← Quay lại trang sách

Chương 32 Phòng ngủ

Chiều tối hôm ấy, Jack lấy một cái giường con từ nhà kho ngỡ thằng bé sẽ phải mất cả nửa đêm mới thiếp đi được, nhưng Danny đã gật gù khi tập phim The Waltons còn chưa qua được phân nửa và mười lăm phút sau khi được họ đưa lên giường, nó đã chìm vào giấc ngủ sâu, bất động, một tay lèn dưới má. Wendy ngồi ngắm nó, đưa một ngón tay đánh dấu chỗ trong cuốn Cashelmara bìa mềm dày cộp. Jack ngồi ở bàn làm việc, nhìn vở kịch của mình.

“Ôi khốn kiếp,” Jack nói.

Wendy ngưng ngắm nghía Danny và ngước lên. “Gì?”

“Không có gì.”

Gã nhìn xuống vở kịch với tâm trạng bực bội âm ỉ. Làm sao mà gã lại có thể nghĩ rằng nó hay được nhỉ? Nó thật tầm thường. Câu chuyện đã được kể cả ngàn lần rồi. Tệ hơn, gã không biết phải chốt lại kiểu gì. Hồi trước, việc ấy xem chừng cũng đơn giản thôi. Trong lúc nóng giận, Denker tóm lấy que cời lò bên cạnh lò sưởi và đánh chết Gary thánh thiện. Thế rồi, trong lúc giạng chân trên cái xác, với cái que còi lò đẫm máu cầm trong một tay, gã sẽ hét lên với khán giả, “Nó ở đâu đó trong này và tao sẽ tìm thấy nó!” Thế rồi, trong khi ánh đèn mờ đi và bức màn từ từ khép lại, khán giả sẽ thấy thi thể Gary nằm sấp mặt ở phần trước sân khấu, còn Denker thì sải bước đến bên kệ sách ở hậu cảnh và bắt đầu hùng hục lôi sách khỏi kệ, nhìn rồi ném chúng sang một bên. Gã từng nghĩ rằng câu chuyện đã đủ cũ để trở nên mới mẻ, một vở kịch mà chỉ riêng tính mới lạ của nó có lẽ cũng đủ đem lại cho nó một đợt trình diễn thành công ở Broadway: một vở bi kịch năm hồi.

Nhưng, ngoài việc gã đột ngột thấy quan tâm đến lịch sử Overlook, một chuyện khác đã xảy ra. Cảm giác gã dành cho các nhân vật đã đảo chiều. Đây là một hiện tượng khá mới. Bình thường gã thích tất cả các nhân vật của mình, cả tốt lẫn xấu. Gã mừng vì mình cảm thấy như thế. Điều đó cho phép gã cố gắng nhìn nhận nhân vật ở tất cả các phương diện và thấu hiểu động cơ họ một cách rõ ràng hơn. Câu chuyện gã yêu thích là một tác phẩm có tên “Thằng Khỉ ở đây, Paul DeLong”, được gã bán cho một tạp chí nhỏ tên Contraband ở miền Nam Maine để đổi lấy báo biếu. Câu chuyện xoay quanh một kẻ xâm hại trẻ em sắp tự tử trong căn phòng thuê với đầy đủ đồ đạc. Tên kẻ xâm hại trẻ em đó là Paul DeLong, bạn bè gọi hắn là Thằng Khỉ. Jack từng rất thích Thằng Khỉ. Gã thông cảm với những nhu cầu quái đản của Thằng Khỉ, biết rằng Thằng Khỉ không phải là người duy nhất phải chịu trách nhiệm trong ba vụ hãm hiếp và giết người trong quá khứ. Một cặp phụ huynh tồi tệ: lão bố chuyên đánh đập hắn như bố gã, còn bà mẹ thì yếu ớt và lẳng lặng cam chịu chẳng khác nào mẹ gã hồi trước. Một trải nghiệm đồng tính ở trường cấp hai công lập. Bị sỉ nhục công khai. Nhiều trải nghiệm còn tồi tệ hơn ở cấp ba và đại học. Hắn đã bị bắt và bị tống vào một nhà thương điên sau khi lõa thể trước mặt hai bé gái đang bước xuống khỏi xe buýt trường. Tệ hơn cả là hắn được cho xuất viện, được thả trở ra ngoài đường, bởi vì người phụ trách đã quyết định rằng hắn ổn rồi. Tên người đàn ông này là Grimmer. Grimmer biết rằng Thằng Khỉ DeLong có các triệu chứng lệch lạc, nhưng ông ta đã viết một báo cáo tươi sáng, đầy hy vọng và rồi thả hắn ra. Jack cũng thích và đồng cảm với Grimmer. Grimmer phải điều hành một cái viện thiếu thốn cả nhân lực lẫn kinh phí và phải cố gắng duy trì toàn bộ cơ sở bằng những phương pháp tạm bợ cùng mấy xu lẻ moi ra được từ mấy vị đại diện cơ quan lập pháp tiểu bang còn bận trở về gặp gỡ các cử tri. Grimmer biết rằng Thằng Khỉ có thể tương tác với người khác, rằng hắn không ị đùn hay cố gắng cầm kéo đâm các bệnh nhân ở cùng. Hắn không cho mình là Napoleon. Bác sĩ tâm thần phụ trách trường hợp Thằng Khỉ nghĩ rằng khả năng cao là Thằng Khỉ sẽ xoay xở sống được trên đường phố, cả hai biết rằng ở trong một trại tâm thần càng lâu thì người ta sẽ trở nên phụ thuộc vào môi trường khép kín đó, như một gã nghiện với ma túy vậy. Trong khi ấy, thiên hạ cứ gõ cửa nơi đây rầm rầm. Đám hoang tưởng, tâm thần phân liệt, loạn thần, căng trương lực, những gã tuyên bố mình từng đi đĩa bay lên thiên đàng, các bà lấy bật lửa Bic đốt cơ quan sinh dục con mình, đám nghiện rượu, cuồng phóng hỏa, cuồng ăn cắp vặt, hưng trầm cảm, muốn tự vẫn. Thế giới khắc nghiệt thế đấy, cưng à. Nếu ốc vặn không được chắc, ta sẽ bị xóc, lắc và nẩy tung trước cả khi bước sang tuổi ba mươi. Jack có thể thông cảm với vấn đề của Grimmer. Gã có thể thông cảm với bố mẹ các nạn nhân bị sát hại. Tất nhiên là với chính những đứa trẻ bị sát hại nữa. Và với cả Thằng Khỉ DeLong. Hãy để người đọc tự đổ lỗi. Hồi đó, gã không muốn phán xét gì hết. Gã không ưa tấm áo nhà đạo đức học.

Gã bắt đầu vở kịch Ngôi trường nhỏ với cùng cái tinh thần lạc quan ấy. Nhưng dạo gần đây gã đã bắt đầu chọn phe, tệ hơn nữa, gã dần thấy ghê tởm nhân vật chính, Gary Benson. Dù theo ý tưởng thai nghén ban đầu, đó là một cậu bé thông minh, gia đình khá giả, nhưng đồng tiền lại mang đến cho nó bất hạnh thay vì hạnh phúc, một cậu bé chẳng muốn gì hơn là tích lũy được học bạ tử tế để vào một trường đại học tốt, tự lực cánh sinh giành được suất học chứ không phải nhờ bố nó chạy chọt, nhưng rồi trong mắt Jack nó đã trở thành một đứa con ngoan trò giỏi ngờ nghệch, một kẻ quỵ lụy trước bàn thờ tri thức chứ không phải là một thầy tu chân thành, một kẻ bề ngoài là cả bầu trời đạo đức, nhưng bên trong thì hoài nghi, không có chút thông minh thật sự nào (như hình tượng thai nghén lúc ban đầu) mà chỉ sở hữu toàn sự ranh mãnh xảo quyệt của thú vật. Trong suốt vở kịch, nó luôn luôn một dạ hai thưa với Denker, hệt như cách Jack đã dạy con trai mình khi nói chuyện với những người lớn tuổi và những người có chức có quyền. Gã tin Danny nói một cách khá chân thành, Gary Benson hồi mới được gã nghĩ ra cũng vậy; nhưng lúc bắt đầu vào Hồi V, gã càng ngày càng thêm tin chắc rằng Gary nói theo kiểu châm biếm, bề ngoài thì nghiêm túc nhưng thằng Gary Benson bên trong thì lại làm mặt móc mỉa và lườm nguýt Denker. Denker, người chưa bao giờ có bất cứ thứ gì Gary có. Denker, người đã phải làm việc cả đời chỉ để trở thành hiệu trưởng một ngôi trường nhỏ. Người bây giờ phải đối mặt với viễn cảnh thân bại danh liệt bởi thằng nhóc giàu có, đẹp trai và trông có vẻ ngây thơ này, kẻ đã gian lận trong bài luận cuối kỳ và sau đó khéo léo che giấu mọi dấu vết. Jack từng coi nhân vật thầy giáo Denker chẳng khác gì mấy tay Caesar con ở Nam Mỹ trong các vương quốc củ chuối mà mình trị vì, bắt những người bất đồng chính kiến ra đứng dựa tường sân bóng quần hay bóng ném gần nhất để xử bắn, một kẻ siêu cuồng tín trong một cái ao tương đối nhỏ mà với hắn, mọi ham muốn nhất thời đều trở thành một cuộc thập tự chinh. Ban đầu, gã đã muốn sử dụng vở kịch như một mô hình thu nhỏ để phản ánh gì đó về thói lạm quyền. Bây giờ thì gã ngày càng thấy Denker giống như nhân vật Thầy Chips [15E] và bi kịch ở đây không phải là sự dằn vặt về trí óc của Gary Benson, mà đúng hơn là sự hủy hoại dành cho một ông thầy kiêm hiệu trưởng già tốt bụng, người không nhìn thấy được những mưu mô cay độc của con quái vật giả mạo làm một cậu bé này.

Gã không thể hoàn thành vở kịch.

Bây giờ gã ngồi nhìn xuống nó, cau có mặt mày, tự hỏi liệu có cách nào cứu vãn tình hình. Gã thực sự nghĩ là không có cách nào cả. Ban đầu, gã bắt tay vào viết vở kịch này, nhưng rồi chẳng hiểu sao nó đã lại biến thành một vở kịch khác, úm ba la. Ôi, mặc xác nó. Đằng nào thì câu chuyện cũng đã từng được người khác kể rồi. Dù gì thì cũng là một mớ nhảm nhí cả. Vả lại, tại sao tối nay gã cứ phát điên lên vì nó thế? Sau cả ngày vừa rồi, việc gã không thể suy nghĩ thông suốt cũng chẳng có gì là lạ cả.

“.. đưa nó xuống núi đây?”

Gã ngước lên nhìn, cố gắng chớp mắt xua đi những rắc rối của mình. “Hả?”

“Em nói, làm sao chúng ta đưa nó xuống núi đây? Chúng ta phải đưa nó ra khỏi đây, Jack.”

Trong một khoảnh khắc, tâm trí gã phân tán đến nỗi gã thậm chí còn không rõ cô đang nói về chuyện gì. Thế rồi gã nhận ra và cười lên một tiếng cộc cằn, ngắn ngủn.

“Em nói như thể điều ấy dễ lắm vậy.”

“Ý em không phải là...”

“Không thành vấn đề, Wendy. Anh sẽ thay quần áo trong bốt điện thoại ở đại sảnh và cho nó cưỡi trên lưng mình bay đến Denver. Hồi anh còn trẻ người ta toàn gọi anh là Siêu Nhân Jack Torrance đấy.”

Vẻ tổn thương chầm chậm xuất hiện trên mặt cô.

“Em hiểu vấn đề mà, Jack. Chiếc đài bị hỏng. Tuyết đang rơi... nhưng anh phải hiểu vấn đề của Danny. Lạy Chúa, anh không hiểu à? Nó suýt nữa thì bị căng trương lực, Jack! Nhỡ hồi nãy nó không tỉnh thì sao?”

“Nhưng nó đã bình phục rồi đấy thôi,” Jack nói, có hơi cộc lốc. Tất nhiên là gã cũng đã phát hoảng trước cái tình trạng mắt vô hồn, mặt lờ đờ của Danny. Mới đầu thì thế. Nhưng càng nghĩ về nó, gã càng băn khoăn không hiểu đó có phải là một màn kịch nó bày ra nhằm trốn tội hay không. Xét cho cùng, nó đã vào phòng trái phép.

“Kể cả thế,” cô nói. Cô đến bên gã và ngồi xuống đầu giường cạnh bàn gã. Mặt cô vừa lộ vẻ ngạc nhiên, vừa lộ vẻ lo lắng. “Jack, những vết bầm tím trên cổ nó! Thứ gì đó đã tấn công nó! Và em muốn nó tránh xa cái thứ ấy!”

“Đừng có hét,” gã nói. “Đầu anh đang đau, Wendy à. Anh cũng lo lắng về vụ này chẳng kém gì em, thế nên xin làm ơn.... đừng... hét.”

“Được rồi,” cô nói, hạ giọng xuống. “Em sẽ không hét. Nhưng em không hiểu nổi anh nữa, Jack. Có ai đó đang ở đây với chúng ta. Và chẳng phải là một ai đó tử tế gì cho cam. Chúng ta phải xuống núi, đến Sidewinder, không chỉ Danny mà tất cả chúng ta. Thật khẩn trương. Và anh... anh thì cứ ngồi đó đọc vở kịch của mình!”

“ ‘Chúng ta phải xuống núi, chúng ta phải xuống núi, em cứ nói thế suốt thôi. Chắc em tưởng anh thực sự là Siêu Nhân đấy.”

“Em tưởng anh là chồng em,” cô nhẹ nhàng nói và nhìn xuống đôi bàn tay mình.

cơn giận của gã bùng lên. Gã đập mạnh tập kịch bản xuống, khiến cho các cạnh xấp giấy lại xộc xệch và mấy trang ở dưới cùng bị nhăn.

“Đã đến lúc em ngấm vào người một số sự thật rồi đấy, Wendy. Nói như dân xã hội học, thì xem chừng em chưa nội tâm hóa chúng đâu. Chúng đang chạy loạn trong đầu em như một mớ những viên bi-a tản mạn. Em cần phải đánh chúng xuống lỗ đi. Em cần phải hiểu rằng chúng ta đang bị tuyết quây kín .”

Danny đột nhiên cựa quậy trên giường. Dù vẫn đang ngủ, nó đã bắt đầu vặn vẹo và trở mình. Đúng cái kiểu nó hay làm mỗi khi bọn mình cãi nhau, Wendy rầu rĩ nghĩ. Và bọn mình lại đang làm vậy đây.

“Đừng đánh thức nó dậy, Jack. Xin anh đấy.”

Gã liếc nhìn Danny và sắc đỏ phần nào biến mất khỏi má gã. “OK. Anh xin lỗi. Xin lỗi vì anh nói năng nghe có vẻ giận dữ nhé, Wendy. Không hẳn là vì em đâu. Nhưng anh đã đập vỡ cái đài. Nếu ai đó có lỗi ở đây thì kẻ đó là anh. Đó là phương tiện quan trọng cho chúng ta kết nối với thế giới bên ngoài. Hết giờ trốn tìm rồi. Xin hãy đến đón chúng tôi đi, bác kiểm lâm ơi. Chúng tôi không thể ở ngoài đường muộn thế này.”

“Không đâu,” cô nói và đặt một bàn tay lên vai gã. Gã nghiêng đầu dựa lên nó. Cô dùng bàn tay còn lại vuốt tóc gã. “Em nghĩ anh cũng có quyền nổi nóng, sau khi em buộc tội anh như thế. Đôi khi em đúng là giống mẹ em thật. Em có thể hơi quá đáng. Nhưng anh phải hiểu rằng có một số chuyện... khó lòng mà quên đi được. Anh phải hiểu điều đó.”

“Có phải ý em là cánh tay của nó không?” Môi gã mím lại.

“Vâng,” Wendy nói, rồi cô vội vã thêm, “Nhưng không chỉ về mỗi anh đâu. Em lo sốt vó mỗi lần nó ra ngoài chơi. Em lo về việc nó muốn mua xe đạp vào năm sau, cho dù là xe có bánh tập. Em lo về răng và thị lực của nó và về thứ này, thứ mà nó gọi là thị kiến ấy. Em lo lắm. Bởi vì nó còn nhỏ và trông nó mong manh vô cùng và bởi vì... bởi vì dường như có thứ gì đó trong cái khách sạn này muốn hại nó. Và nếu cần, thứ đó sẽ diệt cả chúng ta để đến được thằng bé. Chính vì vậy mà chúng ta phải đưa nó ra khỏi đây, Jack. Em biết điều đó! Em cảm nhận được điều đó! Chúng ta phải đưa nó ra khỏi đây! ”

Trong cơn kích động, cô đã siết chặt bàn tay khiến vai gã phát đau, nhưng gã không nhích đi. Một tay gã lần thấy khối ngực trái chắc nịch của cô và gã bắt đầu vuốt ve nó qua lớp áo cô.

“Wendy,” gã nói, rồi dừng lại. Cô đợi gã sắp xếp điều mình muốn nói, bất kể đó có là gì. Bàn tay mạnh mẽ gã đặt trên ngực cô mới dễ chịu, êm dịu làm sao. “Chắc là anh có thể lấy giày đi tuyết đưa nó xuống đấy. Nó có thể tự mình đi một phần đường, nhưng chủ yếu anh sẽ phải cõng nó. Điều ấy đồng nghĩa với việc dựng trại ngoài trời một, hai, có thể ba đêm. Thế tức là phải chế một cái xe kéo để mang theo nhu yếu phẩm và túi ngủ. Chúng ta có đài AM/FM, nên có thể chọn hôm nào mà dự báo thời tiết nói là trời sẽ đẹp suốt ba ngày. Nhưng nếu đài dự đoán sai,” gã nói nốt, giọng nhẹ nhàng và thận trọng, “anh nghĩ bọn anh có thể sẽ bỏ mạng.”

Khuôn mặt cô tái nhợt. Trông nó sáng bóng, gần trong suốt như ma. Gã tiếp tục vuốt ve ngực cô, nhẹ nhàng xoa ngón cái trên núm vú.

Cô khẽ phát ra một âm thanh - gã không rõ đó là vì những gì gã nói hay đó là phản ứng trước áp lực nhẹ nhàng gã ấn lên ngực cô. Gã khẽ đưa tay lên và cởi cúc trên cùng áo cô ra. Wendy khẽ dịch chân. Bất chợt quần bò của cô có vẻ quá chật, hơi bức bối theo một kiểu dễ chịu.

“Điều ấy có nghĩa là phải để em lại đây một mình bởi vì em đi tuyết rất kém. Thế tức là ba ngày không hay không biết gì hết. Liệu em có muốn như vậy không?” Bàn tay gã hạ xuống chỗ cúc áo thứ hai, cởi nó và phần trên khe ngực cô lộ ra.

“Không,” cô nói với giọng hơi khàn. Cô liếc nhìn sang Danny. Nó đã ngừng vặn vẹo trở mình. Ngón cái nó đã rón rén chui trở lại vào miệng. Vậy là ổn rồi. Nhưng Jack đang ém nhẹm gì đó. Viễn cảnh quá ảm đạm. Còn có một thứ gì khác nữa... nhưng là gì?

“Nếu chúng ta ở yên đây,” Jack nói, cởi cúc thứ ba và thứ tư với cùng cái kiểu chậm chạp đầy chủ đích đó, “một kiểm lâm từ trong rừng hay một nhân viên bảo vệ động vật hoang dã sẽ tạt qua đây để xem tình hình chúng ta. Khi ấy, chỉ cần nói với anh ta rằng mình muốn xuống núi. Anh ta sẽ lo liệu hết.” Gã đẩy bộ ngực trần của cô ra mảng hở rộng hình chữ V trên chiếc áo sơ mi, cúi xuống và ngậm môi quanh đầu một núm vú đang căng cứng. Gã chậm rãi đưa lưỡi tới lui trên nó theo cái cách gã biết là cô thích. Wendy rên rỉ một chút và ưỡn lưng lên.

( ?Mình đã quên thứ gì nhỉ? )

“Anh yêu à?” cô hỏi. Đôi bàn tay cô tự động mò ra phía sau đầu gã, nên khi gã trả lời, giọng gã bị thịt da cô chặn lại nghèn nghẹt.

“Nhân viên kiểm lâm sẽ đưa chúng ta ra khỏi đây kiểu gì nhỉ?”

Gã hơi ngẩng đầu lên để lên trả lời rồi lại ngậm miệng vào núm vú bên kia.

“Nếu máy bay trực thăng không dùng được, anh đoán ta sẽ phải đi bằng xe trượt tuyết.”

( !!! )

“Nhưng chúng ta cũng có một xe! Ullman đã nói vậy mà!”

Miệng gã khựng lại trên ngực cô một tích tắc, rồi gã ngồi thẳng dậy. Khuôn mặt cô hơi ửng lên, mắt cô sáng quắc. Ngược lại, khuôn mặt Jack bình tĩnh, như thể gã đang đọc một cuốn sách tẻ nhạt chứ không phải mon trón vợ mình.

“Nếu có xe trượt tuyết thì không còn vấn đề gì nữa rồi,” cô hào hứng nói. “Cả ba chúng ta có thể cùng nhau đi xuống.”

“Wendy, anh cả đời chưa bao giờ lái xe trượt tuyết cả.”

“Làm gì khó học lắm đâu. Hồi ở Vermont ta còn thấy mấy đứa trẻ mười tuổi lái chúng trên các cánh đồng cơ mà... mặc dù em chẳng hiểu nổi bố mẹ bọn nó nghĩ gì nữa. Và anh có một chiếc xe máy hồi chúng ta mới gặp nhau.” Đúng thế thật, một chiếc Honda 350cc. Gã đã đổi nó lấy một chiếc Saab ngay sau khi gã và Wendy dọn vào sống cùng nhau.

“Chắc là anh có thể làm thế,” gã chậm rãi nói. “Nhưng anh không biết nó có được bảo trì tử tế không. Ullman và Watson... họ điều hành nơi này từ tháng Năm đến tháng Mười. Họ tính toán trong khung mùa hè thôi. Anh biết nó sẽ không có xăng. Có khi còn không có bugi hay ắc quy ấy chứ. Anh không muốn em nuôi hy vọng quá đà, Wendy.”

Bây giờ cô đã trở nên phấn khích hẳn, dựa vào người gã, ngực cô tuột ra khỏi áo. Gã chợt nổi hứng muốn túm lấy một bên ngực và vặn cho đến khi cô thét lên. Có lẽ làm thế sẽ giúp cô biết khôn mà im lặng.

“Xăng không phải là vấn đề,” cô nói. “Cả chiếc VW và xe tải khách sạn đều đầy bình. Máy phát điện dự phòng ở tầng dưới cũng có xăng nữa. Và chắc hẳn có một can xăng trong nhà kho để anh có thể mang theo xăng dự phòng”

“Ừ,” gã nói. “Có.” Trên thực tế là có ba can, hai can mười chín lít và một can bảy lít rưỡi.

“Em dám cá là ở ngoài đó cũng có bugi đánh lửa và ắc quy nữa. Làm gì có ai cất xe trượt tuyết ở một nơi còn bugi với ắc quy ở một nơi khác đâu, phải không?”

“Khó có khả năng ấy, phải không?” Gã đứng dậy và đi đến nơi Danny nằm ngủ. Một lọn tóc đã xõa xuống trán nó và Jack nhẹ nhàng gạt ra. Danny không cựa quậy.

“Và nếu làm cho nó chạy được, anh sẽ đưa chúng ta ra khỏi đây chứ?” cô hỏi từ phía sau gã. “Ngay ngày đầu tiên đài dự báo trời đẹp?”

Trong một tích tắc, gã không trả lời. Gã đứng nhìn xuống con trai và các xúc cảm lẫn lộn của gã bị một đợt sóng yêu thương đập tan cả. Thằng bé đúng như những gì cô đã nói, dễ bị tổn thương, mong manh. Những dấu vết trên cổ nó nổi lên rất rõ.

“Ừ,” gã nói. “Anh sẽ làm cho nó chạy được và chúng ta sẽ rời khỏi đây nhanh nhất có thể.”

“Cảm ơn Chúa!”

Gã quay lại. Cô bấy giờ đã cởi áo ra và đang nằm trên giường, bụng phẳng lì, ngực chĩa thẳng lên trần nhà. Cô uể oải chơi đùa với chúng, búng nhẹ núm vú. “Nhanh lên nào, quý ngài,” cô nhẹ nhàng nói, “đến lúc rồi.”

Sau đó, dưới ánh sáng duy nhất từ ngọn đèn đêm mà Danny đã mang từ phòng nó vào, cô gối đầu lên khuỷu tay gã, cảm thấy yên bình vô cùng. Cô thấy thật khó tin là họ lại có thể đang sống chung với một tay khách lậu khát máu trong Overlook.

"Jack?”

"Hử?”

“Thứ gì đã làm hại nó thế?”

Gã không trả lời cô trực tiếp. “Đúng là nó sở hữu một cái gì đó. Một tài năng mà những người khác không có. Xin lỗi, ý là hầu hết những người khác. Và có khi Overlook cũng sở hữu thứ gì đó.”

"Ma à?”

“Anh không biết. Chắc chắn một điều là không phải ma kiểu trong truyện Algernon Blackwood đâu. Giống kiểu tàn dư cảm xúc của những người từng lưu lại ở đây hơn. Cả tốt lẫn xấu. Nếu hiểu theo nghĩa ấy, anh tin mọi khách sạn lớn đều có những con ma cho riêng mình. Đặc biệt là những chỗ lâu đời.”

“Nhưng một người phụ nữ đã chết trong bồn tắm... Jack, không phải là nó đang mất trí đâu, đúng không?”

Gã siết nhẹ cô một thoáng. “Chúng ta biết thỉnh thoảng nó vẫn... à, tạm gọi là lên cơn xuất thần đi. Chúng ta biết rằng khi lên cơn như thế, nó đôi khi... nhìn thấy?... một số điều mà nó không hiểu. Nếu các cơn xuất thần tiên tri có tồn tại thật, chắc chúng là do hoạt động của tiềm thức. Freud nói rằng tiềm thức không bao giờ giao tiếp với chúng ta bằng ngôn ngữ bình thường. Chỉ bằng các biểu tượng thôi. Nếu em mơ về việc ở trong một tiệm bánh mà không ai nói được tiếng Anh, có thể em đang lo lắng về khả năng chu cấp cho gia đình mình. Hoặc có thể đó chỉ là không ai hiểu em cả. Anh từng đọc thấy rằng kiểu mơ thấy mình bị rơi là một phương thức tiêu chuẩn để xả đi các cảm giác bất an. Giống như những ván đấu vậy, những ván đấu nho nhỏ. Ý thức ở một bên sân, tiềm thức ở bên còn lại, chuyền tới chuyền lui một hình ảnh lố bịch nào đó. Tương tự với bệnh tâm thần thôi, với linh cảm nữa, tất cả những thứ ấy. Cớ gì mà khả năng tiên đoán lại phải khác chứ? Có lẽ Danny thực sự đã nhìn thấy máu vấy trên khắp các bức tường của Suite Tổng Thống. Đối với một đứa trẻ ở tầm tuổi nó, hình ảnh máu me và khái niệm về cái chết gần như trùng lặp với nhau. Đằng nào thì đối với bọn trẻ con, hình ảnh cũng luôn dễ hiểu hơn so với khái niệm. William Carlos Williams biết điều đó, ông ta là một bác sĩ nhi khoa. Khi chúng ta lớn lên, các khái niệm dần trở nên dễ hiểu hơn và chúng ta nhường hình ảnh lại cho nhà thơ... và anh đang nói lan man mất rồi.”

“Em thích nghe anh nói lan man mà.”

“Chính miệng cô ấy nói đấy nhé, thưa quý vị. Chính miệng cô ấy nói đấy nhé. Mọi người đều đã nghe thấy rồi đấy.”

“Những cái vết trên cổ nó, Jack à. Chúng tồn tại thật.”

“Đúng.”

Suốt một hồi lâu, chẳng có gì được nói thêm cả. Cô vừa bắt đầu nghĩ hẳn gã đã lăn ra ngủ và bản thân cô cũng đang gà gật, thì gã nói, “Anh có thể nghĩ ra hai lời giải thích cho chúng. Và không lời giải thích nào có liên quan đến một bên thứ tư có mặt trong khách sạn cả.”

“Hả?” Cô chống một cùi chỏ, nhổm người dậy.

“Có khi là dấu Thánh đấy,” gã nói.

“Dấu Thánh? Có phải đó là hiện tượng có người chảy máu vào Thứ Sáu Tuần Thánh không?”

“Ừ. Đôi khi trên tay và chân những người tin tưởng sâu sắc vào sự thần diệu của Chúa Kitô sẽ xuất hiện các vết chảy máu trong Tuần Thánh. Thời Trung Cổ nó phổ biến hơn bây giờ. Hồi ấy, những người như vậy được coi là đã được Chúa ban phước lành. Anh nghĩ rằng Giáo hội Công giáo chẳng tuyên bố trường hợp nào thực sự là phép lạ cả, khôn ngoan phết đấy. Dấu Thánh không khác mấy so với một số việc mà các yogi có thể làm đâu. Bây giờ người ta đã hiểu rõ về nó hơn, chỉ vậy thôi. Những người hiểu được sự tương tác giữa tâm trí và cơ thể - ý anh là nghiên cứu về nó, chứ làm gì có ai hiểu nổi - tin rằng chúng ta có thể kiểm soát các hoạt động vô thức của mình nhiều hơn những gì người ta từng nghĩ. Em có thể làm chậm nhịp tim mình lại nếu đủ tập trung nghĩ về việc đó. Hay tăng tốc độ trao đổi chất trong cơ thể. Hay khiến mình đổ mồ hôi nhiều hơn. Hay làm cho mình chảy máu.”

“Anh nghĩ Danny làm những vết bầm tím xuất hiện trên cổ bằng cách nghĩ về chúng ư? Jack, em không tin nổi đâu.”

“Anh có thể tin việc đó là khả thi, mặc dù anh cũng thấy khả năng xảy ra không cao. Khả năng hợp lý hơn là nó tự gây ra cho bản thân.”

“ Tự gây ra cho bản thân?”

“Hồi trước nó từng lên cơn ‘xuất thần’ và tự làm tổn thương mình rồi. Em có nhớ cái lần bên bàn ăn tối không? Anh nghĩ là khoảng hai năm trước. Chúng ta đã rất giận nhau. Không ai nói năng gì mấy. Thế rồi, bất thình lình, mắt nó trợn ngược và nó cắm thẳng mặt vào bữa tối của mình. Sau đó ngã lăn ra sàn. Nhớ không?”

“Vâng,” cô nói. “Em nhớ chứ. Em cứ tưởng nó bị co giật.”

“Có một lần nữa bọn anh ở trong công viên,” gã nói. “Chỉ Danny và anh. Chiều thứ Bảy. Nó lúc ấy đang ngồi trên một chiếc xích đu, đong đưa tới lui. Nó ngã gục xuống đất. Cứ như thể nó vừa bị bắn. Anh chạy đến bế nó lên và đột nhiên nó bừng tỉnh. Nó chớp mắt nhìn anh và nói, Con bị đau bụng. Nhắn mẹ hãy đóng cửa sổ phòng ngủ lại nếu trời mưa. Và đêm đó trời mưa như trút nước.”

“Vâng, nhưng…”

“Và nó luôn về nhà với đủ vết trầy xước trên cùi chỏ. Cẳng chân nó trông cứ như một bãi chiến trường đang trong thế hiểm nghèo. Và khi em hỏi làm sao mà nó bị thế này thế kia, nó chỉ nói là, ‘À, con chơi ấy mà,’ chấm hết.”

“Jack, trẻ con đứa nào chẳng bị va đập bầm tím. Với bọn con trai thì chuyện ấy xảy ra như cơm bữa, kể từ khi chúng tập đi cho đến lúc mười hai hoặc mười ba tuổi.”

“Và anh tin Danny cũng nhiều lần bị như thế,” Jack trả lời. “Nó là một đứa trẻ năng động. Nhưng anh nhớ cái ngày trong công viên và cái đêm bên bàn ăn tối đó. Và anh tự hỏi có lẽ nào một số vết sưng và bầm tím của thằng quý tử nhà mình chỉ đơn thuần là do té ngã. Lạy Chúa, cái ông bác sĩ Edmonds đấy đã nói Danny làm thế ngay trong văn phòng ông ta còn gì nữa!”

“Được rồi. Nhưng những vết bầm này là vết ngón tay . Em xin thề. Nó không bị thế vì ngã đâu.”

“Nó lên cơn xuất thần,” Jack nói. “Có khi nó nhìn thấy chuyện từng xảy ra trong căn phòng đó. Một cuộc tranh cãi. Chưa biết chừng là một vụ tự sát. Những cảm xúc mãnh liệt. Không giống như xem phim đâu; nó ở trong trạng thái rất dễ bị ảnh hưởng. Nó ở ngay trong cái khung cảnh chết tiệt đó. Có khi tiềm thức nó hình dung điều đã xảy ra - dù điều đó có là gì - dưới dạng biểu tượng... như một người phụ nữ đã chết sống lại, thây ma, xác sống, ma cà rồng, em thích gọi thế nào cũng được.”

“Anh đang làm em nổi da gà đấy,” cô khàn giọng nói.

“Anh cũng đang làm bản thân nổi da gà đây. Anh không phải là bác sĩ tâm lý, nhưng điều đó có vẻ hợp lý lắm. Thây ma người phụ nữ là một biểu tượng cho những xúc cảm đã chết, những cuộc đời đã chết mà dứt khoát không chịu buông bỏ và biến mất... nhưng bởi vì bà ta là một nhân vật trong tiềm thức, nên bà ta cũng chính là thằng bé . Trong trạng thái xuất thần, Danny tỉnh táo bị nhấn chìm. Nhân vật trong tiềm thức nắm quyền điều khiển. Thế là Danny đưa hai tay lên cổ mình và...”

“Dừng lại đi,” cô nói. “Em hiểu đại ý rồi. Em nghĩ điều đó còn đáng sợ hơn là có một người lạ lẩn lút trên các hành lang, Jack ạ. Ta có thể chạy trốn một người lạ. Ta không thể chạy trốn chính mình. Anh đang nói đến tâm thần phân liệt.”

“Một dạng rất hạn chế thôi,” gã nói, nhưng có hơi không thoải mái. “Và là một dạng rất đặc biệt nữa. Bởi vì dường như nó có thể đọc suy nghĩ, thỉnh thoảng dường như nó thật sự nhìn thấy một số khung cảnh tương lai. Anh không thể coi đó là bệnh tâm thần, bất kể có cố gắng thế nào. Đằng nào thì tất cả chúng ta cũng đều có chút tâm thần tích tụ trong người. Anh nghĩ khi Danny lớn lên, nó sẽ kiểm soát được vụ này.”

“Nếu anh nói đúng, chúng ta cần khẩn cấp đưa nó ra khỏi đây. Bất kể nó có bị gì, cái khách sạn này cũng đang làm cho nó bị nặng hơn.”

“Anh nghĩ không phải đâu,” gã phản đối. “Nếu nó nghe lời thì ngay từ đầu nó đã chẳng đi lên căn phòng đó rồi. Chuyện này đáng lẽ chẳng bao giờ xảy ra.”

“Lạy Chúa, Jack! Có phải ý anh muốn nói suýt bị siết cổ là một... một hình phạt phù hợp cho việc vào nơi cấm à?”

“Không… không. Dĩ nhiên là không rồi. Nhưng…”

“Không nhưng nhị gì cả,” cô nói, lắc đầu nguầy nguậy. “Sự thật là hai ta đang đoán già đoán non. Chúng ta không biết khi nào nó có thể rẽ qua một khúc quanh và lại rơi vào một trong những cơn... chấn động đó, một trong những cuốn phim kinh dị đó, là gì cũng được. Chúng ta phải đưa nó ra khỏi đây.” Cô khẽ cười trong bóng tối. “Tiếp theo sẽ đến lượt em và anh bị ảo giác mất.”

“Đừng nói chuyện vớ vẩn,” gã nói và, trong bóng tối căn phòng, gã nhìn thấy những con sư tử cây cảnh tụ tập quanh lối đi, không còn đứng ở hai bên nữa mà chuyển sang án ngữ, những con sư tử tháng Mười một háu đói. Mồ hôi lạnh toát ra trên trán gã.

“Anh thực sự không nhìn thấy bất cứ thứ gì chứ?” cô đang hỏi. “Ý em là, khi anh đi lên căn phòng đó ấy. Anh không nhìn thấy gì à?”

Những con sư tử đã biến mất. Giờ thì gã nhìn thấy một tấm màn che bồn tắm màu hồng phấn với hình thù tăm tối nằm ườn ra ở phía sau. Cánh cửa đóng kín. Cái tiếng thụp nghèn nghẹt, vội vã, những âm thanh rất có thể là tiếng chân chạy vang lên sau đó. Trái tim đập điên cuồng, kinh khủng, như muốn vọt ra ngoài lồng ngực trong khi gã lóng ngóng với chiếc chìa khóa tổng.

“Không thấy gì cả,” gã nói, đó là sự thật. Gã lúc ấy quá căng thẳng, không rõ chuyện gì đang xảy ra. Gã không có cơ hội sàng lọc suy nghĩ để tìm ra một lời giải thích hợp lý cho những vết bầm tím trên cổ con trai gã. Bản thân gã cũng rất dễ bị ảnh hưởng. Ảo giác đôi khi có thể lây lan.

“Và anh vẫn chưa đổi ý chứ? Ý em là về vụ chiếc xe trượt tuyết ấy?”

Đôi bàn tay gã bất chợt siết chặt thành nắm đấm

( Đừng có quấy rầy tôi nữa! )

ở hai bên sườn. “Anh đã nói là sẽ làm mà, phải không? Anh sẽ làm. Bây giờ thì đi ngủ đi. Ta đã có một ngày dài, vất vả rồi.”

“Đúng vậy,” cô nói. Có tiếng đồ ngủ sột soạt khi cô quay sang và hôn lên vai gã. “Em yêu anh, Jack.”

“Anh cũng yêu em,” gã nói, nhưng chỉ là nhép môi không thành lời. Đôi bàn tay gã vẫn siết thành nắm đấm. Gã cảm thấy chúng như hai tảng đá ở đầu cánh tay. Mạch đập thình thịch trên trán gã. Cô chưa đả động gì đến những gì sẽ xảy ra với họ sau khi họ xuống núi, khi bữa tiệc kết thúc. Không một lời. Chỉ toàn Danny thế này Danny thế kia và Jack ơi em sợ quá. Ồ vâng, cô sợ đủ thứ như là ông kẹ trong tủ quần áo, sợ bóng sợ gió, sợ rất nhiều. Nhưng cũng không thiếu những thứ đáng sợ thực sự. Khi đã đến Sidewinder rồi, họ sẽ chỉ có mươi đô mang theo bộ quần áo mặc trên người. Thậm chí còn không có cả một chiếc xe hơi. Ngay cả khi Sidewinder có hiệu cầm đồ - mà thực tế là nó không có - họ cũng chẳng có gì để đem cầm ngoài chiếc nhẫn đính hôn bằng kim cương trị giá chín mươi đô la của Wendy và cái đài phát thanh Sony AM/FM. Một chủ hiệu cầm đồ có thể cho họ hai mươi đô. Một chủ hiệu cầm đồ tốt bụng . Sẽ không có việc làm gì hết, kể cả bán thời gian hoặc theo thời vụ, có lẽ là trừ công việc xúc tuyết dọn đường trước nhà với giá ba đô la mỗi lần. Hình ảnh John Torrance: ba mươi tuổi, từng có truyện đăng trên Esquire và từng ấp ủ ước mơ trở thành một nhà văn lớn của Mỹ trong thập kỷ tiếp theo, mà gã thấy hoàn toàn không phải là ước mơ gì vô lý - vác trên vai một cái xẻng mua từ cửa hàng Western Auto ở Sidewinder, tay nhấn chuông cửa... hình ảnh đó đột nhiên hiện lên trong đầu gã rõ ràng hơn nhiều so với những con sư tử cây cảnh và gã siết chặt tay hơn, cảm thấy móng găm vào lòng bàn tay khiến máu ứa ra theo những hình trăng khuyết huyền bí. John Torrance: đứng xếp hàng để đổi sáu mươi đô thành tem phiếu thực phẩm, đứng xếp hàng một lần nữa tại Nhà thờ Giám lý Sidewinder để nhận hàng hóa quyên góp lẫn những ánh mắt khinh mạn từ người dân địa phương. John Torrance: giải thích với Al rằng họ buộc phải rời đi, buộc phải tắt lò hơi, buộc phải bỏ mặc Overlook và tất cả những gì chứa đựng bên trong cho những kẻ phá hoại hoặc đám đạo chích cưỡi xe đi tuyết bởi vì, vấn đề là thế này, Al à, attendez-vous - anh nghe nhé, Al, trên đó có ma và chúng muốn hại thằng con tôi. Tạm biệt, Al. Hãy nghĩ về Chương bốn: Xuân về với John Torrance. Khi ấy thì sao? Khi ấy thì sao nào? Gã tin họ có thể đến Bờ Tây trong chiếc VW. Kiếm một cái bơm nhiên liệu mới là được. Từ đây đi tám mươi cây số về phía Tây nữa là đường đi sẽ toàn là xuống dốc thôi, đến mức gần như có thể cho xe về số lửng và đến Utah. Đến California đầy nắng, vùng đất đầy cam và cơ hội. Một người với thành tích nghiện rượu, đánh đập học sinh và rượt đuổi những thứ phi thực xuất sắc như gã, chắc chắn có thể tha hồ chọn việc. Bất cứ gì gã thích. Kỹ sư giám sát - điều phối xe buýt Greyhound. Ngành ô tô - rửa xe trong một bộ đồ cao su. Có thể là tham gia lĩnh vực ẩm thực, rửa bát trong một quán ăn. Hoặc có thể là một vị trí phải gánh vác trách nhiệm hơn, chẳng hạn như đi bơm xăng. Một công việc như thế thậm chí còn có thể giúp kích thích trí óc hoạt động vì phải đổi tiền lẻ và viết phiếu ghi nợ. Tôi có thể cho anh làm hai mươi lăm giờ một tuần với mức lương tối thiểu . Một khoản tiền béo bở trong một năm mà bánh mì Wonder Bread có giá sáu mươi xu một ổ.

Máu đã bắt đầu nhỏ xuống từ lòng bàn tay gã. Giống như dấu Thánh, đúng rồi. Gã siết chặt hơn, tự làm mình đau đớn. Vợ gã đang say ngủ bên cạnh, sao lại không chứ? Không có vấn đề gì cả. Gã đã đồng ý đưa cô và Danny tránh xa khỏi ông kẹ xấu xa, không có vấn đề gì cả. Thế nên anh thấy đấy, Al, tôi nghĩ điều tốt nhất nên làm là.. .

( giết cô ta. )

Ý nghĩ ấy tự nhiên trồi lên, trần trụi và không màu mè. Ham muốn được thúc cô ngã nhào khỏi giường, trong lúc cô trần truồng, ngơ ngác, mới chớm tỉnh dậy; được vồ lấy cô, nắm lấy cổ cô như nắm cành xanh một cây dương non, được siết cổ cô, ngón cái đè trên khí quản, các ngón tay bấm vào cột sống cổ, giật đầu cô lên rồi đập nó xuống ván sàn, đập lên đập xuống, giộng, vụt, quật, nện. Đu đưa đi cưng. Xóc, lắc và nẩy tưng. Gã sẽ cho cô no đòn. Ăn đòn đã đời. Ăn cho đẫy bụng mới thôi.

Gã lờ mờ ý thức được một âm thanh nghèn nghẹt ở đâu đó, ngay bên ngoài thế giới nội tâm đang hừng hực cuồng loạn của gã. Gã nhìn sang bên kia căn phòng và thấy Danny lại đang vùng mình, vặn vẹo trên giường nó làm nhàu chăn. Thằng bé đang rên rỉ sâu trong cổ họng, một âm thanh nhỏ, bị kìm hãm. Cơn ác mộng gì thế? Một người phụ nữ tím tái, đã chết từ lâu, loạng choạng đuổi theo nó dọc những nhánh hành lang ngoằn ngoèo của khách sạn? Chẳng hiểu sao gã nghĩ là không phải. Một thứ gì khác đang đuổi theo Danny trong giấc mơ. Một thứ tồi tệ hơn.

Cái ổ khóa cay độc kìm giữ cảm xúc gã bị phá vỡ. Gã ra khỏi giường và đi đến bên thằng bé, cảm thấy muốn bệnh và xấu hổ về bản thân. Người mà gã phải nghĩ đến là Danny, không phải Wendy, không phải bản thân gã. Chỉ mình Danny. Và dù có nhào nặn sự thật theo kiểu gì, trong thâm tâm, gã vẫn biết rằng Danny phải được đưa ra khỏi đây. Gã vuốt thẳng chăn và đắp thêm chăn từ chân giường lên cho thằng bé. Danny đã im lặng trở lại. Jack chạm vào vầng trán say ngủ

(những con quái vật gì đang nhảy nhót ngay bên dưới vầng xương đó?)

và thấy ấm, nhưng không quá ấm. Và nó lại ngủ yên rồi. Kỳ thật.

Gã trở lại giường và cố gắng ngủ. Mãi mà không làm được.

Thật không công bằng là mọi thứ lại đến nông nỗi này - vận rủi dường như cứ đeo đẳng bám theo họ. Rốt cuộc thì họ đã không thể cắt đuôi được nó bằng cách đến đây. Chiều mai khi họ xuống được Sidewinder rồi, thì cơ hội ngàn năm có một cũng đã tan thành mây khói - giã từ cuộc chơi giống như cái mốt đi giày da lộn màu xanh, như một người bạn cùng phòng cũ của gã hay nói. Hãy thử xem xét có gì khác biệt nếu họ không xuống núi, nếu họ bằng cách nào đó chịu đựng được đến cuối. Vở kịch sẽ được hoàn tất. Không cách này thì cách khác, gã sẽ gán cho nó một cái kết. Sự không chắc chắn mà gã đang ôm ấp về các nhân vật có thể điểm thêm cho cái kết gốc một nét mơ hồ thú vị. Có lẽ nó còn giúp gã kiếm được chút tiền, cũng không phải điều gì quả vô lý. Ngay cả khi không được như vậy, Al vẫn có thể thuyết phục Hội đồng quản trị Stovington thuê lại gã. Tất nhiên gã sẽ phải làm trên danh nghĩa tập sự, có khi đến tận ba năm, nhưng nếu có thể tránh xa rượu và tiếp tục viết, biết đâu gã sẽ không phải ở lại Stovington cả ba năm. Tất nhiên là trước đây gã chẳng thiết tha mấy với Stovington, gã cảm thấy ngột ngạt, như bị chôn sống, nhưng đó là một phản ứng thiếu chín chắn. Thêm nữa, con người ta có thể yêu thích việc giảng dạy đến mức nào khi cứ cách một hoặc hai ngày là lại phải đứng giảng ba tiết đầu tiên với một cơn váng vất muốn nổ sọ? Sẽ không như vậy nữa đâu. Gã sẽ có thể cáng đáng trách nhiệm của mình một cách tử tế hơn hẳn. Gã tin chắc như vậy.

Đâu đó giữa những suy nghĩ ấy, mọi thứ bắt đầu rã ra và gã dần thiếp đi. Suy nghĩ cuối cùng bám theo gã vào giấc ngủ như một tiếng chuông:

Dường như gã có thể tìm thấy sự bình yên ở đây. Cuối cùng cũng được. Nếu họ chịu để gã làm thế .

Khi tỉnh dậy, gã đang đứng trong phòng tắm phòng 217.

(đã lại mộng du rồi - tại sao? - ở đây làm gì có đài nào để đập vỡ)

Đèn phòng tắm bật sáng, căn phòng đằng sau gã chìm trong bóng tối. Tấm màn che bồn tắm bấy giờ được kéo quanh che lấy cái bồn tắm dài chân quỳ. Tấm thảm bên cạnh nó nhăn nheo và ẩm ướt.

Gã bắt đầu thấy sợ, nhưng chính cái cảm giác như trong mơ của nỗi sợ mách bảo gã rằng đây không phải thế giới thực. Vậy nhưng điều đó vẫn không thể ngăn cản nỗi sợ ấy. Rất nhiều thứ ở Overlook chẳng khác nào giấc mơ.

Gã bước đến bên bồn tắm, không muốn nhưng không thể quay bước đi.

Gã kéo tung tấm rèm ra.

Nằm trần truồng trong bồn tắm, xoãi ra gần như lửng lơ không trọng lượng trong làn nước, là George Hatfield, với một con dao găm trên ngực nó. Làn nước xung quanh nó nhuốm một màu hồng tươi. Đôi mắt George nhắm nghiền. Dương vật nó èo uột đong đưa, cứ như tảo bẹ.

"George..."; gã nghe thấy bản thân nói.

Ngay sau cái tên ấy, đôi mắt George mở bùng ra. Chúng màu bạc, hoàn toàn không phải mắt người. Hai bàn tay trắng phớ như cá của George tìm thấy hai bên thành bồn và nó kéo mình ngồi lên. Con dao tòi thẳng ra từ ngực nó, cách đều giữa hai núm vú. Vết thương không có miệng.

“Thầy đặt đồng hồ bấm giờ sớm hơn lên,” George mắt bạc nói với gã.

“Không, George, thầy không làm thế. Thầy...”

“Em không nói lắp.”

George giờ đã đứng dậy, vẫn nhìn gã với ánh mắt bạc phi nhân đó, nhưng miệng nó đã nhếch lên thành một nụ cười chết chóc và nhăn nhó. Nó vung một chân qua thành bồn tắm sứ. Một bàn chân trắng nhăn nheo đặt xuống tấm thảm.

“Đầu tiên thầy định tông em khi em đang đạp xe rồi thầy đặt sớm đồng hồ bấm giờ và sau đó thì thầy định đâm chết em nhưng em vẫn không nói lắp .” George đang tiến về phía gã, đôi bàn tay nó chìa ra, ngón tay hơi khoằm lại. Nó có mùi mốc meo và ẩm ướt, chẳng khác nào lá bị mưa trút lên.

“Chỉ để tốt cho mày thôi,” Jack nói, bước lùi lại. “Tao đặt sớm đồng hồ chỉ vì muốn tốt cho mày thôi. Thêm nữa, tình cờ thì tao biết mày đã gian lận trong bài thi cuối kỳ.”

“Em không gian lận... và em không nói lắp.”

Đôi bàn tay George chạm vào cổ gã.

Jack quay người bỏ chạy, chạy với sự chậm chạp trôi nổi, không trọng lượng vẫn thường thấy trong những giấc mơ.

“Mày đã làm thế! Mày đã gian lận!” gã gào lên vì sợ hãi và tức giận khi băng qua phòng ngủ/khách tối om. “Tao sẽ chứng minh điều đó!”

Tay của George lại đặt trên cổ gã. Nỗi sợ bơm căng trái tim Jack cho đến khi gã tin rằng nó sẽ vỡ tung. Thế rồi, cuối cùng, bàn tay gã khép lại được quanh nắm đấm cửa và nó vặn mình dưới tay gã và gã kéo tung cánh cửa ra. Gã lao ra, không phải vào hành lang tầng hai, mà vào căn phòng bên kia cổng vòm dưới tầng hầm. Ngọn đèn phủ đầy mạng nhện đang bật sáng. Ở bên dưới nó, chiếc ghế xếp của gã, trơ trụi và cân đối. Xung quanh là một dãy núi nhỏ hình thành từ hộp và thùng và các bó hồ sơ và hóa đơn và có trời mới biết còn những gì khác nữa. Cảm giác nhẹ nhõm dâng trào trong lòng gã.

“Tao sẽ tìm thấy nó!” gã nghe mình hét lên. Gã túm lấy một hộp các tông ẩm ướt và mốc meo; nó nát toang trong tay gã, làm tuôn ra một thác giấy mỏng màu vàng. “Nó ở đâu đó trong này! Tao sẽ tìm thấy nó! ” Gã thọc sâu hai tay vào trong đống giấy tờ và lôi ra một tổ ong khô, xốp như giấy ở một bên tay và một chiếc đồng hồ bấm giờ ở tay còn lại. Chiếc đồng hồ bấm giờ đang kêu tích tắc. Gắn vào lưng nó là một đoạn dây và gắn vào đầu dây kia là một bó thuốc nổ. “Đây!” gã hét lên. “Đây, nhận lấy nó đi! ”

Cảm giác nhẹ nhõm của gã chuyển thành đắc thắng tuyệt đối. Gã không chỉ thoát khỏi George; gã đã chế ngự nó. Với những thứ bùa hộ mệnh này trong tay gã, George sẽ không bao giờ động được vào gã nữa. George sẽ kinh hãi bỏ chạy.

Gã vừa định quay người lại để đương đầu với George thì tay George đã vòng qua cổ gã, siết chặt, khiến gã không thở nổi, chắn nghẹt hoàn toàn đường hô hấp của gã sau một cú hổn hển cuối cùng.

“Em không nói lắp,” George thì thầm từ phía sau gã.

Gã buông rơi cái tổ ong và ong vò vẽ túa ra khỏi đó như một làn sóng giận dữ màu nâu-vàng. Phổi gã bỏng rát. Ánh mắt đang dần mờ đi nhìn chiếc đồng hồ bấm giờ và cảm giác đắc thắng lại dâng lên, cùng với một làn sóng thịnh nộ công bình. Thay vì nối đồng hồ bấm giờ với khối thuốc nổ, sợi dây dẫn đến cái đầu vàng của một cây gậy đen chắc nịch, giống như cây gậy mà bố gã từng mang sau vụ tai nạn với chiếc xe chở sữa.

Gã nắm lấy nó và sợi dây bung ra. Gã cảm thấy cây gậy trong đôi bàn tay mình sao mà nặng và vừa vặn quá. Gã vung nó ra sau. Trên đường vung, nó quệt phải sợi dây treo bóng đèn và ngọn đèn bắt đầu lắc qua lắc lại, làm cho những cái bóng bao trùm căn phòng đong đưa dữ dội trên sàn lẫn tường. Trên đường vụt xuống, cây gậy đập trúng thứ gì đó cứng hơn nhiều. George hét lên. Nắm tay trên cổ họng Jack nới lỏng.

Gã vùng ra khỏi thế ghì của George và quay lại. George bấy giờ đang khuỵu gối, đầu cúi xuống, hai tay đan vào nhau trên đỉnh đầu. Máu chảy qua các ngón tay nó.

"Xin thầy," George khúm núm thì thầm. “Tha cho em đi, thầy Torrance.”

“Bây giờ thì mày sẽ phải chịu phạt,” Jack lầm bầm. “Thề có Chúa, giờ mày sẽ no đòn. Quân chó đẻ. Đồ chó con vô dụng. Thề có Chúa, ngay bây giờ. No đòn. Ăn cho đẫy thì thôi!”

Trong khi ngọn đèn lắc lư trên đầu và những cái bóng nhảy nhót xôn xao, gã bắt đầu vụt cây gậy, giáng xuống hết lần này đến lần khác, cánh tay gã trồi lên thụp xuống như một cái máy. Những ngón tay đẫm máu George đưa lên che chắn buông xuống khỏi đầu nó và Jack lia lịa giáng gậy, xuống cả cổ và vai và lưng và cánh tay nó. Chỉ có điều cây gậy không còn thực sự là gậy nữa; nó trông như một cái vồ với tay cầm có sọc sáng màu. Một cái vồ với mặt cứng và mặt mềm. Đầu vồ vón đầy máu và tóc. Âm thanh bôm bốp dứt khoát khi cái vồ đập vào thịt da đã bị thay thế bởi một tiếng thình thình trống rỗng, vang dội khắp nơi. Giọng nói của chính gã cũng đã trở nên giống thế, vang rền như sấm, không thân xác. Ấy nhưng, ngược đời thay, nó cũng nghe có vẻ yếu ớt hơn, lè nhè, cục cằn... như thể gã đang say rượu.

Thân hình quỳ gối chậm rãi ngẩng đầu lên, như thể đang cầu xin. Nói cho đúng thì trên đấy không có khuôn mặt nào, mà chỉ là một lớp mặt nạ máu với cặp mắt nhìn xuyên qua. Gã lại vung cái vồ ra sau định giáng xuống một đòn rít gió chốt hạ và, chỉ sau khi nó đã được vung tới, gã mới thấy rằng khuôn mặt tha thiết cầu xin bên dưới không phải là George mà là Danny. Đó là khuôn mặt của con trai gã.

“Bố... ”

Và rồi cái vồ đập trúng mục tiêu, thẳng vào giữa hai mắt Danny, khiến chúng vĩnh viễn nhắm lại. Và dường như có thứ gì đang cười ha hả đâu đó...

( !Không! )

Gã bừng tỉnh trong tình trạng trần truồng đứng bên giường của Danny, hai bàn tay trống không, cơ thể bóng loáng mồ hôi. Tiếng hét cuối cùng ấy chỉ vang lên trong tâm trí gã. Gã lại cho phép nó cất lên, lần này là một tiếng thì thầm.

“Không. Không, Danny. Không bao giờ.”

Gã trở lại giường trên đôi chân đã hóa thành cao su. Wendy đang say ngủ. Đồng hồ trên bàn ngủ cho biết lúc này đã là năm giờ kém mười lăm. Gã nằm thao thức cho đến bảy giờ, khi Danny bắt đầu cựa quậy. Thế rồi gã vắt chân qua mép giường và bắt đầu mặc quần áo. Đã đến lúc đi xuống dưới kiểm tra lò hơi.