← Quay lại trang sách

Chương 3

Dòng sông vắng lặng, bầu trời quang đãng. Cả hai đều được phản chiếu trong đôi mắt chờ mong hồi hộp của anh. Thế rồi, một vệt mờ cong cong xuất hiện, không lớn hơn một dấu tay người trên nền trời bao la. Có vẻ nó đến từ một bờ tít tắp nào đó chứ không phải con sông; nó như lơ lửng trên mặt đất, khi vòng qua một khúc sông ngoặt, rồi thẳng tiến về New Orleans và bến tàu. Và những người tập trung ở đó.

Anh đứng chờ cùng những người xung quanh. Họ túm tụm vào nhau nhưng chỉ sượt qua anh. Những con người xa lạ anh không quen, chưa từng gặp và sẽ không bao giờ gặp lại, tập trung một chỗ trong chốc lát chờ một con tàu cập bến.

Anh chọn đứng tại một đầu cọc nhô lên phía trên cầu tàu; đó là vọng gác của anh, anh đứng sát cạnh nó, không cho ai tranh mất, anh biết nó sẽ phát huy tác dụng trong việc tiếp cận con tàu. Anh đứng gác một chân vững chãi lên nó, được một lúc thì anh chống cả hai tay và dựa người vào nó để phòng trước. Có lúc anh còn ngồi lên nó, nhưng nhanh chóng đứng lên, như thể cho rằng đứng lên thì tàu sẽ cập bến nhanh hơn.

Lúc này khói đã bốc cao trên nền trời, như một bầy đà điểu châu Phi đen xám bị nhốt một chỗ đang vùng vẫy thoát khỏi nhau. Dưới đám khói cuồn cuộn là một hình nón mảnh màu đen, nhô dần lên; một cái ống khói. Rồi đến cái thứ hai.

"Cô nàng kìa," một công nhân bến tàu kêu to, cái thông báo thừa thãi và muộn màng ấy lập tức được đón bắt và lặp lại bởi vài ba người ở gần anh.

“Đúng đúng, cô nàng kìa,” họ hùa theo anh chàng. “Đúng cô nàng rồi.”

Cô ấy kìa, trái tim Durand trìu mến tự nhủ. Nhưng anh muốn nói về một cô gái chứ không phải con tàu.

Ống khói, như một lưỡi dao cùn cắt vào mặt đất, xóa sạch đường đê và hiện rõ trên mặt nước. Một hình dáng hung hung đen, phía dưới có hai hàng dài những vết lõm nhỏ xíu hai bên, bên dưới nữa là thân tàu đen đúa mà ở khoảng cách xa như vậy chỉ nhìn thấy một đường mỏng. Những mái chèo khua đều nhịp, đến đỉnh bánh lái lại rơi xuống, bắn những bụi nước xuống mặt nước màu nâu phập phồng chịu khuất phục bên dưới.

Con tàu chuyển hướng và trở nên lớn hơn, mũi tàu chĩa về đằng trước. Lúc này nó đã mang kích thước thật, lừng lững lao về bến tàu như muốn nghiền nát nó. Một tiếng kêu lanh lảnh chói tai, đầy thê lương, như tiếng than khóc của một linh hồn chết trong đau đớn, vút lên từ con tàu, một chùm khói trắng bao quanh ống khói trôi hút về phía sau. Con tàu Thành phố New Orleans, rời bến St. Louis ba ngày trước, đã trở về bến cảng trùng tên với nó, cảng mẹ của nó.

Những bánh lái bên mạn ngừng quay, và bắt đầu trượt đi như một con tàu giấy, như bóng ma trên mặt nước. Nó xoay nghiêng, chạy dọc theo bến, tốc độ còn nhanh hơn lúc nó tiến thẳng đến, dù thực ra là ngược lại.

Những vết lõm hình chữ V lướt qua như một hàng cọc rào, chậm dần; cuối cùng dừng lại, đảo chiều một chút và tròng trành. Mặt nước giữa thân tàu và bến tàu, nổi điên vì bị xô đẩy, quằn quại vùng vẫy và hổn hển, cố tìm đường thoát, để rồi cuối cùng bị ép thành dòng kênh hẹp.

Con sông và bầu trời đều bị con tàu sừng sững choán chỗ. Một người nhàn rỗi tựa vào lan can trên boong vẫy tay vu vơ. Không phải với Durand, vì đó là một người đàn ông. Cũng không phải với bất cứ người nào cụ thể. Chỉ là cái vẫy tay chào hỏi. Dưới bến có một người thay mặt cả nhóm vẫy lại với bộ dạng tương tự.

Một sợi dây thừng được ném xuống, nhiều người lùi về sau tránh bị nó quật vào. Những công nhân bến tàu tiến đến trong khoảnh khắc vinh quang ngắn ngủi, nắm lấy sợi dây, khéo léo buộc quanh đầu cọc ngay trước mặt Durand. Họ cũng đang làm điều đó ở phía bên kia. Con tàu nhanh chóng được neo lại.

Một cầu tạm có khung được trải xuống, lan can ở boong dưới bị gỡ ra một đoạn nhỏ. Khoảng hở ở giữa được nối liền. Khi nó vừa lắp xong, một sĩ quan trên tàu bước xuống, đứng ngay phía dưới để giám sát việc bốc dỡ hàng. Hành khách từ hai phía dọc boong tàu đổ về, nối nhau đi xuống qua cây cầu.

Durand di chuyển cho đến khi có thể chống tay lên nó, như trong một đòi hỏi thầm lặng; ngước lên nhìn chăm chăm từng khuôn mặt đi xuống và lướt qua, chỉ cách anh vài phân.

Hành khách đầu tiên xuống tàu là một người đàn ông, sải những bước dài, hai tay xách hai hộp hàng mẫu, một lái buôn đang vội vã. Tiếp theo là một phụ nữ, đi rón rén; tóc xám và đeo kính; không phải cô. Đến một người phụ nữ khác, vẫn không phải cô; người chồng đi ngay đằng sau, đỡ cánh tay cô ta. Tiếp đến là một gia đình, đi theo thứ tự vai vế.

Rồi đến một nhóm đàn ông, đi hai, ba người một hàng. Đối với anh, những khuôn mặt ấy chỉ là những con người nhợt nhạt, nhanh chóng đi qua. Rồi đến một phụ nữ, khoan đã… không, không phải cô. Đôi mắt khác, cái mũi khác, gương mặt khác. Mắt anh bắt gặp ánh mắt của người lạ ấy, lập tức phủ nhận. Một người đàn ông nữa. Một người phụ nữ nữa. Tóc đỏ và lông mày màu cát; không phải cô.

Rồi đến khoảng trống, một quãng dừng, một sự chờ đợi.

Tim anh thót lên hoảng loạn, rồi hồi phục lại. Một tiếng gõ nhẹ chạy dọc những ván tàu, như có một người chậm chạp nào đó đang vội vã bắt kịp những người khác. Đó là tiếng bước chân nhỏ và nhanh của một người phụ nữ. Những đường ren váy phấp phới, một gương mặt… không phải cô. Mùi nước hoa tử đinh hương, đôi mắt hờ hững không quan tâm đến anh, như ánh mắt anh đối với chúng, không có sự tìm kiếm, nhận biết trong chúng. Không phải cô.

Rồi không còn ai nữa. Cầu tàu trống trơn, chìm vào khoảng lặng thường xuất hiện khi kết thúc một sự việc.

Anh ngước nhìn trân trân, gương mặt thờ thẫn.

Hai tay anh đang bám chặt mép cầu tạm, cuối cùng buông ra. Anh đi vòng sang bên đối diện, bắt chuyện với viên sĩ quan đứng nhàn rỗi, lo lắng nắm lấy tay áo anh ta. “Không còn ai khác à?”

Viên sĩ quan quay về sau, đặt tay lên miệng làm loa truyền câu hỏi lên boong tàu. “Còn ai nữa không?”

Một người trên tàu, có lẽ là thuyền trưởng, bước ra lan can ngó xuống. “Tất cả đã lên bờ,” ông ta đáp trả.

Nó như hồi chuông báo tử. Durand thấy anh chỉ còn một mình, chìm trong bể im lặng đột ngột ập đến theo sau; mặc cho xung quanh vẫn ồn ào đủ thứ tiếng. Nhưng với anh chỉ có im lặng. Cái kết cục quá choáng váng.

“Nhưng ắt hẳn là còn… phải có…”

“Không còn ai hết,” viên thuyền trưởng tươi cười. “Anh cứ lên mà xem.”

Rồi ông ta quay đi và rời khỏi lan can.

Lúc này đến lượt hành lý được đưa xuống.

Anh chờ đợi, hi vọng một phép màu.

Không còn người nào nữa, chỉ có hành lý và hàng hóa lặt vặt còn lại. Cuối cùng đến cả chúng cũng đi hết.

Anh quành về, đi dọc cầu tàu và rời sang mặt đất cứng, đi tiếp một đoạn nữa trong trạng thái lơ ngơ. Gương mặt anh ngoảnh hẳn sang bên, như thể vừa gặp một cơn đau bên này lớn hơn cơn đau bên kia, mặc dù không phải thế, khắp người anh đều chung một nỗi đau đớn.

Anh dừng lại lúc nào không hay, cũng không biết tại sao mình dừng lại. Chẳng còn lí do gì để anh nấn ná nữa. Con tàu không có gì cho anh, dòng sông không có gì cho anh. Ở đây chẳng có gì cho anh. Ở đây hay bất cứ nơi đâu.

Nước mắt dâng đầy trong mắt anh, dù chẳng có ai ở gần, chẳng có ai để ý, anh vẫn chầm chậm cúi đầu che giấu.

Anh cứ đứng cúi gằm như thế, như một người đưa ma lặng lẽ trước cỗ quan tài. Một cỗ quan tài chỉ riêng anh trông thấy.

Mặt đất phía trước cặp mắt mờ nhòa của anh trống không; lớp đất màu bánh quy ấm nóng dưới ánh mặt trời. Cuộc đời anh từ nay về sau, có lẽ cũng trống rỗng như thế.

Thế rồi, trên mặt đất chợt xuất hiện bóng một cái đầu ngập ngừng, ở sau lưng anh hắt lên, tiến đến gần. Rồi tới cổ và đôi vai. Tiếp đó là hình dáng một vòng eo thanh mảnh. Và rồi toàn bộ hình hài ấy ngừng chuyển động, đứng im.

Đôi mắt đã mờ của anh không ghi nhận được hiện tượng đó. Chúng không nhìn thấy mặt đất hay bất cứ thứ gì in bên trên. Chúng chỉ nhìn thấy ngôi nhà ở đường St. Louis, đang vĩnh biệt nó. Anh sẽ không bao giờ bước vào ngôi nhà ấy, không bao giờ quay lại đó nữa. Anh sẽ giao nó cho bên môi giới, bảo họ…

Một bàn tay khẽ chạm vào vai anh. Không đè xuống, không lay; mà êm và mỏng như cánh bướm đậu. Cái bóng trên mặt đất đã giơ tay chạm vào cái bóng của anh, để yên một lúc, rồi hạ xuống.

Anh chậm chạp ngẩng đầu lên, rồi chậm chạp quay sang phía vai vừa bị chạm.

Một bóng người xoay vòng trước mặt anh, như ở trên một bàn xoay với cặp mắt anh làm trục; mặc dù là anh chuyển động chứ không phải mặt đất.

Hình dáng ấy nhỏ nhắn, song từng chi tiết cân đối một cách hoàn hảo đến độ, nhưng là đối với phép so sánh của một cặp mắt lùng sục những đối tượng khác đặt bên cạnh, nó có thể chấp mọi tiêu chuẩn: sự quý phái của một bức tượng cổ điển hay sự tinh tế của một con búp bê lộng lẫy.

Cặp mắt nâu trong suốt của cô ngước lên khi Durand xoay vai lại. Gương mặt cô mang vẻ đẹp tuyệt trần anh chưa từng thấy, vẻ đẹp của men sứ, nhưng không cứng nhắc lạnh lùng, và cái miệng như cánh hoa hồng bị vò nát.

Cô chỉ chớm hai mươi, dù thân hình có thể khai man tuổi, nhưng thêm được rất ít so với thực tế. Cô có làn da của thiếu nữ, và cặp mắt trong sáng, tin cậy của một đứa trẻ.

Những lọn tóc vàng quăn tít ôm quanh đầu cô như cánh đồng hoa cúc, gần như thành công trong việc chống đối kiểu tóc bình thường mà cô áp đặt cho chúng. Chúng chỉ chịu bó mình vào một búi sau gáy nhờ sức mạnh của mó ghim kẹp. Còn phần tóc mái trước trán hoàn toàn thua cuộc, bung ra xung quanh như lớp sóng biển màu hoàng ngọc.

Cô vươn người ra trước theo dáng vẻ nghiêng Hy Lạp đặc trưng. Cô mặc bộ váy theo thời trang thịnh hành lúc ấy, và đã thịnh hành nhiều năm. Nó ôm khít như lớp bao của chiếc ô cụp, có một vuông vải màu ở giữa, túm ra phía sau gợi lên hình ảnh chiếc tạp dề hoặc một lớp váy thứ hai phủ lên phần còn lại, đằng sau phồng lên những nơ bướm và nếp cuộn, được chống một cách nghệ thuật bằng bộ khung kim loại. Đây là sự khác thường đầy phong cách, không có nó thì vòng ba của người phụ nữ ắt trông mỡ màng một cách khiếm nhã. Cũng như việc để lộ mu bàn chân - suy nghĩ khinh suất số một - hoặc mắt cá chân, được chấp nhận miễn là phải ý tứ khi ngồi.

Một chiếc mũ rơm nhỏ màu đỏ ánh xanh, bẹt và không lớn hơn lòng bàn tay một người đàn ông, đậu trên những lọn tóc vàng, tìm cách chạm tới bên lông mày trái, song lực bất tòng tâm và đành ở nguyên trên đỉnh đầu cô.

Sắc thạch anh tím lấp lánh nơi những chiếc lỗ nhỏ xíu xuyên qua thùy tai để lộ hoàn toàn, cổ cô thắt sợi ruy băng mảnh bằng nhung đỏ ánh xanh. Một chiếc dù che nắng bằng vải phin nõn đồng màu, kích thước không quá một đĩa súp và mỏng như sương, lơ lửng ở đầu cán dù dài như một vòng hào quang tím. Dưới chân cô đặt lồng chim nhỏ mạ vàng, phần lồng phía dưới quấn vải flannel, qua nóc lồng hở nhìn rõ một chú chim màu vàng sáng đang nhảy nhót.

Anh nhìn bàn tay cô, rồi nhìn vai mình, hoang mang tự hỏi người chạm vào anh có phải là cô; mục đích của cái chạm đó là gì. Anh bỏ mũ ra, giữ nguyên trên cao vẻ nghi hoặc.

Cái miệng mím chặt cong lên thành nụ cười tươi tắn. “Anh không biết tôi đúng không, anh Durand?”

Anh khẽ lắc đầu.

Nụ cười khắc một lúm đồng tiên trên má; lan đến mắt cô. “Tôi là Julia, Louis. Tôi gọi anh là Louis được chứ?”

Mũ anh rơi khỏi những ngón tay xuống đất, lăn tròn theo nửa vành mũ. Anh cúi xuống nhặt, nhưng chỉ vai và cánh tay cử động, còn mắt vẫn không rời khỏi cô, như bị luồng nam châm hút chặt.

“Nhung không… sao có thể…?”

“Julia Russell,” cô mỉm cười khẳng định.

“Nhưng không… cô không thể…,” anh tiếp tục lắp bắp.

Lông mày cô nhướng lên. Nụ cười kết thúc một cách tội nghiệp. “Tôi làm vậy là không hay à?”

“Nhưng… bức ảnh… mái tóc đen..

“Tôi đã gửi ảnh của dì tôi thay thế.” Cô lắc đầu trong vẻ ân hận muộn màng. Cô hạ cây dù xuống, cụp nó lại với một tiếng rốp nhỏ, lấy mũi dù vẽ những đường loằng ngoằng trên đất. Mắt cô nhìn xuống quan sát việc mình đang làm với vẻ buồn bã. “Ôi, giờ tôi mới thấy lẽ ra mình không nên làm vậy. Nhưng lúc đó nó dường như không quá quan trọng, chúng ta vẫn chưa tính chuyện nghiêm túc. Tôi những tưởng đó chỉ là trao đổi thư từ. Đã nhiều lần tôi muốn gửi ảnh thật, để cho anh biết… nhưng càng chần chừ tôi lại càng nhụt chí. Tôi sợ… tôi sợ sẽ mất anh nếu làm thế. Lương tâm tôi mỗi lúc thêm cắn rứt, đến phút cuối khi đã lên tàu, tôi muốn rút lui và trở về. Bertha đã thuyết phục tôi đi tiếp… xuống đây. Đó là chị gái tôi, anh biết đấy.”

“Tôi biết,” anh đờ đẫn đáp.

“Trước khi tôi đi, lời cuối cùng chị ấy nói là, ‘Anh ấy sẽ tha thứ cho em. Anh ấy sẽ hiểu em không có ý xấu/ Nhưng trong suốt hành trình, tôi vô cùng ân hận vì sự nông nổi của mình.” Đầu cô gục xuống, hàm răng nhỏ trắng muốt cắn chặt môi.

“Không thể tin nổi… không thể tin nổi…,” anh chỉ biết lặp đi lặp lại.

Cô có một hình ảnh ăn năn sám hối thật đáng yêu, di di mũi dù xuống đất, ngượng ngùng chờ được tha thứ.

“Nhưng cô trẻ quá…,” anh kinh ngạc. “Đẹp hơn cả…”

“Lại thế nữa rồi,” cô lẩm bẩm. “Phần lớn đàn ông trở nên mê muội chỉ vì một gương mặt đẹp. Tôi đã muốn cảm xúc của chúng ta sâu nặng hơn thế. Để nó được dài lâu và bền chặt. Tôi đã muốn anh quan tâm đến tôi, nếu như anh có quan tâm, vì… những điều tôi viết cho anh, tấm chân tình tôi thổ lộ, con người thực của tôi, chứ không phải vì một bức ảnh phù phiếm. Tôi đã nghĩ có lẽ nếu mình tự tạo ra bất lợi ngay từ đầu, về ngoại hình cũng như tuổi tác, thì sau này sẽ bớt trắc trở, để nó chỉ là một sự võ đoán thoảng qua. Nói cách khác, tôi đã đặt ra những chướng ngại ngay từ đầu thay vì phút cuối.”

Cô thật nhạy cảm làm sao, sâu sắc làm sao, anh vỡ lẽ, chưa kể đến những nét quyến rũ bên ngoài. Một viên ngọc không tì vết.

“Anh không biết đã bao nhiêu lần tôi cố gắng nói ra sự thật đâu,” cô tiếp tục khai nhận. “Và lần nào cũng không đủ can đảm. Tôi sợ sẽ chỉ khiến anh tuyệt giao với một người đầy mặc cảm tội lỗi, vì lời thú nhận của cô ta. Tôi không thể tự tin viết điều đó vào một tờ giấy lạnh lùng,” cô khoát tay đầy duyên dáng. “Và giờ anh đã thấy tôi, và anh đã biết. Điều tồi tệ nhất.”

“Điều tồi tệ nhất,” anh phản đối kịch liệt. “Nhưng cô,” lúc sau anh nói tiếp, vẫn chưa hết bàng hoàng, “nhưng cô ngay từ đầu đã biết điều mà giờ đây tôi mới biết, rằng tôi hơn rất… ờ, hơn cô khá nhiều tuổi. Vậy mà…”

Cô cụp mắt xuống, như để thú nhận thêm. “Biết đâu đó lại là một trong những nét lôi cuốn chủ yếu của anh? Từ khi biết suy xét, tôi chỉ… biết nói thế nào nhỉ, có cảm tình, rung động hoặc ngưỡng mộ… với những người đàn ông lớn tuổi hơn. Những chàng trai cùng tuổi chưa bao giờ làm tôi hứng thú. Tôi không biết do đâu. Phái nữ trong gia đình tôi đều như thế. Mẹ tôi kết hôn năm 15 tuổi, bố tôi khi đó đã ngoài 40. Việc anh đã 36 tuổi, là điều đầu tiên…,” với vẻ lịch sự đoan trang, cô dừng lại không nói hết.

Anh vẫn nhìn cô chằm chằm, đầy ngờ vực.

“Anh có thất vọng không?” Cô rụt rè hỏi.

“Sao cô có thể hỏi câu đó?” Anh thốt lên.

“Tôi có được tha thứ không?” Câu hỏi ngập ngừng tiếp theo.

“Đó là sự dối trá đáng yêu,” anh đáp, cảm thấy ấm lòng. “Tôi không nghĩ còn lời nói dối nào đáng yêu hơn thế.”

Anh mỉm cười, được đáp lại bằng nụ cười vẫn còn bối rối của cô.

“Nhưng giờ tôi sẽ phải làm quen lại, tìm hiểu lại cô. Chúng ta đã có một khởi đầu tai hại,” anh vui vẻ nói.

Cô ngoảnh đi giấu mặt vào vai. Hành động này nếu ở người khác có lẽ trông thật ủy mị và làm bộ làm tịch, song cô lại thành công trong việc khiến nó như một sự giễu nhại khôi hài, đồng thời kín đáo biểu lộ sự bẽn lẽn khi bị trách móc.

Anh cười.

Cô quay mặt ra. “Những kế hoạch, ờ, dự định của anh có thay đổi không?”

“Cô thì sao?”

“Tôi đã đến đây rồi,” cô nói với vẻ hết sức ngay thật và nghiêm trang.

Anh ngắm vẻ đẹp của cô hồi lâu. Rồi, với sự bạo dạn chợt nảy sinh, anh đi đến một quyết định, “Liệu cô có thấy nhẹ nhõm hơn, những ưu phiền trong lòng có tan hết,” anh buột miệng, “nếu như tôi cũng có chuyện muốn thú nhận?”

“Anh ư?” Cô kinh ngạc.

“Tôi… tôi đã không nói hết với cô sự thật hơn cô nói với tôi,” anh nói một mạch.

“Nhưng… nhưng tôi thấy anh đúng như những gì anh nói, giống như trong ảnh…”

“Không phải chuyện đó, là chuyện khác. Có lẽ tôi cũng chung cảm nghĩ với cô, muốn cô có cảm tình với tôi, chấp nhận lời cầu hôn, vì con người thật của tôi. Nói cách khác là vì bản thân tôi.”

“Nhưng đúng là thế mà,” cô ngỡ ngàng. “Tôi không hiểu.”

“Cô sẽ hiểu ngay thôi,” anh hứa, gần như sốt sắng. “Giờ tôi phải thú nhận mình không phải là nhân viên thư ký trong một hãng nhập khẩu cà phê.”

Gương mặt cô không có biểu cảm nào khác ngoài sự khó hiểu lễ độ.

“Tôi không có 1.000 đô la tiết kiệm, để… để chúng ta khởi đầu.”

Không có dấu hiệu nào của hụt hẫng hay tính hám lợi bị chưng hửng. Anh quan sát cô kĩ càng. Một nụ cười bao dung, miễn thứ dần lan tỏa khắp gương mặt cô trước khi anh nói tiếp. Khá lâu trước khi anh nói tiếp. Anh dành thời gian cho nó.

“Mà tôi chính là người sở hữu hãng cà phê ấy.”

Không một dấu hiệu. Chỉ có nụ cười gượng gạo, giống như khi cánh phụ nữ buộc phải nghe chi tiết chuyện làm ăn của cánh đàn ông, mặc dù họ không mảy may hứng thú nhưng vẫn phải cố tỏ ra lịch sự.

“Và tôi có gần 100.000 đô la.”

Anh chờ cô nói gì đó. Cô không nói gì, mà trái lại, có vẻ chờ anh tiếp tục. Như thể chủ đề này quá vô vị đối với cô, nội dung khô khan tới nỗi cô chẳng nhận ra đã tới cao trào tự lúc nào.

“Đó là lời thú tội của tôi,” anh nói có phần nao núng.

“Ồ,” cô nói, như bừng tỉnh. “Ồ, là thế ư? Ý anh là…,” cô khoa tay đầy bất lực, “… về việc kinh doanh của anh, và chuyện tiền bạc…” Cô ấp hai ngón tay lên miệng. Chặn một cái ngáp mà, nếu không có cử chỉ che đậy này, ắt anh chẳng phát hiện ra ngay. “Có hai lĩnh vực mà tôi mù tịt,” cô thú nhận. “Một là chính trị, cái còn lại là chuyện kinh doanh, tiền nong.”

“Nhưng cô tha thứ cho tôi chứ?” Anh cố chấp, cùng lúc cảm thấy niềm vui sướng rạo rực, gần như hân hoan; giống như một người sau bao mòn mỏi chờ đợi, và hết sức tình cờ, đã gặp được một người tri âm đúng mong ước.

Lần này cô cười thành tiếng, kèm một tia láu lỉnh, như thể anh đang quá cả tin trước cô. “Nếu anh nhất định phải được tha thứ, thì anh sẽ được tha thứ,” cô dịu giọng. “Nhưng vì ban đầu tôi chẳng chú ý gì đến những đoạn trong thư anh đề cập đến nó, anh đang yêu cầu tha thứ cho một lỗi lầm, mà đến bây giờ tôi mới biết là anh phạm phải. Vậy thì anh được xí xóa, mặc dù tôi không biết để làm gì.”

Anh nhìn cô chăm chăm theo một cách khác, sâu hơn; như phát hiện ra vẻ đẹp ẩn giấu trong cô.

Bóng của hai người đã đổ dài hơn, chỉ còn mỗi họ trên bến tàu. Anh ngó quanh như miễn cưỡng trở về thực tại. “Muộn rồi, tôi đang giữ chân cô ở đây,” anh nói với vẻ nhắc nhở mang tính nghĩa vụ hơn là thành thực, bởi anh chỉ biết nó nghĩa là có thể họ phải chia tay.

“Anh làm tôi quên cả thời gian,” cô thừa nhận, mắt không rời gương mặt anh. “Đó là điềm tốt hay xấu? Thậm chí tôi quên cả tình trạng gay go của mình: nửa trên bờ nửa dưới thuyền. Tôi phải chọn một trong hai.”

“Chuyện đó sẽ sớm được giải quyết,” anh nói, nghiêng người phía trước một cách nhiệt thành, “nếu tôi có được sự ưng thuận của cô.”

“Chẳng phải nó cũng cần thiết đối với anh sao?” Cô hỏi cắc cớ.

“Đúng vậy, đúng vậy.” Anh vội vàng muốn thuyết phục cô đến suýt hụt hơi.

Giờ anh là người hấp tấp chứ không phải cô. “Tôi không biết nữa,” cô nói, nhấc mũi dù lên, rồi lại thả xuống, rồi lại nhấc lên, trong sự phân vân khiến anh như ngồi trên đống lửa. “Nếu như anh đã thất vọng, tỏ ý ngờ vực khi phát hiện ra tôi là kẻ dối trá, tôi sẽ quay lên tàu và ở trên đó cho đến khi nó lên đường trở về St. Louis. Anh không nghĩ sẽ sáng suốt hơn nếu…”

“Không, đừng nói thế,” anh phủ nhận, căng thẳng. “Thất vọng ư? Tôi là kẻ hạnh phúc nhất New Orleans chiều nay… tôi là người may mắn nhất thành phố này…”

Xem chừng cô không bị dao động dễ dàng, “vẫn còn thời gian. Muộn còn hơn không. Anh có chắc là anh không muốn tôi làm thế? Tôi sẽ không nói một lời, sẽ không than phiền. Tôi hoàn toàn hiểu cảm xúc của anh…”

Anh tê liệt bởi nỗi lo sợ sẽ mất cô, người mà anh không hề có cho đến nửa tiếng đồng hồ trước.

“Nhưng đó không phải là cảm xúc của tôi! Tôi van em hãy tin tôi! Cảm xúc của tôi hoàn toàn ngược lại. Tôi phải làm gì để thuyết phục em đây? Em muốn có thêm thời gian? Phải vậy không? Đó có phải điều em muốn nói với tôi không?” Anh nài nỉ với sự lo lắng lớn dần.

Đôi mắt cô nhìn anh một lúc, chúng toát ra vẻ tử tế, chân thành và có thể nói là, phần nào trìu mến. Rồi cô lắc đầu, rất khẽ, nhưng với tất cả sự quả quyết để một người đàn ông có thể đọc ra (nếu anh ta biết đọc đúng), và không phải sự phủ nhận hời hợt kiểu con gái.

“Em đã quyết định,” cô nói với anh, từ tốn và đơn giản, “kể từ lúc đặt chân lên tàu ở St. Louis. Kể từ lúc lá thư cầu hôn của anh tới, vả lại em đã viết thư trả lời. Và một khi đã quyết, em sẽ không đổi ý. Anh sẽ thấy như vậy khi biết em rõ hơn.” Và rồi cô chữa lại, “Nếu như anh muốn biết,” và câu nói đó nhanh chóng đánh trúng tim anh.

“Vậy thì đây sẽ là câu trả lời của anh,” anh nói với sự nôn nóng run run. “Đây.” Anh mở ví, lấy ra bức ảnh của người phụ nữ kia - người dì của cô - xé vụn nó bằng những ngón tay mạnh mẽ, rồi thả những mảnh vụn rơi lả tả xuống đất. Xong, anh chìa hai bàn tay trống không cho cô.

“Anh cũng đã quyết.”

Cô mỉm cười bằng lòng. “Vậy…?”

“Vậy chúng ta lên đường thôi. Mọi người chờ chúng ta ở nhà thờ hơn hai mươi phút rồi. Chúng ta đã nấn ná ở đây quá lâu.”

Anh khuỳnh một cánh tay ra cho cô với nụ cười cùng động tác nghiêng người lịch thiệp. Nhìn bề ngoài nó có vẻ là sự đùa bỡn, mang tính giễu nhại, nhưng thực ra hoàn toàn nghiêm túc.

“Cô Julia?” Anh mời.

Đây là khoảnh khắc lãng mạn thiêng liêng nhất. Lời cầu hôn.

Cô chuyển cây dù sang tay bên kia. Bàn tay cô ngoắc vào cánh tay anh như một nhành dây leo ấm áp thân thiện. Cô túm gọn gấu váy để cất bước.

“Anh Durand,” cô đáp lại, chỉ gọi họ của anh, và cụp mắt thật đoan trang để phù hợp với khuôn phép của một cô gái chưa chồng.