Chương 33 Chiếc xe trượt tuyết
Quá nửa đêm một chút, trong lúc tất cả bọn họ còn đang chập chờn ngủ không yên thì ngoài trời, tuyết đã ngừng rơi sau khi đổ thêm hai mươi phân tuyết mới nữa lên trên lớp cũ. Mây đã tan, một làn gió trong lành đã cuốn chúng đi, Jack bây giờ đang đứng trong một thỏi nắng vàng đầy bụi, chiếu xiên qua ô cửa sổ bẩn thỉu gắn trên phần tường phía Đông kho dụng cụ.
Nơi này dài ngang một toa tàu chở hàng và cao cũng cỡ đó. Không khí ám đầy mùi dầu mỡ và xăng dầu lẫn mùi cỏ ngọt thoang thoảng, đầy hoài cổ. Bốn máy cắt cỏ điện xếp thành hàng bên bức tường phía Nam, như lính đang duyệt binh, hai trong số đó là loại ngồi lái trông như máy kéo nhỏ. Bên trái chúng là mấy cái máy khoan đất, những chiếc xẻng lưỡi tròn được thiết kế để tinh chỉnh sân gôn, một cái cưa xích, vài máy tỉa cây chạy điện và một cột thép thon dài có gắn cờ đỏ ở trên cùng. Này cậu phục vụ, lấy bóng cho tôi trong vòng mười giây thì cậu sẽ được hai lăm xu. Vâng, thưa ngài .
Dựa sát bức tường phía Đông, nơi mặt trời buổi sáng chiếu xiên xuống rực rỡ nhất, là ba bàn chơi bóng bàn dựa vào nhau như một tháp lá bài say xỉn. Lưới của chúng đã bị gỡ và giờ đang rủ xuống từ ngăn kệ bên trên. Trong góc là một chồng bóng đĩa cho trò đẩy bóng và một bộ dụng cụ chơi bóng cửa - mớ cọc làm cửa được buộc lại với nhau bằng dây, những quả bóng sơn màu rực rỡ thì được đựng trong một thùng giống như thùng đựng trứng (ở đây anh nuôi gà gì lạ quá, Watson... vâng, thế thì anh phải nhìn lũ thú ở bãi cỏ trước ấy, ha ha), rồi đến vỏ đánh bóng, hai bộ tất cả, dựng trong giá đỡ.
Gã bước tới chỗ chúng, bước qua một cục ắc quy tám pin cũ (chắc chắn từng có thời nằm dưới mui chiếc xe tải khách sạn) và một bộ sạc ắc quy cùng một cặp cáp nối J. C. Penney cuộn lại chính giữa. Gã lôi một cái vồ cán ngắn ra khỏi giá ngoài và giơ nó lên trước mặt, giống như một hiệp sĩ chuẩn bị lên đường ra trận đang chào đức vua.
Những mảnh giấc mơ đêm qua (lúc này như một mớ bòng bong đang dần mờ nhạt) xuất hiện trở lại, điều gì đó liên quan đến George Hatfield và cây gậy của bố gã; chúng trở lại chỉ vừa đủ để khiến gã cảm thấy không thoải mái và, lố bịch thay, còn hơi tội lỗi nữa, khi mà gã cầm trên tay một cái vồ đánh bóng cũ đơn giản hết sức phổ thông. Mặc dù bóng cửa không còn là một trò phổ thông mấy nữa; người họ hàng hiện đại hơn của nó, bóng vồ, giờ đã phổ biến hơn rất nhiều... lại còn là một phiên bản trẻ con nữa chứ. Tuy nhiên, bóng cửa... trước đây hẳn phải là một trò chơi thú vị. Jack đã tìm thấy một cuốn hướng dẫn luật chơi mốc meo dưới tầng hầm, từ một trong những năm đầu thập niên hai mươi, khi một Giải đấu Bóng Cửa Bắc Mỹ được tổ chức tại Overlook. Một trò chơi thú vị.
( tâm thần phân liệt )
Gã hơi nhíu mày, rồi mỉm cười. Phải, đây là một kiểu trò chơi phân liệt. Cái vồ đã thể hiện hoàn hảo điều đó. Một đầu mềm mại và một đầu cứng. Một trò chơi đòi hỏi sự tinh tế và khả năng nhắm mục tiêu, đồng thời cũng là một trò cần đến sức mạnh thô, lực vụt.
Gã quất cái vồ trong không khí... vvvvùùùù . Gã khẽ mỉm cười trước cái tiếng rít gió mạnh mẽ mà nó phát ra. Thế rồi gã trả nó vào trong giá và quay sang trái. Thứ gã thấy ở đó khiến gã lại nhíu mày.
Chiếc xe trượt tuyết nằm gần như ngay giữa kho dụng cụ, một chiếc xe khá mới, nhưng Jack chẳng chút quan tâm đến vẻ ngoài. Trên mặt bên vỏ nắp động cơ, phần đối diện với gã, là dòng chữ Bombardier Ski-Doo màu đen xếch ngược ra sau, chắc là để thể hiện tốc độ. Các ván trượt nhô ra cũng màu đen. Có các viền trang trí màu đen ở hai bên trái phải vỏ nắp, thứ này ở trên xe thể thao thì sẽ được gọi là sọc đua, dùng để phân biệt xe trên đường đua. Nhưng màu sơn chính lại là một màu vàng tươi đầy nhạo báng, đó chính là điều gã không thích ở nó. Ngồi đó giữa luồng nắng sớm, với tấm thân màu vàng có viền đen, ván trượt đen, cùng khoang lái mở được bọc đệm đen, trông nó khác gì một con ong máy khủng bố đâu. Khi chạy, nó cũng sẽ phát ra những âm thanh hệt như vậy. Ù ù, vo ve, chỉ chực châm chích. Nhưng xét cho cùng, nó phải trông như thế nào nữa đây? Ít nhất thì nó cũng không giấu giếm bản chất thật. Vì khi nó xong việc mình rồi, họ sẽ bị tổn thương nặng nề. Tất cả bọn họ. Khi xuân đến, gia đình Torrance sẽ bị tổn thương nặng nề đến nỗi những gì bọn ong vò vẽ đã gây ra cho tay Danny sẽ chẳng khác nào nụ hôn mẹ tặng.
Gã rút chiếc khăn tay từ túi sau ra, lau miệng rồi đi đến bên chiếc Ski-Doo. Gã đứng nhìn xuống nó, cái nhíu mày giờ đã hằn rất sâu, đoạn gã nhét khăn tay vào túi. Bên ngoài, một cơn gió bất chợt đập mạnh vào kho dụng cụ, làm cho cái kho rung chuyển và kêu kẽo cà kẽo kẹt. Gã nhìn ra ngoài cửa sổ và thấy cơn gió cuốn theo một lớp tinh thể tuyết lấp lánh về phía đuôi khách sạn phủ kín tuyết, hất tung chúng lên nền trời xanh hà khắc.
Cơn gió ngót đi và gã quay lại nhìn cỗ máy. Nó thực là một tạo vật kinh tởm. Gần như khiến ta chờ đợi một cái vòi chích dài, mềm dẻo tòi ra từ đuôi nó. Gã vốn ghét đám xe trượt tuyết chết tiệt. Chúng đập tan sự tĩnh lặng thánh thiện của mùa đông thành cả triệu mảnh vỡ huyên náo. Chúng làm xáo tung đời sống hoang dã. Chúng phun ra đằng sau những đám khói xanh cuồn cuộn khổng lồ đầy ô nhiễm - khụ, khụ, oẹ, oẹ, để tôi thở chứ. Có thể chúng là món đồ chơi dị hợm cuối cùng của thời đại nhiên liệu hóa thạch đang dần lụi tàn, được tặng cho những đứa trẻ mười tuổi vào dịp Giáng sinh.
Gã nhớ về bài báo từng đọc ở Stovington, kể một chuyện xảy ra đâu đó tại Maine. Thằng nhỏ nọ ngồi xe trượt tuyết, phóng bạt mạng trên một con đường mình chưa từng đi qua với vận tốc năm mươi cây số giờ. Vào ban đêm. Đèn pha tắt. Có một sợi xích nặng chăng giữa hai cây cột với tấm biển CẤM VÀO treo ở giữa. Người ta nói rằng khả năng cao là thằng nhỏ không hề nhìn thấy nó. Mặt trăng có lẽ bị khuất sau một đám mây. Sợi xích đã cắt đứt đầu thằng nhỏ. Khi đọc bài báo, Jack đã cảm thấy gần như là vui mừng, giờ đây, nhìn xuống cỗ máy này, cảm giác ấy lại xuất hiện.
(Nếu không phải vì Danny, mình sẽ rất sung sướng vớ lấy một cái vồ, mở vỏ nắp động cơ ra và cứ thế đập cho đến khi)
Gã để hơi thở đang dồn nén ấy thoát ra khỏi người bằng cách thở dài chầm chậm. Wendy đã đúng. Dù phải lội nước sôi vượt lửa bỏng, kể cả sống dựa vào bảo trợ xã hội, Wendy cũng đúng. Đập chết cỗ máy này sẽ là ngu xuẩn tột cùng, bất kể sự ngu xuẩn đó dễ chịu đến mức nào. Điều ấy gần như tương đương với việc đập chết chính con trai mình.
“Quân bảo thủ khốn kiếp,” gã nói lớn.
Gã đi ra phía sau cỗ máy và vặn nắp xăng ra. Gã tìm thấy một cây thước đo trên cái kệ cao ngang ngực kê góc tường và nhét cây thước vào. Khi rút ra, khoảng ba milimét cuối bị ướt. Không nhiều lắm, nhưng đủ để xem liệu thứ chết tiệt này có còn hoạt động không. Về sau gã có thể truyền thêm xăng vào từ chiếc Volkswagen và xe tải khách sạn.
Gã vặn nắp xăng lại và mở vỏ nắp động cơ ra. Không bugi, không ắc quy. Gã quay trở lại chỗ kệ và bắt đầu lục lọi trên đó, đẩy tua vít và cờ lê điều cữ sang một bên, một bộ chế hòa khí một họng lấy ra từ máy cắt cỏ cũ, các hộp nhựa đựng đầy vít và đinh và bu lông đủ kích cỡ. Cái kệ bị dầu mỡ cũ bám dày, tối sậm đi, bụi tích tụ nhiều năm đã dính lên như lông thú. Gã không thích chạm vào nó.
Gã tìm thấy một hộp nhỏ, lấm dầu, trên có vỏn vẹn chữ Skid . viết tắt bằng bút chì. Gã lắc nó và có cái gì đó kêu lạch cạch bên trong. Bugi. Gã giơ một cái bugi ra trước ánh sáng, cố gắng ước tính khoảng trống mà không phải tìm công cụ đo. Thôi kệ nó, gã bực bội nghĩ và bỏ cái bugi lại vào hộp. Nếu khoảng trống không hợp thì đành chịu thôi. Chấp nhận vậy.
Có một cái ghế đẩu sau cánh cửa. Gã kéo nó lại, ngồi xuống và lắp bốn cái bugi vào, sau đó lắp nắp cao su nhỏ lên từng cái một. Sau khi xong xuôi, gã để những ngón tay lướt trên bộ đánh lửa. Họ cười khi tôi ngồi xuống bên cây đàn piano [16E] .
Trở lại chỗ mấy cái kệ. Lần này thì gã không tìm thấy thứ mình muốn: một bộ ắc quy nhỏ, loại ba hay bốn pin. Trên đó có cờ lê đầu ống, một hộp chứa các máy khoan và mũi khoan, mấy túi phân bón cỏ và Vigoro cho những luống hoa, nhưng không có ắc quy xe trượt tuyết. Vậy mà gã không lấy làm bực bội chút nào. Trên thực tế, gã còn cảm thấy vui mừng. Gã nhẹ cả người. Tôi đã cố hết sức, thưa Chỉ huy, nhưng tôi không thể chọc thủng phòng tuyến. Không sao đâu, anh bạn trẻ. Tôi vẫn sẽ đề cử cậu nhận Huy chương Sao Bạc và Huy chương Xe Trượt Tuyết Tím. Cậu đã làm rạng danh trung đoàn mình. Cảm ơn ngài. Tôi đã cố lắm rồi. karmy day le han ido sa barquibha Gã bắt đầu huýt sáo bài “Thung lũng Sông Hồng” nhịp nhanh trong khi lục lọi nốt mét cuối của cái kệ. Các nốt nhạc vang lên dưới dạng những cụm khói trắng nhỏ. Gã đã lục đủ một vòng nhà kho và cái món kia không có. Chắc ai đó đã thó mất rồi. Có khi thủ phạm là Watson. Gã cười to. Lại trò thó đồ trong văn phòng đấy. Vài cái kẹp ghim, mấy tập giấy, sẽ không ai để ý chiếc khăn trải bàn này hoặc bộ dao đĩa Golden Regal kia bị mất đâu... thế còn bộ ắc quy xe trượt tuyết tuyệt hảo này thì sao nhỉ? Phải, có thể sẽ có ích đấy. Quăng nó vào trong bao tải nào. Tội phạm kinh tế đấy, cưng à. Mọi người ai mà chẳng có lần ăn cắp vặt. Hồi nhỏ chúng ta vẫn gọi như thế là giảm sâu chạm đáy túi áo khoác.
Gã quay trở lại chiếc xe trượt tuyết và đá vào thành bên nó một cú ra trò trên đường đi ngang. Chà, thế là xong chuyện. Gã sẽ phải nói với Wendy rằng xin lỗi, em yêu à, nhưng...
Có một cái hộp nằm ở góc cạnh cửa. Chiếc ghế đẩu ban nãy đặt ngay trên nó. Viết bằng bút chì trên nắp hộp là chữ viết tắt Skid .
Gã nhìn nó, nụ cười khô héo đi trên môi. Thưa ngài, ngài nhìn xem, kỵ binh đến kìa. Có vẻ như tín hiệu khói của ngài rất cuộc cũng có tác dụng.
Thật không công bằng.
Khốn kiếp, thật không công bằng.
Một thứ gì đó - là vận may, số phận, hay mệnh trời - từ nãy giờ đã cố gắng cứu gã. Một kiểu vận may khác thường, vận may màu trắng. Thế mà vào phút chót, cái vận may tồi tệ cố hữu của Jack Torrance đã quay trở lại. Lượt bài xấu vẫn chưa kết thúc.
Bất mãn dâng lên cổ họng gã, như một làn sóng phẫn uất xám xịt. Đôi bàn tay gã đã lại siết thành nắm đấm.
( Thật không công bằng, khốn kiếp, thật không công bằng! )
Gã không thể nhìn đi chỗ nào khác hay sao chứ? Bất cứ chỗ nào! Tại sao lúc đó gã không bị cứng cổ hay ngứa mũi, hay cần chớp mắt? Chỉ một trong những điều nhỏ nhặt đó thôi cũng đủ rồi. Gã sẽ chẳng bao giờ nhìn thấy nó.
Chà, thì gã chưa thấy vậy. Chỉ thế thôi. Đó là một ảo giác, không khác gì chuyện đã xảy ra bên ngoài căn phòng nọ trên tầng hai ngày hôm qua, hay đám thú cây cảnh chết tiệt kia. Một chút căng thẳng nhất thời, không hơn không kém. Ảo giác, tôi cứ ngỡ mình đã nhìn thấy một bộ ắc quy xe trượt tuyết ở trong góc kia. Bây giờ thì không có gì ở đó cả. Tôi đoán là căng thẳng do chiến đấu, thưa ngài. Xin lỗi. Vui vẻ lên đi, anh bạn trẻ. Không sớm thì muộn, ai rồi cũng sẽ gặp chuyện như vậy cả.
Gã giật mở cửa mạnh đến mức gần như có thể khiến bản lề gãy đôi, đoạn gã kéo đôi giày đi tuyết của mình vào trong. Chúng bị tuyết phủ vón cục và gã đập chúng xuống sàn mạnh đến nỗi tuyết bốc lên thành đám bụi mù. Gã giẫm chân trái lên giày trái... và dừng lại.
Danny ở ngoài kia, cạnh bục đặt sữa. Trông như đang cố gắng dựng người tuyết. Công việc không suôn sẻ cho lắm; tuyết quá lạnh để dính vào với nhau. Tuy nhiên, nó vẫn cứ cố gắng hết mình ở ngoài đó, trong buổi sáng lúc nắng lúc mờ, một thằng bé mặc quần áo dày, không khác gì cái đốm trên lớp tuyết sáng chói, dưới bầu trời sáng chói. Mũ đội ngược như Carlton Fisk.
( Trời đất ơi, mày nghĩ cái gì trong đầu thế hả? )
Câu trả lời xuất hiện không chút chần chừ.
( Bản thân. Tao nghĩ về bản thân mình. )
Gã bất chợt nhớ cảnh nằm trên giường đêm hôm trước, nằm đó và đột nhiên suy ngẫm chuyện giết vợ.
Chính trong khoảnh khắc ấy, khi gã quỳ ở đó, mọi thứ trở nên rõ ràng với gã. Overlook không chỉ đang tác động đến Danny. Nó cũng đang tác động đến gã. Mắt xích yếu không phải là Danny, mà chính là gã. Gã mới là kẻ dễ tổn thương, là kẻ có thể bị uốn và vặn cho đến khi có gì đó đứt phụt.
(cho đến khi mình buông xuôi và thiếp ngủ... và khi đó thì sao nếu có khi đó thì sao)
Gã ngước lên nhìn hàng cửa sổ và mặt trời hắt lại trên những ô cửa kính nhiều tấm ấy một thứ ánh sáng làm ta lóa mắt, nhưng gã vẫn cứ nhìn. Lần đầu tiên, gã nhận thấy chúng trông giống những con mắt đến nhường nào. Chúng phản chiếu ánh nắng và giữ bóng tối của bản thân bên trong. Danny không phải là người chúng đang quan sát. Mà đó là gã.
Nội trong vài giây ngắn ngủi ấy, gã hiểu ra mọi thứ. Gã nhớ lại một bức tranh đen trắng mình từng nhìn thấy khi còn nhỏ, trong lớp giáo lý. Vị xơ đã trình nó ra trên một giá vẽ cho cả lớp xem và gọi nó là phép mầu của Chúa. Mọi người ngây ra nhìn nó, chẳng thấy gì ngoài một mớ trắng đen hỗn độn, vô nghĩa và vô hình dạng. Thế rồi một đứa ở hàng thứ ba thốt lên, “Là Jesus!” và đứa trẻ đó đã về nhà với một cuốn Kinh Thánh mới tinh cùng một cuốn lịch vì nó là người đầu tiên nhận ra. Những đứa khác căng mắt ra săm soi tỉ mẩn hơn, trong số chúng có cả Jacky Torrance nữa. Lần lượt, những đứa khác cũng thốt lên tương tự, một đứa con gái hoan hỉ đến gần như ngây ngất, rú lên lanh lảnh, “Con đã thấy Người! Con đã thấy Người!” Nó cũng được thưởng cho một cuốn Kinh Thánh. Cuối cùng tất cả mọi người ngoại trừ Jacky đều nhìn ra khuôn mặt Jesus trong mớ đen trắng bòng bong. Cậu bé cố căng mắt ra thêm, lúc này đã nơm nớp sợ hãi, nó phần nào hoài nghi rằng tất cả những người khác chỉ giả đò để lấy lòng Xơ Beatrice, phần nào lại thầm tin rằng mình không nhìn thấy gì bởi Chúa đã quyết định nó là kẻ tội đồ tồi tệ nhất trong lớp. “Con không thấy sao, Jacky?” xơ Beatrice hỏi nó với cái giọng buồn bã, ngọt ngào của mình. Thấy cái vú bà ấy, nó nghĩ với nỗi tuyệt vọng hằn học. Nó định lắc đầu, nhưng rồi giả vờ phấn khích nói, “Có, con nhìn thấy! Ôi! Là Jesus!” Thế là mọi người trong lớp cười và vỗ tay khen ngợi nó, khiến nó cảm thấy đắc thắng, xấu hổ và sợ hãi. Sau đó, khi mấy đứa khác đều đã loạng choạng lên khỏi tầng hầm nhà thờ ra ngoài đường, nó vẫn nán lại phía sau, nhìn mớ bòng bong đen trắng vô nghĩa mà xơ Beatrice để trên giá vẽ. Nó ghét cái thứ ấy. Tất cả bọn họ đều đã giả đò như nó, ngay cả chính xơ. Đó là một màn giả đò ngoại cỡ. “Khốn-kiếp-khốn-nạn-khốn-kiếp,” nó lẩm bà lẩm bẩm và, khi quay người chuẩn bị bỏ đi, nó nhìn thấy từ khóe mắt khuôn mặt Jesus, buồn bã và thông thái. Nó quay lại, tim nhảy tọt lên họng. Mọi thứ bỗng dưng ăn khớp vào nhau và nó nhìn chằm chằm bức tranh với nỗi sửng sốt đầy kính sợ, không làm sao tin được là trước đó mình đã không nhìn ra. Đôi mắt, vệt bóng chạy ngoằn ngoèo trên vầng trán mệt mỏi, chiếc mũi thanh tú, đôi môi từ bi. Nhìn Jacky Torrance. Thứ ban nãy chỉ là một mớ hỗn độn vô nghĩa đột nhiên đã biến thành một bản khắc đen trắng lồ lộ khuôn mặt Jesus - Đức Chúa của chúng ta. Nỗi sửng sốt kính sợ trở thành kinh hoàng. Nó đã chửi thề trước một bức tranh Chúa Jesus. Nó sẽ bị nguyền rủa. Nó sẽ phải xuống địa ngục với những kẻ tội đồ khác. Khuôn mặt Chúa đã ở trong bức tranh ngay từ đầu. Ngay từ đầu.
Giờ đây, khi quỳ dưới ánh mặt trời và nhìn con trai chơi trong bóng khách sạn, gã biết rằng tất cả đều là sự thật. Khách sạn muốn Danny, có lẽ muốn cả nhà họ nhưng chắc chắn là muốn Danny. Đám cây thực sự đã di chuyển. Có một người phụ nữ đã chết trong phòng 217, như mọi khi thì bà ta có lẽ chỉ là một linh hồn vô hại, nhưng hiện giờ bà ta đã trở thành mối nguy hiểm thực sự. Giống như một món đồ chơi vặn dây cót độc ác, bà ta đã được lên dây và kích hoạt bởi chính tâm trí kỳ quặc của Danny... và cả của gã nữa. Có phải là Watson đã nói với gã rằng một ngày nọ, có người đàn ông đã chết vì đột quỵ trên sân bóng cửa không? Hay là Ullman nói nhỉ? Chuyện ấy không quan trọng. Đã có một vụ ám sát trên tầng ba. Đã có bao nhiêu cuộc cãi vã, tự tử, đột quỵ từ xa xưa rồi? Có bao nhiêu vụ giết người xảy ra rồi? Có phải Grady đang ẩn nấp đâu đó ở chái Tây cùng với chiếc rìu, chỉ chờ đợi Danny vặn dây cót cho để mình có thể lại ra khỏi nơi ẩn nấp không?
Những vết bầm tím sưng húp vòng quanh cổ Danny.
Những cái chai lấp lánh, thoắt ẩn thoắt hiện trong sảnh rượu vắng vẻ.
Chiếc đài.
Những giấc mơ.
Cuốn sổ tay gã đã tìm thấy trong hầm.
( Medoc à, có đây không? Bạn ơi mình đã lại mộng du rồi... )
Gã bất chợt đứng dậy, đẩy đôi giày đi tuyết ra khỏi cửa. Cả người run rẩy. Gã đóng sầm cửa lại rồi nhặt chiếc hộp chứa ắc quy lên. Nó trượt qua những ngón tay run rẩy
( ôi lạy Chúa nhỡ mình làm vỡ nó )
và rơi bộp xuống nghiêng sang một bên. Gã mở nắp hộp giấy và lấy ắc quy ra, không quan tâm đến chuyện axít có thể bị rò rỉ qua vỏ ắc quy nếu nó bị nứt vỡ. Nhưng cái ắc quy không bị sao. Nó lành lặn. Một tiếng thở dài khẽ thoát ra khỏi môi gã.
Gã ôm lấy nó, mang nó đến bên chiếc Ski-Doo và đặt lên cái bệ ở gần mạn trước động cơ. Gã tìm thấy một cái cờ lê điều cữ nhỏ trên một kệ và nhanh chóng nối xong hết cáp cho ắc quy, không gặp khó khăn gì. Ắc quy còn điện; không cần sử dụng bộ sạc. Có tiếng lách tách của điện và mùi ôzôn phảng phất khi gã đút cáp dương vào đúng cực. Sau khi đã xong việc, gã lùi lại, lo lắng chùi đôi bàn tay lên trên chiếc áo khoác vải bò đã sờn. Đó. Thế chắc là được rồi. Chẳng có lý do gì để nó không hoạt động cả. Chẳng có bất kỳ một lý do nào ngoại trừ việc nó là một phần của Overlook và Overlook thực sự không muốn cho họ ra khỏi đây. Không muốn chút nào. Overlook đang rất sung sướng. Có một thằng bé cho nó khủng bố, một người đàn ông cùng vợ để nó gài cho gây gổ với nhau và, nếu nó đủ khôn khéo, có thể họ rồi sẽ phải lướt đi trên các hành lang Overlook như những bóng hình vô định trong một cuốn tiểu thuyết của Shirley Jackson, thứ lảng vảng trong Dinh thự Hill thì lảng vảng một mình, nhưng ở Overlook ta sẽ không đơn độc, ồ không đâu, ở đây có rất nhiều bạn bè. Nhưng thực sự không có lý do gì để chiếc xe trượt tuyết không thể khởi động cả. Tất nhiên ngoại trừ
( Ngoại trừ việc gã vẫn không thực sự muốn đi. )
phải, ngoại trừ điều đó.
Gã đứng nhìn chiếc Ski-Doo, hơi thở gã phà ra dưới dạng những chùm hơi nhỏ băng giá. Gã muốn mọi thứ trở về như trước. Hồi đến đây, gã không nghi ngờ gì cả. Hồi ấy, gã đã biết xuống núi sẽ là quyết định sai lầm. Wendy chỉ sợ ông kẹ do một thằng nhóc cuồng loạn dụng lên. Lúc này, bất chợt, gã có thể hiểu được quan điểm của cô. Cũng giống như với vở kịch, vở kịch chết tiệt của gã. Gã không còn biết mình đứng về phe nào, hay sự tình sẽ diễn tiến ra sao nữa. Khi ta đã nhìn thấy khuôn mặt một vị chúa trong toàn bộ cái mớ đen trắng lộn xộn kia rồi, thì chuyện coi như xong luôn - ta sẽ không bao giờ có thể thôi nhìn thấy khuôn mặt đó. Những người khác có thể cười và nói rằng nó chẳng là gì cả, chỉ là một đống những mảnh vụn vô nghĩa, đến một bức tranh tô màu theo số Craftmaster còn hay hơn thế, nhưng ta sẽ luôn luôn thấy khuôn mặt Christ - Đức Chúa của chúng ta - đang nhìn mình. Ta đã nhìn thấy nó trong một bước nhảy vọt tổng hòa, khi ý thức và tiềm thức cùng hòa trộn vào nhau đúng khoảnh khắc thấu hiểu sững sờ ấy. Ta sẽ luôn luôn nhìn thấy nó. Ta bị nguyền rủa phải luôn nhìn thấy nó.
( Bạn ơi mình đã lại mộng du rồi... )
Mọi chuyện đều ổn cho đến khi gã thấy Danny chơi trên tuyết. Là lỗi Danny. Mọi thứ đều là lỗi Danny. Nó là người sở hữu khả năng thị kiến, hay là gì đi nữa. Đó không phải là một phước lành, đó là một lời nguyền. Nếu chỉ có gã và Wendy ở đây một mình, có thể họ đã vượt qua được mùa đông một cách khá nhẹ nhàng. Không đau đớn, không mệt đầu.
( Không muốn rời đi.?Không thể ư? )
Overlook không muốn họ đi và gã cũng không muốn họ đi. Ngay cả Danny. Có khi bây giờ nó đã trở thành một phần khách sạn rồi. Có thể Overlook, cái khách sạn chẳng khác nào Samuel Johnson to lớn suốt ngày ngao du, đã chọn gã làm Boswell cho nó. Mày nói người trông nom mới là dân viết lách à? Rất tốt, cho hắn vào làm đi. Đã đến lúc chúng ta kể lại câu chuyện của mình. Tuy nhiên, trước tiên hãy loại bỏ mụ vợ và thằng ranh xì mũi chưa sạch nhà hắn cái đã. Chúng ta không muốn hắn bị phân tâm. Chúng ta không...
Gã bấy giờ đang đứng bên buồng lái chiếc xe trượt tuyết, đầu lại bắt đầu đau. Rốt cuộc là thế nào đây? Đi hay ở lại. Rất đơn giản. Nói đơn giản thôi. Chúng ta sẽ đi hay ở lại đây?
Nếu rời đi, sẽ được bao lâu trước khi mày tìm đến quán rượu địa phương Sidewinder? một giọng nói bên trong gã hỏi. Cái chốn tối tăm với chiếc ti vi màu tệ hại mà mấy tay râu ria xồm xoàm thất nghiệp dành cả ngày theo dõi các chương trình trò chơi truyền hình? Nơi nước tiểu trong nhà vệ sinh nam có mùi như thể đã hai nghìn năm tuổi và luôn có một đầu thuốc lá Camel sũng nước đang bục ra trong bồn cầu? Nơi bia có giá ba mươi xu một ly và ta rắc muối vào đó còn máy hát bỏ xu thì toàn những bản nhạc đồng quê kinh điển của thập niên bảy mươi?
Bao lâu đây? Ôi Chúa ơi, gã sợ rằng sẽ không lâu chút nào đâu.
“Mình không thể thắng” gã nói, rất nhẹ nhàng. Vấn đề là thế đó. Chẳng khác nào cố gắng chơi xếp bài trong khi thiếu mất một con át.
Đột nhiên gã nghiêng người qua khoang động cơ chiếc SkiDoo và giật mạnh lấy bộ đánh lửa. Nó bung ra dễ dàng đến đáng tởm. Gã nhìn nó một lúc, rồi đi đến mở cửa sau kho dụng cụ.
Từ đây, khung cảnh những ngọn núi không bị gì cản trở, đẹp như ảnh bưu thiếp dưới ánh sáng lấp lánh buổi sớm. Một cánh đồng tuyết miên man dâng lên đến tận chỗ những cây thông đầu tiên cách khoảng hai cây số. Gã quẳng bộ đánh lửa xa hết mức có thể vào trong tuyết. Nó văng đi xa hơn hẳn bình thường. Một mớ tuyết nhẹ bốc lên chỗ nó rơi xuống. Làn gió thoảng mang những hạt tuyết đi đến nơi an nghỉ mới. Tao bảo tản ra đi. Không có gì để xem cả đâu. Xong cả rồi. Tản đi.
Gã cảm thấy thanh thản.
Gã đứng ở ngưỡng cửa một lúc lâu, hít thở làn không khí lành mạnh miền núi, rồi gã đóng chặt cửa lại và ra bằng của kia để đi nói với Wendy rằng họ sẽ phải ở lại đây. Trên đường đi, gã dừng chân và làm một trận đấu bóng tuyết với Danny.