khái chuyện đã thành ra như vậy.)
“ ‘Holdiridia’?”
“Ừ, chỗ luyến láy khó lắm.”
“Tớ biết mà. Khoản ấy tớ chịu đấy.”
“Cậu thích bài đó à?” nàng hỏi.
“Nó gắn với kỷ niệm,” tôi đáp. “Không hiểu sao mẹ tớ rất thích bài này. Ngày xưa lúc nào mẹ cũng hát. Không đúng nhạc đâu nhưng hát vui vẻ lắm.”
“Ồ, kỷ niệm nghe hay quá nhỉ.”
“Ừ.”
Mẹ nàng là y tá (nàng gọi công việc của mẹ mình như thế). Nàng đã nói tôi nghe điều đó vào ngày đầu tiên hai đứa tình cờ gặp gỡ dưới chân tháp.
Thảo nào nàng bắt mạch siêu thế, tôi thầm nghĩ.
Hoàng hôn hôm ấy cũng rất tuyệt vời. Khoảng trời phía Tây rực đỏ, nhìn phát đau.
Tôi và nàng ngồi cạnh nhau trên cỏ, lặng im ngắm hoàng hôn. Hôm đó nàng cũng mặc váy ngắn vải denim. Hai đầu gối mềm mại của nàng được nhuộm đỏ trong ráng chiều.
“Mẹ một thân một mình nuôi nấng tớ suốt, nhưng năm ngoái mẹ tái hôn,” nàng nói.
“Thế à?”
“Ừ,” nàng gật đầu. Trông nàng không vui vẻ lắm. “Mẹ kết hôn với bác sĩ cùng làm trong bệnh viện thành phố. Tớ mới nói đấy, mẹ tớ là y tá mà.”
“À,” tôi đáp. “Kết hôn với đồng nghiệp nhỉ.”
“Xong rồi,” nàng tiếp tục, “Bác sĩ chuyển công tác về bệnh viện ở đây nên mẹ con tớ cũng đi theo.”
“Cậu gọi dượng là ‘Bác sĩ’ hả?”
“Thì Bác sĩ là bác sĩ mà.”
Tôi chẳng biết đáp lại thế nào nên lẳng lặng gật đầu.
“Tớ không biết bố.”
“Tại sao?”
“Lúc nhận ra thì bố tớ đã không có ở đấy rồi.”
“Sao cậu nói thế? Nghĩa là...”
“Tớ không biết,” nàng đáp. “Tớ chưa hỏi mẹ chuyện này bao giờ.”
“Vậy à?” tôi ngạc nhiên hỏi lại. “Thật thế ư?”
“Cả hai mẹ con đều để ý nhau lắm. Nếu mẹ không tự nói, tớ nghĩ cũng không nên hỏi.”
“Cậu không muốn biết sao?” tôi hỏi.
Nàng lẳng lặng lắc đầu. “Tớ nghĩ chắc mình không biết thì tốt hơn.”
“Có thật thế không nhỉ?”
“Có lẽ,” nàng đáp.
“Người lớn không phải làm gì cũng đúng, cậu công nhận không?”
“Ừ. Người lớn cũng mắc nhiều sai lầm mà.”
“Thậm chí họ còn làm những điều xấu xa, độc ác ấy chứ...”
Hôm đó lại là một ngày khác. Nàng nói muốn mang cuộn phim mới chụp hết ra tiệm ảnh nên tôi và Hiroyuki cũng đi cùng.
Cửa tiệm nằm trên con phố mua sắm trước ga. Phố mua sắm buổi chiều muộn náo nhiệt và tràn đầy sinh khí như đêm hội. Ánh sáng lấp lánh muôn nơi, ánh đèn chói mắt phát ra từ các cửa hàng, cờ các nước phần phật trong gió, những dây đèn xanh đỏ giăng trên hàng cây ven đường... tất cả biến con phố mua sắm nhỏ thành sân khấu trong dịp hội hè nhộn nhịp.
Hiroyuki vô cùng hào hứng, mấy lần chỉ chực trèo lên cột điện. “Không được đâu,” tôi cản lại, thế là cậu ta hát ông ổng lên. Một bài hát của khu phố mua sắm.
Thôi vậy, tôi nghĩ thầm. Cậu ta đang cao hứng, mà tôi cũng chẳng khác gì.
Tôi, cô bạn gái tôi thích và cậu bạn thân cùng dạo bước trên con phố mua sắm được bao bọc trong màn đêm. Lối đi sáng bừng như trong hội chợ di động, những bài ca vui nhộn ngân nga, đó đây phảng phất mùi hương thơm phức. Tôi cũng bắt đầu muốn nhảy.
Hiroyuki nói sẽ đãi chúng tôi một bữa, nên ba đứa mua bánh vòng bọc đường ở một sạp cà phê ven đường và ăn.
Chẳng biết tại sao nhưng lúc nào Hiroyuki cũng mang rất nhiều tiền. Cậu ta nói lúc nào cũng tự mua bữa trưa và bữa tối, nên chắc tiền từ ấy mà ra. Mẹ cậu ta là kiểu người không bao giờ nấu nướng.
Tôi có gặp mẹ Hiroyuki vài lần. Bà đẹp đến ngỡ ngàng, lộng lẫy và nở nang như diễn viên nước ngoài (vòng ngực bà có lẽ cũng phải cỡ MM hay BB gì đó, đại khái phải có hai chữ cái đi liền nhau), lúc nào cũng uể oải hút thuốc lá. Bà tách biệt hẳn với đời sống bình dị. Nhiều khi tôi lấy làm lạ, chẳng biết có đúng người này đã sinh ra Hiroyuki hay không.
Ba đứa nhấm nháp bánh vòng, đứng trước một cửa hàng bán đồ điện, chăm chú nhìn vào những màn hình tivi được trưng bày sau cửa kính.
Có sáu tivi, mỗi chiếc phát một kênh khác nhau, nhưng tất cả đều chiếu chương trình tin tức. Đặc thù của khung giờ đó là vậy.
Một kênh chiếu hình ảnh chiến tranh ở nước nào đó, có cảnh một đứa trẻ khóc vì mất cha mẹ. Cuộc sống vốn đã chẳng dài lắm, thế mà nhiều người lớn cứ nóng lòng cướp đoạt cho bằng được. Cứ để kệ thế thì một lúc nào đó người ta cũng chết thôi mà. Sao ai cũng thiếu kiên nhẫn đến độ không đợi được nhỉ?
Ở màn hình ngay cạnh đó, các chính trị gia đang quát thét nhau. Chẳng hiểu sao tôi nhìn cũng thấy xấu hổ, cảm giác muốn xin lỗi hai người đứng cạnh đang xem tivi cùng mình.
Một tivi khác đang chiếu tin tức về một tổ chức lừa đảo nhắm vào người già. Màn hình ngay bên dưới phóng cận cảnh gương mặt một người chồng âm mưu đánh chìm du thuyền có vợ mình trên đó, hòng chiếm đoạt tiền bảo hiểm.
Đám người lớn hỗn loạn, phẫn uất, không kiềm chế nổi tham vọng của bản thân, không biết phải làm sao nên vật vã khổ sở.
Tôi nghĩ, có lẽ họ cố gắng chấm dứt sự dằn vặt đó bằng cách làm tổn thương một ai khác. Tham vọng khi lớn quá, chắc cũng làm con người ta mệt nhọc như khí tích tụ trong bụng vậy.
Nàng chăm chú nhìn màn hình và buột miệng nói.
“Chẳng tử tế gì cả.”
“Ừ, đúng,” tôi gật đầu. “Chẳng tử tế gì cả.” Hiroyuki đứng phía bên kia cũng hưởng ứng.
“Ừ, chẳng tử tế tẹo nào cả.”
Một khoảng thời gian sau đó, cụm từ “chẳng tử tế gì cả” đã bùng nổ giữa ba đứa chúng tôi. Nhìn lại mới thấy, thế gian chỉ toàn những chuyện không tử tế.
Tài xế ô tô nhấn còi xua người đi bộ như lùa gia súc. Ông khách trung niên mắng mỏ người phục vụ làm thêm vì những sai sót nhỏ nhặt. Đám thanh niên thản nhiên xô đẩy người già yếu bước đi chậm chạp.
“Chẳng tử tế gì cả.”
“Ừ, chẳng tử tế gì cả.”
Tôi vẫn thường tự hỏi, không biết nàng thấy thế giới bây giờ ra sao. Từ khi bắt đầu hành trình này, tôi đã được rất nhiều người đối xử tử tế. Tuyệt đối chưa có ai giở trò với tôi. Khi vấp ngã, lúc nào cũng có người chìa tay giúp đỡ. Tôi những muốn cho nàng biết điều đó.
Rằng thế giới đã trở nên dịu dàng vô cùng đấy. Có thể tận thế sắp đến rồi, nhưng vẫn đỡ hơn nhiều so với việc thế giới kết thúc mà vẫn tàn nhẫn như trước nay vốn thế phải không?
“Có gì đó sai sai,” Hiroyuki luôn nói thế. “Cái từ ban nãy không ổn.”
“Thế giới này quá nhiều từ ngữ làm tổn thương con người. Chỉ cần bỏ hết chúng nó đi là được.”
Ngôn ngữ Hiroyuki tạo ra không có những từ chửi rủa. Kể cả khi muốn nhiếc móc người khác, bản thân những từ đó ngay từ đầu đã không tồn tại rồi. Nếu phải sống ở vương quốc của cậu ta, những người xấu bụng chắc chắn sẽ khó chịu lắm.
Những người trong gia đình của dượng nàng ắt hẳn thuộc loại chẳng tử tế gì.
“Bác sĩ là người tốt. Chú ấy yêu mẹ tớ lắm.”
Bác sĩ kém mẹ nàng bốn tuổi, mới kết hôn lần đầu.
“Nhưng những người xung quanh không cho phép. Cả vì chuyện mẹ có tớ nữa. Có bao nhiêu người cơ mà, sao phải chọn cô ta? Họ rầy la như vậy đấy. Mà toàn những thành phần ưu tú cả. Dòng dõi nhà đó kiêu thế mà. Chắc Bác sĩ cũng hơi lập dị một chút chăng?”
“Mệt thật nhỉ,” tôi nói. Nàng ủ rũ gật đầu.
“Tớ thích thị trấn này,” nàng nói. “Nếu có thể, tớ muốn ở đây mãi...”
Tôi muốn động viên nàng, muốn nàng có thể vui cười cả khi ở nhà.
Nàng thích mây. Đặc biệt là mây buổi hoàng hôn. Nếu thế, chỉ cần làm sao cho nàng khi nào cũng được ngắm mây hoàng hôn là được. Nghĩ thế nên tôi bắt đầu từng bước thu gom những vật dụng cần thiết.
Về cơ bản, đó sẽ là một chiếc kính vạn hoa. Hồi tiểu học, sau khi làm kính vạn hoa ở lớp học vẽ, tôi đã hoàn toàn bị thế giới trong đó mê hoặc. Từ ngày ấy, tôi thậm chí còn tự làm vài chiếc theo ý mình.
Có lần tôi tặng một chiếc cho Hiroyuki.
Cậu ta hào hứng đến nỗi nhòm vào ống kính nguyên một tiếng, sau đó lẩm bẩm “Buồn ói quá” và nôn ra.
“Tớ lỡ bị say kính vạn hoa rồi.”
Trước nay tôi còn không biết tới khái niệm đó. Cậu bạn tôi là thiên tài có khả năng biến hóa những chuyện thông thường thành sự kiện ngàn năm có một.
Để làm kính vạn hoa cần có giấy washi. Tôi thử sang xưởng giấy gần nhà thì gần như được người ta cho không giấy washi chất lượng cực kỳ tốt. Gương lần trước tôi mua ở cửa hàng bán đồ thủy tinh vẫn còn vài tấm. Còn lại chỉ cần giấy bóng kính đỏ và bóng đèn mini nữa là xong. Những thứ này có thể mua ở hàng văn phòng phẩm cạnh trường.
Xưởng của bố có sẵn dụng cụ (bố không chỉ sửa đồng hồ mà còn làm nhiều thứ khác để gia tăng thu nhập, tỉ dụ như chao đèn, ô tô chạy hơi nước nhỏ xíu, mô hình anh lính đánh trống, hộp dát gỗ, vân vân), nên tôi được dùng ké.
Sau một hồi thử nghiệm, tôi rút ra một điều rằng nếu dán hai tấm giấy washi và giấy bóng kính đỏ lên khung làm bằng bìa các tông rồi để chúng xoay theo hai hướng khác nhau, thì có thể tái hiện chuyển động vô định, không đoán trước được của những đám mây hoàng hôn. Chỉ cần di chuyển trục quay, muốn bao nhiêu cách phối hợp cũng có. Đây quả là một cuộc hôn phối hoàn hảo giữa bộ máy đồng hồ và spirograph.
Tôi đặt công trình của mình vào một hộp bánh rỗng rộng chừng mười centimet, khoét lỗ ngắm hình tam giác rồi nhét vào đó chiếc ống nhựa lắp kính vạn hoa.
Tôi bật công tắc đèn mini bên ngoài hộp và nhìn qua ống kính. Khi xoay cán cầm bên cạnh công tắc, khung cảnh kỳ lạ mở ra trước mắt tôi chầm chậm thay đổi.
Nói thẳng ra, nhìn nó không giống hoàng hôn cho lắm. Cảm giác như khi nhìn vào bề mặt một hành tinh khổng lồ đang cháy rực lên. Nhưng cảm xúc của tôi khi ngắm nó cũng giống như khi chiêm ngưỡng hoàng hôn. Vả lại, quan trọng đương nhiên ở tấm lòng. Thế nên tôi vẫn quyết định tặng nàng chiếc kính vạn hoa này.
Tôi không thể mang nó đến trường, nên chỉ biết đợi ngày vô tình gặp nhau dưới chân tòa tháp. Sau ba ngày ròng rã cầm quà đi, cuối cùng tôi cũng gặp được nàng. “Cái gì thế?” nàng hỏi ngay.
“Máy chế tạo hoàng hôn đấy,” tôi trả lời.
“Hoàng hôn?” nàng hỏi lại, mỉm cười sung sướng rồi nói tiếp, “Thật không?”
“Thật chứ. Cậu nhìn thử không?”
“Được hả?” nàng hỏi.
“Đương nhiên rồi,” tôi đáp.
Tôi bật công tắc đèn và nâng hộp lên ngang ngực để nàng dễ nhìn hơn.
“Chỗ này nhỉ,” nàng chỉ vào ống kính.
“Đúng rồi,” tôi trả lời.
Nàng nghiêng đầu, ngón tay giữ tóc cho khỏi vướng vào mắt, đưa mặt lại gần ống kính vạn hoa. Tôi nhẹ nhàng xoay tay cầm.
“Ơ?” nàng nói. “Cái gì thế này.”
Trông nàng có vẻ ngỡ ngàng lắm.
Đỉnh đầu nàng ở ngay bên dưới tầm mắt tôi. Mái tóc đen óng rẽ sang hai bên. Ngay chính giữa lộ ra một đường da đầu xanh xao. Bất giác tôi liên tưởng tới truyền thuyết Moses tách Biển Sậy.
Một lúc sau, nàng ngẩng đầu lên nhìn tôi.
“Tuyệt quá. Yoshizawa làm đấy à?”
“Ừ,” tôi đáp. “Cậu thích không?”
Nàng gật đầu lia lịa, “Chẳng hiểu sao tớ thấy cảm động lắm, tim cứ đập thình thịch mãi thôi.”
“Vậy tớ cho cậu đấy.”
“Ơ? Nhưng mà...”
“Thực ra tớ làm tặng Shirakawa.”
“Cho tớ á?” nàng nói và áp tay lên ngực.
“Ừ. Hơi muộn xíu, nhưng đây là quà kỷ niệm dịp mình gặp nhau dưới chân tháp.”
Gương mặt nàng sáng bừng lên. Tôi nhìn mà lóa cả mắt, tim cũng đập rộn liên hồi.
“Cảm ơn cậu,” nàng nói. “Tớ vui lắm.”
Sau đó nàng lại hỏi, “Cậu biết gì không?”
“Biết gì cơ?”
“Lần nào bọn mình gặp nhau hoàng hôn cũng đẹp.”
“Thật ư?”
“Ừ. Cậu không để ý à?”
“Không.”
“Yoshizawa là chàng trai hoàng hôn à? Giống kiểu cô gái mưa ấy.”
“Chẳng biết thế nào nhỉ? Nhưng mà được vậy thì tốt quá.”
“Lúc nào cậu cũng cho tớ xem những buổi hoàng hôn tuyệt vời nhất,” nàng nói, một tay cầm kính vạn hoa, một tay chỉ lên bầu trời phía Tây.
Gương mặt nghiêng nghiêng của nàng khi nheo mắt nhìn bầu trời ánh sắc vàng làm lồng ngực tôi đau nhói. Nụ cười nàng khi ấy long lanh hơn tất cả đá quý trên đời.
Ước gì sự thật được như nàng nói. Nếu tôi là chàng trai hoàng hôn, bất cứ khi nào tôi cũng có thể làm nàng vui. Nếu một cậu trai như tôi có thể mang nụ cười mê hoặc kia đến với thế giới này, ấy hẳn là một điều thực sự tuyệt vời. Tôi run lên vì cảm động. Hoan hô chàng trai hoàng hôn.
Sau đó, chúng tôi ngồi cạnh nhau trên bãi cỏ và trò chuyện như mọi bận.
Tôi kể cho nàng nghe về những chiếc kính vạn hoa tôi làm từ trước tới nay. Tớ làm nhiều lắm. Dùng lăng kính và ống kính. Đúng rồi, có thể nhìn bằng cả hai mắt. Tớ cũng tặng Hiroyuki một cái, mà cậu ấy hào hứng quá nên nôn hết cả ra.
Nàng cất giọng cười. Cực kỳ đáng yêu. Sự đáng yêu của nàng tựa như một thứ âm nhạc dễ chịu và rất đỗi nên thơ.
“Bố tớ làm nghề sửa chữa đồng hồ,” tôi nói. “Thế nên từ nhỏ tớ đã làm và nghịch đủ thứ linh tinh rồi.”
“Nghe vui nhỉ.”
“Ừ. Cậu biết đấy, tớ là con một, mà cũng không có mẹ nữa. Thế nên chơi một mình là sở trường của tớ đấy.”
“Cậu không có mẹ sao?”
“Ừ, mẹ tớ mắc bệnh rồi qua đời. Từ hồi tớ sáu tuổi cơ.”
“Cậu có buồn không?”
“Chắc có,” tôi đáp. “Tớ không nhớ gì mấy. Cũng có thể tớ không muốn nhớ nữa, bởi tớ không thích những chuyện buồn.”
“Ừ,” nàng nhẹ nhàng đáp. “Tớ hiểu mà.”
“Nhưng chuyện vui thì tớ nhớ. Kiểu như chuyện đi picnic bên bờ sông cùng cả nhà ấy.”
“Mọi người làm gì ở đấy?”
“Chẳng làm gì cả,” tôi nói. “Chỉ đi dạo quanh quanh thôi. Cả nhà tớ đều thích đi bộ. Cứ như gia đình thời nguyên thủy ấy, nhẩn nha đi khắp mọi nơi trên hai chân. Sau đấy mọi người ăn cơm nắm, hát hò, còn ăn cả trái sơn trà nữa.”
“Nghe vui nhỉ.”
“Ừ. Vui lắm.”
Rồi nàng lại cảm ơn tôi lần nữa và nói sẽ giữ gìn kính vạn hoa thật cẩn thận.
“Không cần giữ gìn quá làm gì đâu. Cứ ngắm thật nhiều vào. Hỏng tớ lại sửa ấy mà.”
“Tớ biết rồi,” nàng đáp. “Tớ sẽ xem thật nhiều.”
“Ừ.”
“Có thợ sửa chữa ở đây thì an tâm rồi.”
“Đúng rồi. Hạn bảo hành là cả đời nhé.”
Tôi cứ nói thản nhiên như không, bỗng thấy ngượng ngùng bèn cúi đầu xuống. Nàng cũng không nói gì.
Hạn bảo hành là cả đời... tại sao tôi lại nói ra những lời như thế nhỉ? Cứ như thể cầu hôn người ta không bằng.
Có lẽ nào dù bản thân không nhận ra, nhưng lòng tôi vẫn thầm mong vậy. Rằng sẽ được ở bên nàng trọn đời. Yêu một ai đó là thế đấy. Trọn vẹn tất cả mọi thứ. Không kén chọn cái này hay cái kia. Dâng hiến cả cuộc đời mình. Tuyệt đối không nuối tiếc.
Hôm đó, bóng đêm đã bao trùm khung cảnh xung quanh, nhưng hai đứa vẫn ngồi lại. Nghe tôi kể về chuyện đi dạo trong đêm, nàng bảo, “Thế thì tớ ở đây với cậu thêm chút nữa vậy. Đằng nào về nhà tớ cũng chỉ có một mình.”
“Hôm nay mẹ tớ làm đêm,” nàng giải thích.
“Vất vả nhỉ.”
“Ừ, vất vả lắm. Mẹ tớ vốn không khỏe mạnh gì.”
“Thế à?”
“Ừ. Thỉnh thoảng bệnh nhân còn khỏe hơn mẹ nữa.”
“Kỳ cục nhỉ.”
“Công nhận. Nhưng mẹ tớ yêu công việc lắm.”
“Giống bố tớ,” tôi nói. “Bố tớ cũng thích làm việc. Say mê nữa là đằng khác.”
“Thế thì bố Yoshizawa hạnh phúc thật.”
“Đấy cũng không phải tất cả. Nhưng chắc bố khá hạnh phúc.”
“Chỉ ngần ấy thôi đã là to tát lắm rồi mà.”
“Ừ, có lẽ vậy thật.”
Khi mặt trời đã khuất bóng và xung quanh tối hẳn, những ngôi sao bắt đầu lấp lánh trên đỉnh đầu hai đứa. Đây cũng là một địa điểm rất hoàn hảo để ngắm sao. Bốn bề không một ánh đèn, bầu trời đêm mênh mông đến mức đáng sợ.
Những đám mây màu xanh xám theo cơn gió trôi ngang qua đây. Ngắm cảnh vật từ nơi này, tôi cảm giác như thể mình đã biến thành phi hành gia, từ trên cao nhìn xuống những hòn đảo nhỏ xíu. Vô vàn tia lấp lánh trước mắt tôi kia, ắt hẳn là những sinh vật phát quang lang thang dưới đáy đại dương rồi.
“Mây đêm cũng không tệ đâu,” nàng nói.
“Ừ, tớ cũng bắt đầu thấy thế.”
“Trước nay cậu không nghĩ vậy à?”
“Tớ cũng không biết. Vì có mấy khi ngắm mây đâu. Tớ thấy mình toàn nhìn xuống dưới.”
“Thế thì lần sau cậu nhìn lên trên đi.”
“Ừ, tớ sẽ làm thế. Bây giờ tớ cũng đang nhìn lên mà.”
“Khác hoàn toàn so với khi nhìn xuống đúng không?”
“Khác,” tôi đồng tình. “Chuyện đương nhiên thôi nhưng mà bầu trời cách xa thật đấy. Mặt đất thì ngay dưới chân mình. Chỉ riêng điểm đó thôi đã thấy rất khác nhau rồi.”
Nàng khe khẽ hát một bài gì đó. Có lẽ là một khúc nhạc folk xưa cũ hay gì đó.
“Gì đấy?” tôi thắc mắc.
“Hửm?” nàng hỏi lại.
“Bài cậu đang hát ấy.”
“A,” nàng đáp. “Bài hát của người con gái nghĩ về người yêu nơi phương xa mà rơi nước mắt ấy mà.”
“Cậu cũng hát nhỉ,” tôi nói.
“Đương nhiên rồi,” nàng lắc đầu tinh nghịch. “Tớ thích hát lắm.”
“Tớ không biết đấy.”
“Thật hả?”
“Ừ, lần đầu nghe cậu nói vậy luôn.”
“Kỳ lạ nhỉ,” nàng nói. “Tớ cảm giác như bọn mình làm bạn lâu lắm rồi vậy.”
Tôi và nàng không nói với bất kỳ ai, nên đám bạn cùng lớp không biết chuyện hai đứa gặp nhau ngoài trường học. Nàng chẳng kể gì với hội bạn thân. Bởi thế khoảng thời gian chúng tôi ở bên nhau trở nên thiêng liêng vô cùng, tựa như tinh thể băng trong suốt không lẫn chút tạp chất nào vậy.
Bởi những điều quan trọng chúng ta thường không khoe khoang với ai, trái lại phải âm thầm gìn giữ.