Chương 1 (tt) Ngày ấy và bây giờ
Khi tôi bị bạn cùng lớp gây bao phiên hà, nàng đều xoa dịu tôi bằng sự dịu dàng của một người chị.
Chủ nghĩa hòa bình quá độ của tôi cộng với sự tử tế của nàng càng làm dấy lên sự hiếu chiến của những người xung quanh. Đối với họ, sự tồn tại của hai đứa tôi có lẽ chỉ như một bữa ăn trưa. Chắc họ cảm thấy mình đặc biệt khi dằn vặt tinh thần những người sẽ không bao giờ đáp trả chăng? Những người từ khi sinh ra đã không biết phản kháng lúc nào cũng là đối tượng tiêu khiển của kẻ khác.
Tôi bị đám bạn thô lỗ thiển cận cùng lớp đặt cho biệt danh “Ngài Địa Tạng”. Không phải vì tôi đeo yếm đỏ, mà bởi dù có bị làm gì tôi cũng chẳng phản kháng, lúc nào cũng chỉ mỉm cười, bộ dạng y hệt ngài Địa Tạng.
Có lần nàng hỏi tôi, “Tại sao bị đối xử đến thế mà cậu vẫn cười cho được?”
“Tớ cũng không biết,” tôi đáp. “Từ bé tớ đã thế rồi.”
“Hừm,” nàng nói “Thế à.”
Thực ra có lý do đàng hoàng, nhưng chẳng hiểu sao tôi không nói với nàng được. Có lẽ tôi xấu hổ. Hồi đó tôi vẫn ở cái tuổi dễ ngại mà.
Tôi không hề có khái niệm nhất quyết không chống trả lại. Thậm chí còn chẳng nghĩ đến chuyện đó bao giờ. Chắc những tình huống kiểu đó nằm ngoài phạm vi xử lý của trí não tôi chăng? Khả năng ứng biến cơ bản của tôi ắt sẽ hoạt động tốt hơn trong một môi trường hơi khác. Một môi trường không tồn tại những con người hiếu chiến. Quả là một sai lầm tệ hại trong quá trình đóng gói sản phẩm.
Bởi thế tôi mới bối rối. Những kẻ sung sướng khi nhìn thấy người khác đau khổ chắc đều có vấn đề. Có lẽ họ đang nhầm lẫn gì đó cũng nên.
Nhưng phải chăng tôi mới là người có vấn đề khi suy nghĩ như thế? (Trong cái thế giới này thì vậy đấy.) Đến giáo viên môn Giáo dục công dân còn nói chính tôi là người có lỗi khi không chống trả lại. Phải phản kháng mạnh mẽ vào. Có thế thì chúng nó mới thôi không xuống tay với mình nữa.
Cách nói của thầy làm tôi liên tưởng đến giáo viên Thể dục. Ăn miếng trả miếng. Phải biết cách ngăn chặn kẻ khác.
Nhưng chúng ta không được cấu thành để trở nên như vậy. Chúng ta không được sinh ra để mang nắm đấm đi tấn công người khác. Bàn tay này là để vỗ về tấm lưng những người quan trọng, để ăn những món ngon và để nấu những món ngon.
Khi ấy (chắc khoảng tầm cuối tháng Mười, trong giờ tự học tiếng Anh hoặc môn gì đó), một cậu học sinh trong lớp dùng bút đánh dấu viết bậy lên chiếc cặp bằng vải bạt màu trắng của tôi, toàn mấy từ tục tĩu mà đám nam sinh cấp hai hồi đó ưa chuộng. Mấy đứa bạn học khác để ý thấy và hùa theo. Trong nháy mắt, chúng giật phăng chiếc cặp và liên tục chuyền tay nhau. Tôi cố lấy lại nhưng chúng biến tôi thành trò hề bằng những đường chuyền điêu luyện như một đội bóng rổ với sức mạnh tập thể vô đối.
Tôi tự vấp vào chân mình, đập mặt xuống góc bàn, chảy cả máu mũi. Lượng máu phun ra cũng tương đối nhiều. Cực chẳng đã tôi bỏ lại chiếc cặp bị đám bạn học tự ý trang trí, cứ thế lao ra khỏi lớp đến phòng y tế.
Cô giáo trẻ măng ở phòng y tế nhìn mặt tôi, ngạc nhiên hỏi, “Em làm sao đấy?”
“Em ngã ạ,” tôi trả lời.
“Em làm gì thế? Đang trong giờ học cơ mà?”
“Dạ. À không phải. Lớp em đang giờ tự học ạ.”
“Ai đẩy em ngã à?”
“Không ạ,” tôi đáp. “Em sơ ý trượt chân thôi ạ.”
“Ừ,” cô giáo nói. “Cũng khéo phết đấy chứ nhỉ.”
“Không đâu ạ,” tôi trả lời. Một lúc sau tôi nhận ra cô nói đùa, nhưng đã quá muộn mất rồi (đây cũng là một trong những lý do khiến mọi người nghĩ tôi ngốc hơn thực tế).
Cô giáo đút bông gòn vào lỗ mũi tôi, lau máu trên má tôi bằng băng gạc rồi dính miếng dán chống viêm lên đó.
Cô dặn tôi nằm nghỉ đến khi ngừng chảy máu cam. Tôi cởi dép đi trong nhà ra và nằm ngửa trên giường. Lỗ mũi không bịt bông gòn cũng bị nghẹt nên rất khó chịu. Tôi nhìn lên trần nhà, há hốc mồm như con cá trên cạn, hít thở sâu mấy lần cho đến khi bớt nghẹt thở.
Cặp của mình không biết sao rồi nhỉ? Tôi thầm nghĩ. Nhà tôi chẳng có điều kiện, nên không thể mua chiếc mới đơn giản thế được. Gương mặt bối rối của bố hiện ra trước mắt tôi.
Đến giờ nghỉ, ai đó mở cửa bước vào phòng y tế. Nghe cô giáo nói “Bạn ấy đang ngủ trên giường ấy”, người đó kéo rèm ra và bắt chuyện với tôi.
“Cậu có sao không?”
Là nàng.
“Ừ, tớ ổn” tôi đáp.
“Nhưng nhìn có vẻ đau nhỉ,” nàng chỉ vào má tôi.
“Không sao thật mà. Đừng làm quá.”
“Thế ấy hả?” nàng khẽ cười, trao cho tôi chiếc cặp nàng giấu sau lưng.
“Kazuki lấy lại đấy. Nhưng mà lúc đó cái cặp nó đã...”
“Thế à,” tôi nói. “Cảm ơn cậu...”
Chiếc cặp lem luốc những dòng chữ đỏ, đen, vàng viết bằng bút dạ quang. Nhìn như một tuyển tập những dòng viết tay thô thiển nhất có thể.
Với cả, nàng cất giọng, tớ mới xin giáo viên Công nghệ ít xăng.”
“Cảm ơn cậu,” tôi nói. “Lát tớ sẽ thử.”
Tiết sau tôi trốn học lên sân thượng ngồi, bởi ngoại trừ sân thượng tôi chẳng nghĩ ra nơi nào vừa không ai nhòm ngó lại vừa thông thoáng thế cả. Nhưng thật không ngờ nàng lại nói muốn đi cùng tôi. Khác với hạng chuyên gia bùng học như tôi, bình thường nàng chẳng bao giờ làm mấy chuyện như thế.
“Tớ đi một mình cũng được mà,” tôi nói nhưng nàng lắc đầu nguầy nguậy.
“Tớ không muốn quay lại lớp.”
“Tại sao?”
“Không thích. Tớ muốn tránh mặt lũ người đó một lúc.”
“Thế à?”
“Ừ.”
“Tớ hiểu rồi,” tôi đáp. “Vậy mình cùng đi.”
Sân thượng đương nhiên không một bóng người. Hai đứa chọn một nơi quay lưng lại với khuôn viên trường, khuất tầm mắt hết mức rồi ngồi xuống.
Tôi thấm xăng vào miếng vải nàng mang từ lớp Công nghệ tới, rồi đập liên tục lên mặt trước cặp.
Cảm giác không tệ lắm. Những lời thóa mạ sỗ sàng nhạt dần đi, tuy chỉ được một chút.
“Ừ, cũng được đấy.” Nghe tôi nói, nàng mừng rỡ. “Cứ đà này chắc cũng ổn thôi.”
Từ lúc đó, tôi tập trung vào việc này một hồi lâu.
Tôi cảm giác ấy là một hành động rất mang tính biểu tượng.
Ngày trước tôi đọc sách có câu thế này, ngôn từ có năng lực siêu nhiên, có thể tác động mạnh mẽ lên tâm hồn và thể xác của con người. Những lời ngợi khen, động viên, an ủi sẽ giúp chúng ta trưởng thành, phát huy được thế mạnh. Còn những lời khinh miệt, chửi rủa, gièm pha ngược lại sẽ từng chút một làm ta hư hại. Ngôn từ, ngôn từ, ngôn từ... có lẽ là vũ khí lợi hại nhất trong lịch sử loài người cũng nên.
Bởi thế, khi xóa bỏ những lời ác ý, tôi đang giải phóng bản thân khỏi thứ sức mạnh siêu nhiên kia.
Nhưng hình như tôi cố hơi quá thì phải.
Trong lúc tôi tập trung tẩy chữ trên cặp, lồng ngực tôi cảm giác rất khó chịu. Đáng lẽ không được há hốc miệng khi không thở được bằng mũi cũng nên.
“Tớ thấy mệt quá,” tôi nói với nàng.
Nàng ngạc nhiên nhìn tôi và thảng thốt.
“Cậu làm sao thế? Mặt cậu trắng bệch ra rồi kìa!”
Tôi ngừng lau cặp (chữ trên vải đã nhạt màu đi đáng kể. Chắc ngày mai lại dùng được bình thường) và nghỉ ngơi một lát.
Nàng nói “Không sao đâu” và cho tôi gối đầu lên đùi nàng. Tôi không còn sức mà khách sáo nữa.
Gáy tôi lọt giữa hai đùi nàng.
Cảm giác thật kỳ lạ. Cứ như thể ngay từ đầu nơi này đã được tạo ra cho mục đích ấy vậy. Người ta hay nói người với người khớp nhau như hai chiếc thìa, nhưng không biết trong trường hợp này phải nói thế nào? Chắc phải có vài phép so sánh cho một cặp nam nữ ghép vào nhau vừa in khin khít như một trò chơi xếp hình phức tạp chứ nhỉ?
Hơi ấm của nàng truyền sang tôi qua lớp váy đồng phục, cảm giác rất dễ chịu.
“Cậu sao không?” nàng hỏi. Tôi nhắm mắt nhưng vẫn cảm nhận được khuôn mặt nàng đang cúi xuống.
Tôi hấp háy mở mắt nhìn nàng. Khoảng cách giữa hai đứa hơi gần quá. Lông mi nàng hóa ra cong thế này ư, tôi thầm nghĩ.
“Tớ ổn,” tôi trả lời và hơi gượng cười.
“Nhìn cậu chẳng ổn tí nào cả,” nàng buông lời nhận xét.
“Ừ,” tôi đáp. “Sự thật là vậy mà.”
“Thấy chưa? Cậu cứ nằm thế một lúc đi.”
“Ừ... cảm ơn cậu.”
Nàng nhẹ nhàng vuốt ve trán tôi bằng những ngón tay mảnh dẻ. Ngón tay nàng lạnh.
Hơi ấm từ đùi nàng, giọng nói dịu dàng, mùi hương ngọt ngào phảng phất (nàng tỏa mùi sữa). Tất cả những điều ấy làm tôi vui sướng tột đỉnh. Thậm chí tôi còn cho rằng đó là ý nghĩa sự tồn tại của bản thân, là niềm hạnh phúc đích thực.
Tôi thầm cảm ơn lũ bạn cùng lớp vì đã tạo nên cơ duyên này. Kazuki mà biết chắc sẽ cay cú đến phát điên lên mất. Không chừng tôi còn bị ăn đấm. Nhưng cũng chẳng sao. Vì giây phút này đây, dù có chuyện gì xảy ra đi chăng nữa tôi cũng sẽ cắn răng chịu đựng.
Nói đúng ra, sống là phải như vậy mà. Mọi người vẫn hát suốt đấy thôi, tình yêu là tất cả, nó đẩy tâm hồn ta lên cao theo nguyên lý đòn bẩy. Vài ngàn chướng ngại cũng chẳng sá gì, chỉ cần một ai đó nói rằng “Em có anh là đủ”, ta có thể dũng cảm ngẩng cao đầu mà bước đi ngược chiều gió.
Với tôi, người đó chính là...
“Ừ?” Nàng hỏi. “Gì thế? Cậu vừa nói gì thế?” “Không,” tôi đáp. “Không, tớ có nói gì đâu.”
❖ ❖ ❖
Tôi quyết định đi với Mizuki một đoạn đường. Anh rất đáng tin cậy, chúng tôi lại gần như đi cùng một hướng. Chỗ nàng đang ở xa hơn thị trấn quê anh nhiều nên chỉ có thể đi cùng anh một quãng đường đó thôi, nhưng kể cả thế tôi vẫn cảm thấy rất an lòng.
Sức lực có vẻ cạn nhanh hơn tôi tưởng. Tôi vốn không mạnh mẽ gì. Ngược lại, tôi là kiểu sẽ làm vướng chân vướng tay người khác trong những hoàn cảnh thử thách sức mạnh và lòng can đảm. Thế giới kết thúc là việc vượt xa khả năng xoay xở của tôi. Quá xa. Tôi hoàn toàn mất phương hướng, chẳng biết đối phó ra sao, thế nên tôi không nghĩ quá nhiều về điều đó.
Quan trọng là phải tóm gọn mọi vấn đề về một mối duy nhất. Dù có chuyện gì tôi cũng phải gặp nàng cho bằng được. Những thứ khác tạm thời gác lại một bên. Nếu vậy, tôi dù ngốc nghếch cũng biết được bản thân phải làm gì.
Tôi muốn tới chỗ nàng càng sớm càng tốt. Nhưng điều đó không có nghĩa tôi nên dấn bước mù quáng. Nếu vội vã rồi lơ là cảnh giác, tôi sẽ dùng cạn quỹ thời gian của mình trước khi tới được bên nàng (như hôm qua vậy).
Một vấn đề đáng lo ngại khác, ấy là nên tránh các thị trấn đóng băng ra hay cứ thế đi xuyên qua chúng? Hình như Mizuki cũng nghĩ về điều đó suốt.
“Từ những nguồn tôi tìm hiểu được thì tầm một tiếng chắc không vấn đề gì. Tôi gặp vài người tha thẩn trong đó chừng ấy thời gian rồi quay trở ra rồi. Nhưng nếu đi xuyên qua thị trấn thì...”
“Không biết chuyện gì sẽ xảy ra ạ?”
“Ừ. Đây là một canh bạc đấy. Nếu dấn càng sâu mà thị trấn mỗi lúc một đóng băng thêm, chúng ta sẽ tiêu sạch chỗ phỉnh trong túi mất. Sẽ chỉ tăng thêm hai pho tượng nhạt nhẽo mà thôi.”
“Thế là phải đi vòng hả anh?”
“Ừ. Ít nhất tỷ lệ chạm đích của anh em mình sẽ cao hơn. Kể cả có chậm trễ thì cũng được chút an ủi.”
“Chị Eriko thì sao?” tôi hỏi anh. “Chị ấy có biết anh đang đến không?”
“Sao biết được. Lần gọi cuối cùng hai đứa cãi nhau rồi đường ai nấy đi luôn mà. Biết được thế giới sắp kết thúc, tôi mới rối rít liên lạc lại nhưng không được. Mà kể ra, đời lúc nào chẳng thế. Biết làm sao đây. Giờ việc tôi có thể làm chỉ vỏn vẹn mấy điều, đến chỗ nàng và xin lỗi. Nói anh sai rồi. Dù chẳng biết nàng có tha thứ cho không...”
Hai chúng tôi băng qua một vùng đất canh tác rộng mênh mông. Nơi này giống như một vùng lòng chảo vây quanh là những rặng núi thấp. Ngọn núi phía bên phải chúng tôi đang hướng về phía Bắc, nên ngọn núi đó ở phía Đông - đã bị nhuộm xanh. Quay lại đằng sau, ngọn đồi có ngôi làng hai anh em mới ngủ lại đêm qua chẳng biết tự bao giờ đã bị bao trùm trong ánh sáng xanh nhàn nhạt (thế nhưng chúng tôi không để ý. Khung cảnh ánh sáng rọi xuống trần gian lúc nào cũng kỳ diệu đến mức làm lông toàn thân dựng đứng lên, nhưng bởi không có dấu hiệu báo trước nên nhiều khi ta bỏ lỡ mất).
Chúng tôi vẫn nhác thấy nhà dân chỗ nọ chỗ kia, nhưng không cảm nhận được hơi người.
Không biết còn bao nhiêu người sót lại? Hồi tôi mới lên đường, ở thị trấn nào cũng thấy bóng dáng dân cư. Xe hơi vẫn chạy, có khi còn gặp những nhóm người rất đông cùng nhau đi lánh nạn. Nhưng dần dà, số người tôi gặp ngày một ít đi, ngược lại những vùng đất bị nhuộm xanh mỗi lúc một nhiều thêm.
Các khu vực đô thị hầu hết đã bị nhuộm xanh. Chỗ nào cũng vắng tanh vắng ngắt (nhưng không biết chừng vẫn có nhiều người nín thở sống qua ngày nơi đây). Nông thôn và vùng núi trông có vẻ khá hơn nhiều... tạm thời là vậy.
Nơi nàng sống là một ngôi làng làm nông điển hình. Dân số chắc khoảng nghìn người? Hay hai nghìn nhỉ? Cửa hàng tiện lợi còn chẳng có. Nàng đi xe máy bốn mươi phút từ nhà sang thị trấn bên cạnh để đi làm ở siêu thị. Công việc của nàng là bấm máy tính tiền.
Tôi thử hỏi Mizuki thì biết được thị trấn nơi chị Eriko đang ở lớn hơn ngôi làng kia nhiều. Dân số đâu chừng ba mươi nghìn người. Nếu quy luật kia chính xác thì khả năng cao nơi đó đã bị nhuộm xanh rồi.
Mizuki cũng nhận thức rõ điều đó.
“Nhưng không đi thì chẳng biết được. Mà có khi nàng đã rời thị trấn rồi...”
“Dù sao thì,” anh nói. “Tôi cũng chỉ có thể tiến về phía trước. Thị trấn còn có bố mẹ tôi nữa kia mà. Gì thì gì cũng phải về thôi.”
Hai anh em tiếp tục đi. Lương thực đã cạn kiệt nên chúng tôi đói ngấu, nhưng không thể dừng chân lại được. Mizuki mấy hôm nay không ăn gì ngoài gạo bơ và mấy thanh sô cô la.
“Tôi mua dự trữ ở một cửa hàng tiện lợi lúc đó vẫn còn mở. Đấy là lần cuối. Về sau chẳng còn thấy cửa hàng nào cả.
“Em cũng thế. Tại toàn đi đường núi. Lúc đầu còn chạy xe đạp nhưng sau đấy không đi nổi nữa.”
“Tôi cũng chẳng khác gì. Nhưng chính thế lại là khôn ngoan đấy. Dục tốc bất đạt.”
“Tôi cứ nghĩ mãi,” anh tiếp lời.
“Kỳ lạ ở chỗ, tôi thấy chuyện này tương tự như việc lùa cừu ấy. Phải nói khá thông minh. Ban đầu quây đàn lớn trước, sau đó dần dần nới rộng ra các đàn nhỏ hơn. Cậu có nghĩ điều đó khá lạ lùng không?”
“Ý anh là,” tôi nói. “Có người đứng đằng sau tất cả mọi chuyện này ư?”
“Chịu thôi,” Mizuki lắc đầu. “Nhưng nếu thế biết đâu chúng ta lại có cách đối phó?”
“Đối phó?”
“Thị trấn không người ở chắc cũng an toàn ngang ngửa vùng núi ấy.”
“Bạn gái cậu,” anh nói tiếp. “Kể với cậu rằng bây giờ chỉ có em ấy và mẹ bị bỏ lại thôi đúng không? Có khi ấy lại là lựa chọn đúng đắn đấy.”
“Vì nếu thị trấn không có ai thì sẽ lâu bị nhuộm xanh hơn?”
“Đúng thế. Ngay từ đầu nơi đó đã chẳng phải thị trấn trọng điểm gì. Nếu giờ không có người, chẳng phải khả năng cao nó sẽ được dời xuống cuối danh sách sao?”
Nghe tôi nói cảm ơn, Mizuki nhìn tôi với con mắt hơi lờ đờ và hỏi lại, “Vì cái gì cơ?”
“Anh mới tiếp thêm cho em rất nhiều dũng khí đấy,” tôi trả lời. “Thực ra em cũng bi quan lắm.”
Mizuki gật đầu ra chiều chán chường.
“Cậu đừng nói vậy. Tôi không phải người như thế đâu. Nghe thế khó chịu lắm.”
“Nhưng anh Mizuki là người tốt mà.”
“Ha”, tiếng anh bật ra nghe như giọng cười mỉa.
“Tôi chỉ là thằng du côn thôi,” anh nói. “Nhưng nếu trông tôi có chút gì tử tế thì chắc là do bầu không khí của thế giới này.”
“Cậu nhìn xem,” anh nói tiếp. “Cả hành tinh bị bao trùm trong màn mây dày đặc, đã vậy còn có thứ ánh sáng bí ẩn rọi xuống mặt đất. Bất kể ai bị nó chiếu vào cũng tái xanh cả người lại, đến giọng nói cũng chẳng còn. Đến nước này rồi mà còn bủn xỉn thì còn ra cái thể thống gì nữa?”
Anh xua tay trước mặt như đang đuổi con bọ vừa bay tới.
“Ai cũng rộng lượng hơn. Bởi ngày mai đầu biết sẽ thế nào. Tất cả đều như nhau cả. Ai rồi cũng biến thành những pho tượng xanh xao với gương mặt hạnh phúc như thể đang giả ngây giả ngốc.”
Khi Mizuki không nhìn tôi nữa, anh thốt ra những lời đó như thể đang độc thoại.
Có lẽ mọi chuyện đúng như anh ấy nói.
Thế giới bây giờ rất dịu dàng. Yên bình một cách kỳ lạ và tử tế vô biên. Mọi người đều yêu thương một ai đó. Cả tôi và anh Mizuki đều đang gắng hết sức mình để thành thật với tình yêu của chính bản thân.
Dù đã muộn nhưng chắc hẳn tất cả đều đã nhận ra... rằng thời gian còn lại cho chúng ta chẳng nhiều nhặn gì.
Chẳng còn thời gian để tiếc nuối nữa. Khi ta bất đồng, ghét bỏ và đong đếm chi li, thời gian vẫn cứ từ từ trôi qua thôi.
Nếu đời người là một cuốn sách, tôi những muốn lấp kín các trang bằng những câu chữ đong đầy tình yêu thương. Tôi không muốn giở từ trang nọ sang trang kia mà chỉ thấy không có gì ngoài những lời phỉ báng nhiếc móc. Thế nên có lẽ khi biết câu chuyện của mình sớm muộn gì cũng kết thúc, tất cả đều nghiêm túc suy ngẫm.
Ít nhất cũng phải có một cái kết đẹp. Phải chấm dứt mọi thứ với một nụ cười...
Chắc hẳn là như vậy rồi.
❖ ❖ ❖
Khi tiết trời đã ngả hẳn sang thu và không khí mát mẻ lên nhiều, một chút tình cờ đã đưa đẩy chúng tôi xích lại gần nhau hơn ở bên ngoài trường học.
Hôm đó là ngày tôi đến lớp học vẽ. Tôi đi học đã được hơn năm năm, mỗi tuần một buổi.
So với tình hình kinh tế chẳng mấy khá giả (nói đúng hơn là túng thiếu) của gia đình tôi, đi học vẽ là một điều khá xa xỉ. Dù vậy bố vẫn cho phép tôi.
Tôi có một đứa bạn thân trong lớp vẽ. Cậu ta bằng tuổi, đi học cùng lúc với tôi. Hai nhà cách nhau không xa lắm, nhưng ở giữa có một con mương, đồng thời là đường ranh giới giữa hai khu trường học nên chúng tôi không học cùng trường.
Cậu ta tên Hiroyuki. Ở con người này toát ra một vẻ khác thường, tôi thấy điều đó rất có sức hấp dẫn, nhưng mọi người xung quanh hình như không nghĩ vậy.
Tóc cậu ta xoăn như thể uốn lô, đã vậy còn nuôi dài ra bao nhiêu tùy thích nên đầu cậu ta trông phồng hơn nhiều so với người bình thường. Không những thế, cậu ta cũng gầy bằng... mà có khi còn hơn tôi nữa. Chẳng biết có phải vì không đủ cơ bắp để nâng đỡ cơ thể hay không mà lúc nào người cậu ta cũng xô vẹo, trông rất kỳ cục.
Hiroyuki từ nhỏ đã hay gặp ác mộng. Có lẽ vì thế mà học đến năm lớp chín rồi cậu ta vẫn còn tè dầm.
Có một hôm, cậu ta kể với tôi. “Hôm qua tớ mơ thấy Yuu đấy.”
“Ồ, mơ thế nào cơ?”
“Ừm, lúc ấy bọn mình đang ở một chỗ giống kiểu sân trường và gọi điện thoại.”
“Điện thoại trong sân trường á?”
“Ừ, có đấy. Có buồng điện thoại trông giống cabin chứa thiết bị đo đạc thời tiết ấy. Trong đó có đặt một chiếc điện thoại màu hồng.”
“Ừ, rồi sao nữa?”
“Yuu nói số cho tớ. 223 hay 233 gì đó, đại khái thế.”
Cả hai đều là số nguyên tố, nhưng tôi không nhận xét gì về chuyện đó (tôi nhớ tất cả các số nguyên tố đến một nghìn). “Số điện thoại ba chữ số hả?” Nghe tôi hỏi, Hiroyuki gật đầu.
“Gọi khẩn cấp nên ba chữ số cũng được rồi.”
“Thế xong sao?”
“Khi liên lạc được rồi, từ đầu dây bên kia vọng ra tiếng nhạc nghe rất hay. Kiểu như nhạc trong nhà thờ ẩy. Lúc tớ cho cậu nghe, cậu cứ ừm ừm rói gật gù nữa chứ.”
“Tớ á?”
“Ừ. Cậu nói đây là bản nhạc thông báo cho chúng ta biết về sự hòa hợp của thế giới.”
“Hê, tớ ngầu phết nhỉ.”
“Ừ, kiểu rất thông thái ấy.”
“Nhưng mà,” cậu ta tiếp lời. “Khi tớ áp lại ống nghe vào tai thì bản nhạc du dương đó dần chuyển thành những âm thanh rất chói tai. Giống như tiếng đàn violin của người nghiệp dư, hay tiếng đại phong cầm phát ra khi bị hỏng ấy.
“Nghĩ lại mà rùng mình,” Hiroyuki nói. “Tớ rối rít đưa ống nghe cho Yuu, mặt cậu biến sắc rõ ràng luôn.”
“Tại sao?”
“Bởi đó là âm thanh báo hiệu hổi kết của thế giới. Cậu nói thế đấy.”
“Hả? Thế số điện thoại đó chắc là một dạng đường dây nóng của Chúa?”
“Chẳng phải vậy sao? Mà nhé, lúc bọn mình đang nghe điện thoại, mây đen ùn ùn kéo đến bao trùm cả bầu trời, cảm giác như tận thế thật. Tớ kinh hồn bạt vía són tiểu ngay tại trận. Quả nhiên tớ tè dầm thật. Chán mấy chuyện kiểu này lắm luôn rồi đấy.”
Tôi chỉ im lặng gật đầu. Bản thân tôi cũng hiểu rõ sự trống rỗng ấy.
Hiroyuki đã từng đoán trúng ngày mất của ông bác trong họ và mấy ông bà già hàng xóm, đến người lớn xung quanh cũng phải thấy rợn người. Không biết chừng cậu ta đoán trước được tương lai thật cũng nên.
Sau giờ học vẽ, Hiroyuki bắt chuyện với tôi.
“Tớ có chỗ này muốn đi, cậu đi cùng không?”
“Ừ được. Chỗ nào đấy?”
“Cậu biết tòa tháp thép to đùng ở đoạn đường trồng cây ven sông không?”
“Ừ, biết. Từ xa cũng trông thấy mà.”
“Tớ muốn lên cái tháp đó,” Hiroyuki nói.
“Cái tháp đó ấy hả!?”
Tôi ngạc nhiên, buột miệng thốt lên rõ to.
“Nó cao lắm đấy. Leo lên làm gì?”
“Tớ muốn vẽ khung cảnh ở đó. Vẽ thế giới chỉ chim mới nhìn thấy ấy.”
À, tôi thầm thì. Nghe giống ý tưởng của Hiroyuki thật. Cậu ta vẽ giỏi hơn tôi nhiều, mà lại có năng khiếu đặc biệt, cảnh chỉ ngắm một lần cũng không bao giờ quên. Nếu là cậu ấy chắc chắn sẽ vẽ ra được những bức tranh tuyệt tác.
“Tớ hiểu rồi,” tôi nói. “Tớ sẽ đi cùng cậu.”
Hiroyuki muốn giao cho tôi việc đứng gác. Đương nhiên leo tháp là hành vi trái phép, mà kể cả không phải thế, người lớn nếu thấy trẻ con trèo lên đó đương nhiên sẽ không để yên. Tôi có nhiệm vụ thông báo cho Hiroyuki khi có người đến gần.
Hai đứa đi dọc con đường trồng cây ven sông, khi đến tòa tháp thì đã quá năm giờ chiều. Chỉ ba mươi phút nữa mặt trời sẽ lặn.
Bao quanh tòa tháp là một hàng rào, bên trên có dây thép gai xoắn vào nhau. Hiroyuki vắt tấm chăn cậu ta mang theo qua chỗ dây thép đó rồi chậm chạp bò lên hàng rào. Cậu ta gần như không có cái gọi là khả năng vận động.
Tôi rút lại cái chăn rồi ném ba lô cho Hiroyuki, giờ đang đứng phía bên kia hàng rào.
Một cuộn gì đó to bự thò ra khỏi chiếc ba lô. Trải ra mới biết đó là một tấm vải màu xám, trùm kín cả người Hiroyuki. Cậu ta quàng nó lên vai như chiếc áo choàng, buộc hai sợi dây ở ống quần gọn ghẽ quanh cổ chân, đoạn rút từ trong ba lô ra một chiếc mũ len xám và đội nó lên đầu. Nhìn như thể đầu cậu ta bỗng dưng teo lại vậy.
“Tớ đi đây.”
Hiroyuki nói và bắt đầu trèo lên chiếc thang bên tường tháp.
Từ dưới nhìn lên, tòa tháp cao đến mức không tưởng tượng được. Chắc phải ba mươi mét chứ không ít. Dây điện cũng không thể mắc cao đến thế. Không thấy bảng giới thiệu, thành ra tôi cũng chẳng biết người ta xây tòa tháp này để làm gì. Tôi mắc chứng sợ độ cao nên chỉ đứng dưới nhìn cậu bạn leo tháp thôi mà phần thân dưới đã nhấp nhổm không yên rồi.
Xung quanh là một vùng đồng ruộng mênh mông, từ đây có thể phóng tầm mắt ra khá xa. Một chiếc máy kéo ì ạch chạy sang phía bên kia cánh đồng như đang bò, thoáng bóng dáng vài người đi dọc con đường bên rặng cây chống gió, nhưng ai cũng di chuyển theo hướng ngược với tòa tháp.
Đàn chim sải cánh bay trên nền trời ửng đỏ. Tôi cố tìm một vệt mây máy bay nhưng không tài nào nhìn thấy.
Hiroyuki đã leo đến hai phần ba chiếc thang.
‘‘Cậu không sao chứ?” tôi nói với lên. “Đỉnh lắm!” cậu ta đáp.
Những đám mây màu cam lững lờ trôi trên đỉnh đầu Hiroyuki. Chăm chú ngắm một hồi, tôi cảm giác như thể mình đang chiêm ngưỡng vòng quay của trái đất vậy. Vầng trăng khuyết chẳng biết xuất hiện từ khi nào bỗng trở nên chân thực một cách kỳ lạ, nhìn chẳng giống mặt trăng nữa, mà có vẻ gì nhang nhác một vệ tinh riêng biệt quay xung quanh một hành tinh khác.
Khi hướng ánh nhìn xuống mặt đất, tôi thấy bóng ai đó đang tiến lại gần từ phía xa xa con đường trồng cây. Tôi cuống quýt phát tín hiệu đã được định sẵn cho Hiroyuki. Tín hiệu ở đây là một bài hát. Tôi cất giọng hát thật to khúc nhạc yêu thích - Holdiridia.
Ngày xuân tươi đẹp, Holdiridia, Holdiridia
Mây trắng bay, Holdiridia, Holdiridia
Tôi vừa hát vừa ngẩng đầu lên. Cậu bạn tôi ngay lập tức rụt cổ vào trong chiếc áo choàng như con rùa. Hiroyuki đã giấu hẳn mình sau hình chữ nhật màu xám. Không sao nhìn ra được trên tháp có người.
Vì đã hẹn trước phải hát cho đến khi mọi thứ ổn thỏa, tôi tiếp tục cất cao giọng hát.
Khi cổ họng tôi bắt đầu đau rát vì hát khá lâu, bóng người đó cuối cùng cũng tiến gần tới tòa tháp. Nhìn một cái, tôi phát hiện ra ngay ấy là cô bạn tôi biết rất rõ. Hôm nay nàng không đeo kính.
“Yoshizawa, cậu làm gì thế?”
“Shirakawa?”
Đến tôi cũng phải công nhận giọng mình nghe khá giống thằng ngốc.
Nàng rời đường lớn, tiến lại gần bụi cây tôi đang đứng. Nàng mặc váy ngắn vải denim và áo có mũ màu hồng. Đây là lần đầu tiên tôi thấy nàng trong một bộ đồ không phải đồng phục. Chân nàng mảnh khảnh. Hai bắp vế trắng trẻo lấp ló trong làn gió nom thật xinh xắn, làm tôi không tài nào bình tĩnh cho được.
“Cậu tập hát à?” nàng hỏi.
“Ừ.”
Tôi cảm nhận được mặt mình đang đỏ lựng lên. Nhưng có lẽ nàng không nhận ra, bởi ráng chiều đã nhuộm đỏ mọi thứ. Đến mặt nàng cũng đỏ.
Tôi nói với cậu bạn đang ở trên tháp
“Người này không vấn đề gì đâu!”
“Được rồi,” tiếng Hiroyuki đáp khẽ vọng lại từ trên cao. Nàng ngạc nhiên ngẩng đầu lên. Nhìn thầy Hiroyuki trong bộ dạng như quân bài màu xám, nàng nói với tôi, “Có người kìa. Ai đấy?”
“Bạn tớ. Cậu ấy tên Hiroyuki.”
“Cậu ấy đang làm cái gì thế?”
“Cậu ấy bảo muốn ngắm thế giới từ trên cao như loài chim để vẽ tranh.”
“Tranh? Hai cậu học cùng lớp vẽ à?”
“Ừ. Hôm nay bọn tớ vừa đi học về.”
Khi hai đứa nhìn lên thì Hiroyuki cũng bắt đầu leo xuống các bậc thang. Cậu ta ở trên tháp chẳng lâu lắm. Chỉ một khoảnh khắc là đủ, lúc nào cậu ta cũng nói vậy. Giống như máy ảnh ấy. Tách một cái. Thế là nhớ được hết tất cả.
Gió chiều làm tấm áo choàng của bạn tôi đung đưa. Tôi cảm giác có chuyện chẳng lành (những lúc thế này linh cảm thường đúng). Thế rồi y như rằng, khi chỉ còn cách mặt đất năm mét, cậu ta đột nhiên hướng về phía không trung rồi lao thẳng xuống.
Hiroyuki hét lên một tiếng gì đó. Cậu ta có ngôn ngữ riêng nên có khi đó là một từ thể hiện sự phấn khích trong lòng, tỉ dụ như dũng khí hay vui sướng gì đó cũng nên (Hiroyuki chỉ chế ra những từ mang tính tích cực, riêng từ vựng để chỉ tình yêu cũng phải có hơn ba chục).
Cậu ta dang rộng áo choàng như thể sóc bay xòe tấm màng mỏng rồi lướt trong không khí.
Nhưng tiếc thay, khoảng cách lại hơi ngắn một chút. Gấu áo bị mắc vào dây thép gai, Hiroyuki đập mặt vào hàng rào khá mạnh.
Cậu ta bật lên tiếng la thất thanh như con gái, chân tay giãy giụa như lợn rừng mắc bẫy. Tôi và nàng chạy đến, gỡ áo choàng của cậu ta ra khỏi dây thép. Hiroyuki ngã xuống mặt đất, mãi mới bình tĩnh trở lại.
Thấy tôi lo lắng nhìn, cậu bạn ngẩng mặt lên cười he he. Cậu ta bị xước trán và chảy máu mũi. Nàng rút khăn mùi soa từ trong túi áo, lau máu cho Hiroyuki.
“Cậu là ai?” cậu ta hỏi. Đỉnh mũi cậu ta hướng về hai đầu gối tròn lẳn trắng trẻo của nàng nên cảm giác như thể cậu ta đang bắt chuyện với chúng.
“Tớ là bạn học của Yoshizawa, hai đứa ngồi cạnh nhau trong lớp.”
“Hửm,” Hiroyuki nói. “Cảm ơn nhiều.” Mắt cậu ta vẫn hướng về đầu gối nàng.
“Không có gì.”
Hiroyuki chầm chậm đứng lên, đoạn thở hắt thật mạnh. Khăn mùi soa hẵng còn áp trên mũi.
“Cậu ổn chứ?” tôi hỏi.
“Cũng tạm,” cậu ta đáp.
“Cậu làm tớ giật cả mình,” tôi nói. “Sao bỗng dưng cậu lại lao xuống như thế chứ?”
“Tại sao nhỉ?” Hiroyuki trả lời. “Lúc ấy chẳng hiểu sao tớ cảm giác mình có thể bay được. Trong khoảnh khắc, tớ quên béng mất chuyện mình là con người.”
Đoạn cậu ta quay mặt về phía nàng và hỏi, “Tớ mượn khăn mùi soa của cậu được không?”
“Cậu cứ dùng đi,” nàng đáp. “Cho cậu đấy. Coi như kỷ niệm lần đầu gặp mặt.
“Cảm ơn cậu,” Hiroyuki nói. “Mà tiện thể, cậu tên gì thế?”
“Shirakawa. Shirakawa Yukino.”
“Hê,” cậu ta đáp. “Tên hợp người quá thể’
Nàng mỉm cười và gật đầu.
“Ừ. Ai cũng nói thế hết.”
Tôi trèo qua hàng rào lượm chiếc ba lô, Hiroyuki nhét áo choàng giờ đã được cuộn lại vào trong và nói.
“Tớ đi về đây.”
“Đã về rồi?”
“Ừ. Hình như đập đầu xong sốc quá nên tớ quên cả cảnh vật rồi. Phải về nhanh còn vẽ... thế thôi chào nhé!”
Hiroyuki không đợi chúng tôi trả lời, cứ thế quay gót đi thẳng. Dáng người cậu ta còn xiêu vẹo hơn cả mọi khi.
Hiroyuki hóa ra quên cảnh vật thật. Thay vào đó cậu ta vẽ hai đầu gối trắng trẻo tròn trịa vào trong tranh. Nó in vào trong đầu tớ, cậu ta nói. Đến giờ vẫn còn chưa buông tha nữa. Đúng là phiền chết được.
Bởi quả có phiền thật, nên tôi thấy tội nghiệp cậu ta vô cùng. Cả tháng trời cậu ta cứ cằn nhằn mãi về chuyện này. Sau không thấy nói gì nữa, nên tôi đoán chắc cậu ta cuối cùng cũng quên vụ đó rồi.
“Bạn ấy có sao không nhỉ?” nàng hỏi tôi.
“Chắc không sao,” tôi đáp. “Chuyện thường thôi ấy mà.
“Thế á?” nàng cao giọng vẻ ngạc nhiên.
“Ừ. Có lần tàu hẵng còn chạy mà cậu ấy còn phi thân từ cửa sổ xuống cơ mà (tuy rằng lúc ấy tàu sắp dừng hẳn rồi). Thậm chí còn nhảy từ cành cây sang nắp thùng xe tải đang chạy nữa kìa. Cậu ấy hay bị ô tô đụng trúng lẳm, nhưng kỳ diệu ở chỗ chẳng bao giờ thấy bị thương nặng. Bởi cậu ấy nhẹ bẫng như không khí ấy. Không biết nguyên nhân có phải vậy không nữa.”
“Cậu ấy thú vị nhỉ.”
“Ừ. Ở bên cạnh cậu ấy khi nào cũng thấy ngạc nhiên. Chẳng bao giờ chán nổi luôn.”
Rồi tôi hỏi nàng tại sao lại ở đó. “Hoàng hôn,” nàng trả lời. “Cậu có thấy bầu trời ở đây rất rộng không?”
“Ừ, rộng thật.”
Nơi này trải ra một vùng không gian thênh thang, chiều rộng một cây số, chiều dài ba cây số. Rìa hai bên là con mương và rặng cây chắn gió, ở giữa chỉ có đất và cỏ dại. Tầm nhìn thông thoáng đến sững sờ.
Nhìn trời từ đây, ta dễ bị choáng ngợp bởi sự mênh mông khó lòng tưởng tượng được. Sự rộng lớn của không gian thậm chí làm ta sợ hãi.
Từ khoảng trời phía Tây, những dải mây ti hướng về phía chúng tôi và tản ra theo hình quạt. Chúng được nhuộm trong một màu mà tôi chẳng biết miêu tả thế nào. Mặt trời nhìn tựa quả mơ hơi chín quá, mọng nước như thể sắp nhỏ giọt đến nơi.
Nàng rút chiếc máy ảnh bỏ túi ra khỏi túi áo khoác, hướng ống kính lên nền trời phía Tây và bấm nút chụp.
Tôi cứ dán mắt nhìn nàng. Nàng nhắm một bên mắt, bên còn lại nhìn qua khung ngắm, hoàn toàn không phòng bị, nên tôi có thể ngắm nàng đến thỏa thuê.
Nàng đẹp thật đấy, tôi nghĩ thầm. Kỳ lạ thay, từ trước đến nay, đây là lần đầu tiên tôi cảm thấy như thế khi nhìn con gái. Dù có nhận thức được ai đó đẹp, tôi cũng không có cảm giác gì đặc biệt. Thế nên tôi nghĩ mình không phải kiểu người bị hấp dẫn bởi ngoại hình.
Nhưng vẻ đẹp của nàng rất khác biệt. Khi nhìn nàng, biết bao cảm xúc dậy lên trong tâm trí tôi. Hầu hết là cảm giác dễ chịu, dù đôi khi chúng thiêu đốt và khiến tôi đau đớn, nhưng kể cả vậy tôi cũng chẳng thấy tệ lắm.
Khi tôi vươn tay ra trong trí tưởng tượng và tự ý chạm vào mái tóc nàng, bất chợt nàng quay sang nhìn tôi và mỉm cười thật tươi. Tôi vội vã thu cánh tay trong tưởng tượng lại và cười với nàng.
Nàng lại hướng ánh mắt vào ống ngắm của chiếc máy ảnh. Khi đã chụp được vài tấm, nàng hỏi tôi, “Cậu có muốn chụp hình chung không?
“Coi như kỷ niệm hôm nay gặp nhau ở đây.”
Nàng có vẻ thích các dịp kỷ niệm nhỉ, tôi thầm nghĩ (mà kể ra, con gái hầu như ai chẳng thế).
“Ừ, được đấy,” tôi đáp.
Bên cạnh hàng rào có một chiếc hộp màu xám không biết đích xác để làm gì, hai đứa bèn dùng nó thay chân máy ảnh.
Nàng nghiêng đầu nhìn vào ống ngắm, rồi chỉ định vị trí đứng cho tôi.
“Sang phải một chút. Lùi về đằng sau một chút. Rồi, đó.”
Nàng chỉnh chế độ chụp tự động, bấm nút rồi vội vã chạy đến chỗ tôi. Nàng đứng cạnh tôi, hơi thở có chút hổn hển.
Hai đứa ngại ngùng đứng cách nhau khá xa, mãi sau cùng nàng mới gom hết can đảm, xích lại gần tôi đến mức hai cánh tay chạm nhau.
Máy ảnh kêu lên một tiếng “tách”.
Hai đứa bỗng bật cười. Cảm giác có gì đó rất kỳ cục nên không nhịn cười nổi.
Cả người rung lên bởi tràng cười, nàng chạm vào tay tôi và nói.
“Này, kiểu gì ngày mai trời cũng nắng.”
“Thế hả?” tôi hỏi lại.
“Thì cậu nhìn xem,” nàng chỉ tay lên bầu trời phía Tây. “Hoàng hôn đẹp thế kia cơ mà.”
Đến giờ tôi vẫn nhớ khuôn mặt vui sướng của nàng khi ấy.
Chắc hẳn lúc đó nàng đã rất hạnh phúc. Nếu có điều gì tuyệt diệu đang diễn ra, ngày mai chắc chắn sẽ là một ngày tốt lành. Nàng không thể kìm nén nổi dự cảm đang đầy ắp trong lồng ngực, bởi vậy nó chuyển hóa thành lời nói, thành nụ cười kia.
Tôi đoán vậy.
Sau đó, nàng thường lặp lại những lời ấy mỗi khi chiêm ngưỡng một buổi hoàng hôn đẹp. Tôi không biết nàng nói có đúng không, nhưng bởi quá mừng rỡ khi thấy nụ cười nàng, lúc nào tôi cũng lỡ gật đầu nhiệt tình hơn mức cần thiết.
Ảnh được tráng xong sau một tuần.
Tôi vẫn đi muộn như một thói quen. Khi đã yên vị trên ghế, nàng khẽ đá vào chân tôi dưới gầm bàn. Ngẩng mặt lên nhìn, nàng chỉ mấp máy môi một chữ “ảnh” và đưa cho tôi một chiếc phong bì màu trắng nhỏ, dập hoa văn nổi, có lẽ được lấy từ một tập phong bì thư cao cấp.
Tôi mở phong bì ra và nhìn vào bên trong, ngoài bức ảnh còn có một tấm thiệp ghi “Kỷ niệm ngày ngắm hoàng hôn cùng nhau”.
Trong hình, cả tôi và nàng đều trông rất hạnh phúc. Mặt hai đứa đỏ ửng trong ráng chiều, nhìn như một cặp đôi say rượu đang cố nhịn cười. Cánh tay hai đứa chạm nhau nhiều hơn tôi nghĩ, ai không biết nhìn vào có khi còn tưởng tôi và nàng là đôi tình nhân đã quá thân quen.
Khi ngắm ảnh, tôi thầm nghĩ, nàng khi không đeo kính trông cũng chẳng tệ. Đôi mắt có hơi to một chút thật, nhưng hợp với nàng.
Tôi viết vào mẩu giấy và chuyền cho nàng.
“Cảm ơn cậu. Tớ sẽ giữ thật cẩn thận.”
Nàng cũng viết lại rồi dịch mẩu giấy về phía tôi.
“Ảnh đẹp nhỉ.”
“Ừm, công nhận nhỉ. Bọn mình trông cứ như là...”
Tôi viết đến đó rồi phải dừng bút lại để nghĩ. Nàng ngó xuống tay tôi như thể muốn hỏi “Cứ như là gì cơ?” Tôi cuống quýt viết thêm vào.
“... cứ như là hai đứa say rượu hớn hở ấy nhỉ.”
“Ừ,” nàng đồng tình, nhưng giọng nói nghe có chút lạnh lùng.