Lưu Kỳ Linh
Chính tên là Lưu trọng Lai. Sinh năm 1907 ở Cao-lao hạ, huyện Bố trạch (Quảng-bình).
Học: trường Đồng hới, trường Quốc học Huế (đến năm thứ ba).
Đã đăng thơ: Hanoi báo, Tao-đàn, Tiểu thuyết thứ bảy
Lưu Kỳ-Linh là anh ruột Lưu trọng Lư. Nhưng thơ em nhiều người biết mà thơ anh ít ai hay. Kể cũng đáng tiếc. Thơ Lưu Kỳ Linh tuy mới nhưng đôi bài có cái nhẹ nhàng, cái kín đáo, cái vi diệu của những vần thơ xưa. Nó không huy hoàng, lộng lẫy. Trong vườn thơ nó chỉ là những bông hoa màu nhạt, hương thanh, e lệ nở trong một gốc tường. Nhưng ai dám bảo là những bông hoa không quý?
Juillet 1941
ĐỢI CHỜ
Đêm xuân mộng chửa về thăm
Cửa lòng rộng mở, em nằm nghe sương
Tỉ tê gọi gió lên đường
Nghe trăng âu yếm dỗ hương trên cành
Gà vô ý giục tàn canh
Cửa lòng vội khép cho tình ngủ thôi
CÀNH HOA THU MUỘN [1]
Muộn-màng thu nở một cành hoa.
Còn một chiều nay hoa với ta.
Muốn tặng người yêu, không nỡ hái;
Bóng vàng như đã rụng non xa....
CON BƯỚM TRẮNG
Bướm kia ai biết là thi sĩ
Kiếp trước đa tình lại hóa thân.
L. K. L.
Vừng hồng phun ánh hồng tươi,
Cả một vườn xuân loáng nét cười.
E lệ cánh trà so cánh huệ,
Hương lan thầm kín mỉa hương mai.
Những loài hoa mới bỗng xôn xao:
Con bướm lang thang đâu... lạc vào
Phơ phất dịu dàng đôi quạt trắng,
Đu cành thấp chán nhún cành cao.
Chú thích:
[1] Lời bình của thi sĩ trong một bức thư:
‘‘Tất cả tình tứ của tôi đối với thu đều ngưng đọng lại, sắc đặc lại ở bốn câu đó.
‘‘Với người yêu, ai có tiếc gì; người ta có thể ném cá kho tàng châu ngọc như không. Thế mà một cành hoa thu muộn, tôi không nỡ.... Anh để ý chỗ không liên lạc giữa hai câu 3, 4-