← Quay lại trang sách

Chương 2

Chiếc xe ngựa chạy bon bon trên đường St. Louis. Durand ngồi chồm về phía trước sát mép ghế, hai tay đặt trên đầu gậy và phần trên cơ thể anh tựa vào đó. Chợt anh ngả hẳn người về phía trước.

“Nó kìa,” anh kêu lên, trỏ tay đầy phần khích. “Ngay kia kìa.”

“Nhà mới tinh, phải không?” Người xà ích ngạc nhiên xen lẫn ngưỡng mộ.

“Chính tay tôi xây đấy,” Durand khoe với niềm hãnh diện trẻ con, sau 16 năm mới xuất hiện. Rồi anh đính chính, “Ý tôi là, họ xây nó theo chỉ dẫn của tôi. Tôi nói với họ, tôi muốn nó trông ra sao.”

Người xà ích gãi đầu. Một cử chỉ không phải vì lúng túng mà là vì choáng ngợp trước sự bề thế của ngôi nhà. “Đẹp quá,” ông ta nói.

Ngôi nhà cao hai tầng, được xây bằng gạch màu vàng sẫm, với đường trang trí màu trắng quanh cửa sổ và cửa đi. Nó không lớn, nhưng chiếm vị trí hết sức thuận lợi, nằm trên một mảnh đất ở góc phố, giáp hai mặt đường, không bị cản trở. Hơn nữa, miếng đất còn chạy dài ra xa ngôi nhà, không rộng rãi thì cũng thoáng đãng, không bị kề sát nhà hàng xóm. Có cả chỗ cho những vuông cỏ trước nhà, và một mảnh vườn phía sau.

Tất nhiên nó vẫn chưa hoàn thiện. Còn đầy gạch vụn chất đống đằng trước, thảm cỏ lởm chởm, và kính cửa sổ loang lổ vệt sơn. Nhưng có một vẻ gần như tôn kính trên khuôn mặt người đàn ông khi anh nhìn vào. Đôi môi anh hé ra và cặp mắt dịu lại. Anh không ngờ có một ngôi nhà đẹp như thế. Ngôi nhà đẹp nhất anh từng thấy. Ngôi nhà của anh.

Tiếng quất roi của người xà ích dứt anh khỏi cơn mơ mộng.

“Ông đợi tôi một lúc, lát nữa tôi còn đi đón tàu.”

“Được thôi, ngài cứ thong thả,” người xà ích toét miệng cười thấu hiểu. “Người đàn ông phải ngắm ngôi nhà của mình chứ.”

Durand không đi vào nhà ngay. Mà anh kéo dài niềm sung sướng hiện có bằng việc dạo vòng quanh hai mặt tiền ngôi nhà. Anh kiểm tra đá ở chân tường bằng cây gậy, đưa tay lay thử cánh cửa chớp, mở ra rồi sập vào. Anh còn chọc gậy vào một búi rơm nhỏ và gẩy nó khỏi lối đi, để lại một vệt vương vãi còn tệ hơn kẻ xâm phạm ban đầu.

Cuối cùng anh quay về cửa chính, ngẩng cao đầu tự hào. Trên bề mặt gỗ thông sơn trắng có một chỗ được đánh dấu bút chì để lắp một vòng gõ cửa bằng sắt chạm trổ, nhưng hiện vẫn chưa có. Anh đã đích thân đến xưởng đúc để chọn. Không có nỗ lực nào là quá lớn, không có chi tiết nào là quá nhỏ.

Không thèm giơ tay gõ cửa, có lẽ vì cho rằng thật phi lí nếu phải gõ cửa chính nhà mình, anh vặn thử nắm đấm, nó không khóa, và bước vào nhà. Một mùi riêng biệt và không dễ chịu - nhưng trong trường hợp này nó thật hấp dân - tỏa ra trong ngôi nhà mới, của gỗ mới bào, của nhựa thông hăng hắc trong sơn, ma tít cửa sổ, và rất nhiều thành phần khác khó xác định.

Một cầu thang mới tinh, bằng gỗ thích vừa đánh véc-ni được phủ lớp giấy nâu bảo vệ chạy dọc ở giữa, từ phía sau sảnh vươn lên tầng trên. Anh rẽ sang phòng tiếp khách nhỏ. Ô cửa sổ phía tây hắt những dải nắng vàng vuông vức xuống sàn nhà.

Khi anh đứng nhìn, căn phòng liền thay đổi. Một tấm thảm dày thêu hoa trải kín những tấm ván sàn thô mộc. Lửa đỏ rực bập bùng hất ra từ lò sưởi hiện trống không phía dưới bệ đá. Trên tường treo tấm gương tròn mang ý nghĩa tâm linh. Một sofa bọc nhung lông, một chiếc ghế bọc nhung lông, một chiếc bàn, dần hiện hữu ở nơi lúc này vẫn trống trơn. Trên bàn, một cây đèn có chụp hình cầu màu trắng sữa bắt dầu le lói sáng, càng lúc càng rực rỡ. Dưới ánh sáng của nó, một mái tóc đen hiện ra, thư thái tựa vào lưng ghế bọc vải trắng. Trên bàn còn có một giỏ đồ khâu để dưới ngọn đèn, món đồ này nhìn mơ hồ hơn những chi tiết khác.

Rồi có tiếng xô thùng kêu loảng xoảng trên gác, và một làn sóng xóa mờ tràn qua căn phòng, tấm thảm mỏng đi, lửa trong lò tối lại, đèn tắt và mái tóc đen không rõ mặt cũng biến mất theo, căn phòng lại hoang vắng như trước. Chỉ có những súc giấy dán tường, một chiếc xô trên khung gỗ, sàn nhà trơ trụi.

“Ai dưới đó thế?” Một giọng phụ nữ vọng xuống qua những khoảng trống.

Anh đi ra sảnh đến dưới chân cầu thang.

“Ồ, cậu Lou à. Sắp xong cho cậu rồi đây.”

Gương mặt thô sạm của một bà lão da đen, buộc khăn trùm ngang trán, ngó xuống từ lan can cầu thang.

“Thợ làm dưới đây đi đâu rồi,” anh hỏi vẻ không vui. “Anh ta phải làm nốt đi chứ.”

“Chắc là đi lấy thêm hồ. Cậu ta về ngay thôi.”

“Trên đó thế nào?”

“Đang hoàn tất, thưa cậu.”

Anh bất ngờ rảo bước, thoăn thoắt lên cầu thang. “Chủ yếu tôi muốn xem phòng ngủ,” anh tuyên bố, lướt qua bà.

“Có cái gì mà chú rể không xem đâu?” Bà mỉm cười.

Anh dừng lại ở cửa, ngoái nhìn bà vẻ quở trách. “Là vì giấy dán tường,” anh vụng về chống chế.

“Cậu khỏi cần giải thích với tôi, cậu Lou. Làm sao cậu già đời bằng tôi được.”

Anh tiến đến bức tường, rà những ngón tay lên đó, như thể những bông hoa là thật chứ không phải hình vẽ.

“Dán lên nhìn còn đẹp hơn, bà có thấy thế không?” “Vâng, đúng vậy,” bà đồng ý.

“Tôi đã dồn hết công sức cho nó, phải cử người tới tận New York tìm mua. Đây này, tôi đã hỏi cô ấy thích loại nào mà không cho cô ấy biết lí do.” Anh lục túi lấy ra một lá thư, căng mắt đọc. Cuối cùng chỉ ngón tay vào đoạn muốn tìm, được gạch dưới. “… còn về phòng ngủ thì em thích màu hồng, nhưng không được hồng quá, với những bông hoa nhỏ xanh lam như hoa lưu ly chẳng hạn.” Anh hân hoan gấp lá thư lại, ngả đầu vào bức tường.

Thím Sarah chỉ nghe lấy lệ. “Tôi còn cả đống việc chưa làm. Cậu thứ lỗi cho, tôi muốn cậu rời khỏi đây. Trước tiên, tôi phải sắp xếp chiếc giường này.” Bà lại cười tủm tỉm.

“Sao bà cứ cười mãi thế?” Anh phản đối. “Bà không được làm thế nữa khi cô ấy đến đây.”

“Ôi, không. Tôi ý tứ lắm chứ, cậu Lou. Cậu không phải băn khoăn về chuyện đó.”

Anh rời khỏi phòng, rồi lập tức quành về cửa. “Bà xem có thể treo xong rèm dưới nhà trước khi cô ấy đến không? Mấy cái cửa sổ nom trần trụi quá.”

“Cậu cứ đưa cô ấy về, nhà cửa sẽ sẵn sàng,” bà hứa trong lúc bận rộn hất tấm khăn trải giường trắng tinh tung bay như cánh buồm trong gió.

Anh đi. Rồi lại trở lại, lần này ở lưng chừng cầu thang.

Ồ, mong bà tốt bụng tìm cho ít hoa, cắm ở đây và dưới kia. Có lẽ là trong phòng khách, để chào đón khi cô ấy đến.”

Bà lẩm bẩm câu gì đó nghe như, “Cô ấy chẳng rỗi hơi đi ngửi hoa đâu.”

“Cái gì?” Anh nghe thấy, cau mặt.

Bà già khôn ngoan không lặp lại câu nói.

Anh rời đi. Và quay lại một lần nữa. Lần này ở dưới chân cầu thang.

“Mà bà nhớ thắp hết đèn lên trước khi đi đấy. Tôi muốn nơi này sáng sủa và ấm cúng ngay lần đầu tiên cô ấy trông thấy.”

“Cậu cứ làm phiền tôi mãi vậy,” bà trách cứ, nhưng không quá bực dọc, “chắc chắn tôi sẽ làm xong hết. Giờ mời cậu đi cho,” bà ra lệnh, giũ tạp dề về phía anh với sự thân mật khinh khỉnh như thể anh mới 7 tuổi hoặc 17 tuổi, chứ không phải đã 37 tuổi. “Không gì phiền phức bằng, khi một người đàn ông nghĩ anh ta đang giúp tôi sửa sang nơi ở cho người khác.”

Anh ném ánh mắt tự ái cho bà, rồi đi xuống. Lần này anh không quay lại nữa.

Thế nhưng, năm phút sau, khi bà xuống dưới nhà, anh vẫn ở đó.

Anh đứng trước bàn, ngẫu nhiên quay lưng về phía bà. Hai tay anh chống lên bàn, hơi cúi người xuống. Như đang chăm chú nhìn vào một tương lai xa, chỉ mình anh thấy được. Như đang chờ đợi một hình ảnh nhỏ bé tiến về phía mình theo quỹ đạo xoắn ốc, gần hơn, lớn dần lên, thành kích thước thật…

Anh không nghe thấy thím Sarah đi xuống. Anh chỉ dứt mình khỏi viễn cảnh và quay lại khi nghe thấy giọng bà.

“Cậu vẫn ở đây à, cậu Lou? Tôi nên biết mới phải.” Bà chống nạnh, quan sát anh một cách độ lượng. “Nhìn xem. Hẳn là cậu đang hạnh phúc? Tôi chưa thấy vẻ mặt nào như thế trước đây.”

Anh ngượng ngập vuốt tay qua phần dưới khuôn mặt, như thể nó là đối tượng bà vừa đề cập. “Nó lộ liễu lắm sao?” Anh nhìn quanh vẻ hoang mang, như chưa thể tin hẳn khung cảnh xung quanh là thật. “Ngôi nhà của ta…,” anh khẽ lẩm bẩm. “Người vợ của ta…”

“Đàn ông không có vợ thì không hoàn toàn là đàn ông, chỉ là cái bóng đi loanh quanh không ai để ý.”

Bàn tay anh chạm vào ngực áo vẻ nghi hoặc, rồi bỏ xuống thật nhanh. “Tôi cứ nghe thấy tiếng nhạc. Có ban nhạc nào chơi ngoài phố gần đây không?”

“Có một ban nhạc đang chơi,” bà nghiêm túc xác nhận. “Một ban nhạc đặc biệt, chỉ cho mỗi người nghe một lần. Chỉ trong một ngày. Tôi đã từng được nghe. Hôm nay sẽ là ngày cậu được nghe.”

“Tôi nên đi bây giờ!” Anh lao ra cửa, mở tung cánh cửa, chạy xuôi lối đi và nhảy lên chiếc xe đang lắc lư đợi.

“Tới bến tàu trên đường Canal,” anh thở hắt ra với vẻ háo hức vui sướng, “đón tàu từ thành phố St. Louis đến.”