Chương I BỨC TRANH PHONG TỤC-THỊ TRẤN MIỀN NÚI-(Năm 1963)-CẢNH SẮC MỘT VÙNG
THỊ TRẤN PHÙ DUNG NẰM TRÊN VÙNG ĐẤT PHẲNG của một thung lũng, nơi giáp ranh của ba tỉnh Tương, Việt, Quế (1), xưa nay vẫn là nơi dừng chân nghỉ lại của thương lái, là nơi anh hùng hào kiệt tụ nghĩa, là nơi quan yếu, cần phải chiếm giữ trong những cuộc chiến chinh. Thị trấn có một dòng sông, một con ngòi. Hai con đường thủy ấy, ôm vòng lấy thị trấn, hợp lưu lại với nhau cách đầu thị trấn đến ngót một dặm xa, do đó, ba mặt đều là nước, nó giống như một bán đảo có địa hình vừa hẹp vừa dài. Từ thị trấn đi ra, qua bến đò ở phía Nam, có thể xuống Quảng Đông; đi về phía Tây, qua một cây cầu bán nguyệt, xây bằng đá, là đường cái quan đi tới Quảng Tây. Không rõ từ triều đại nào, ông quan lớn trấn thủ ở đây, thi hành chính sách nhân từ, hoặc là học đòi phong nhã, muốn lưu danh trong huyện chí, châu sử, đã sai người trồng những cây mộc phù dung, trên bờ sông, bờ ngòi, nước xanh như hạt đậu xanh, lưu lại lâu dài những hoa tươi cành tốt, những bóng xanh bờ mát, nên đã trở thành cảnh sắc riêng của thị trấn; rồi lại cắt dân phu, đào đắp một vùng đầm lầy dưới chân núi thành một mặt ao vuông vức, thả cá, thả thủy phù dung (2), lấy hoa, lấy ngó, coi như “đặc sản nhà quan” nơi nha môn của ông quan lớn miền núi. Mỗi khi hoa thủy phù dung dưới hồ bừng nở, hoặc hoa mộc phù dung trên bờ đấu sắc, thì cả một vùng đất phẳng phiu của dải Ngũ Linh tràn trề hoa sắc, trở thành một vùng quê phú quý, phong lưu. Hoa, lá, cành, ngó thủy phù dung đều được đưa vào làm thuốc. Thủy phù dung, bên trên kết thành bát, bên dưới có ngó, ngay cả những chiếc lá to tròn như những chiếc phèng phèng xanh thẳm phủ kín mặt hồ, cũng là nơi tá túc của những chú chuồn chuồn, những chàng ễnh ương diễu võ dương oai và những hạt sương lăn lóc; đem hái xuống, còn có thể gói cơm, bọc muối cho những người đi bộ đường xa, làm bánh bột mạch lá sen, phủ những gánh hàng của người bán rong, đậy những chiếc gùi của người đàn bà đi chợ, làm nón che mặt trời cho những chú bé chăn trâu... tóm lại, nhất vật bách dụng, rất khác nhau. Dòng sông bé, con ngòi con, thị trấn nhỏ, vì thế mà thành tên: “Sông Phù Dung”, “Ngòi Ngọc Diệp”, “Thị trấn Phù Dung”.
Mặt phố của thị trấn Phù Dung nhỏ hẹp, mươi cửa hàng, mấy chục hộ chen chúc, kẹp chặt lấy phố Đá Xanh, cửa hàng sát sạt nhau, nên chỉ cần một nhà xào nấu thịt chó là thơm lừng khắp phố, cho đến trẻ con nhà nào bị ngã sứt răng, đánh vỡ bát, dân hàng phố đều biết hết, ngay cả chuyện riêng tư của bọn con gái trong phòng kín, rồi chuyện những cặp vợ chồng trẻ cãi cọ nhau, cũng đều thường bị những người hàng xóm sát vách nghe thấy hết và truyền đi như một tin mật cần phải nghe trong thị trấn, rồi đàm tiếu như một chuyện vui cười. Ngẫu nhiên có anh em một nhà nào đó đánh nhau, một cặp vợ chồng xô xát, cả dãy phố sẽ náo động hẳn lên, người đi kẻ lại rầm rập, khuyên răn can gián, y như một đàn vịt bị săn đuổi dưới sông, có khi mất đến nửa ngày chưa hết ồn ào. Những ngày không phải phiên chợ, những nhà ở dọc hai bên đường phố, thọc dài những cây sào từ gác nhà mình, sang gác nhà đối diện, phơi phóng đầy những thứ bằng vải: áo quần, đồ lót, vỏ chăn. Mỗi khi có làn gió thổi qua, nó bay phấp phới như “cờ vạn quốc”, xanh xanh, đỏ đỏ đủ năm màu bảy sắc. Thêm vào đó, nhà nào cũng treo lủng lẳng dưới mái hiên ngói, từng chùm, từng chùm ớt đỏ, từng túm, từng túm những bắp ngô màu vàng, rồi núc nỉu những quả bầu nậm sắc xanh pha trắng, thành hai dải băng màu sặc sỡ trên dọc hai bên đường phố hẹp, tạo ra một cảnh sắc riêng.
Trong một năm, tứ thời, bát tiết, người trong thị trấn giữ vẻ ân cần, thường có tập quán đem biếu xén nhau những đồ ăn thức uống. Theo âm lịch, ngày tháng 3 làm bánh thanh minh, ngày mồng 8 tháng 4 hấp bánh khúc nhân thịt, Đoan Ngọ tháng 5 gói bánh chưng (3), uống rượu hồng hoàng lá ngải, mồng 6 tháng 6, trong vườn, trong sân nhà nào cũng có lê, có dưa chín sớm. Mồng 7 tháng 7 nếm cơm gạo sớm, Trung Thu tháng 8 nhà nào cũng tự làm lấy bánh trông trăng, Trùng Dương (trùng cửu) hồng đã được hái. Kim Thu tháng mười cưới vợ, gả chồng. Mồng 8 tháng Chạp nấu “cháo đậu tháng Chạp” (4). Ngày 23 tháng Chạp tiễn ông Táo về chầu trời... thực phẩm, hoa quả chế biến cũng có những đại đồng tiểu dị trong các gia đình, nhưng qua những bàn tay khéo léo của các bà nội trợ thêm dấm, thêm ớt, bánh trái làm ra lại chẳng nhà nào giống nhà nào, mùi vị, kiểu cách cũng khác nhau, điều vui nhất, thứ quý nhất là sau khi hàng xóm láng giềng ăn nếm thử bánh trái xong có được vài lời khen, nên trong âm thầm, nó trở thành một cuộc triển lãm màu sắc, mùi vị của các món ăn phụ. Ngay trong những ngày bình thường nhà ai đó có miếng bánh, viên kẹo, hay nồi chân giò hầm, cũng không thể quên gắp vài ba miếng cho lũ trẻ nhà bên, rồi sau đó, chúng về nhà ríu rít khoe với mẹ những “thu hoạch” kỳ diệu trong chiếc bát của mình. Sau bữa cơm, những bà mẹ thường dắt con sang đó, ngồi trò chuyện thân tình, dăm ba câu trời cao đất dày, nhưng ánh mắt và nét mặt lại mang đầy vẻ cảm ơn.
Mặt phố thị trấn Phù Dung tuy nhỏ, cư dân không nhiều, nhưng mỗi khi đến ngày phiên chợ, người đi chợ có tới hàng vạn. Chợ không họp ở dọc phố Đá Xanh mà họp trên một bãi trống, bằng phẳng vuông vức ven sông, sau phố, ước chừng vài ba chục mẫu (5). Từ xã hội cũ còn lưu lại hai dãy quán chợ dài, cột bằng đá xanh nhẵn thín, lợp bằng ngói xanh, bốn phía trống không. Đối diện với quán chợ là một sân khấu quét vôi loang lổ, cũ kỹ. Hồi mới giải phóng, các ngày phiên chợ vẫn theo lệ cũ cứ vào ngày 3, ngày 6, ngày 9 là họp, một tuần 3 phiên, một tháng 9 phiên. Những thương lái người Hán, dân săn bắn người Dao, các thầy lang vườn, hàng xay hàng xáo của 18 huyện trong ba tỉnh đều tập trung về đây mua mua bán bán. Thịt lợn, thịt trâu, rau xanh hoa quả, nấm hương mộc nhĩ, hải sâm, trăn, rắn, khỉ, hầu, vải dệt máy, bách hóa tiêu dùng, quán hàng ăn uống... đầy phố, đầy chợ. Người thành sông, ồn ào, ầm ĩ, đầu tóc nhấp nhô. Nếu như đứng trên dốc ngọn núi phía sau nhìn xuống vào ngày đẹp trời chỉ thấy toàn là khăn màu, khăn hoa, nếu là ngày mưa sẽ thấy một rừng áo tơi, nón lá, ô giấy, ô vải. Mọi người hình như không phải đang đi, mà như dập dềnh, trôi nổi trên mặt hồ rộng lớn. Trong dòng người chen vai, thích cánh ấy, từ người bán nước, đến người chữa răng, đều bám vào cái chợ này mà sinh sống. Nghe nói có một người nghèo ở thị trấn, chỉ dựa vào việc hót nhặt phân trâu, phân lợn của các cửa hàng thịt mà trở nên giàu có... Cho đến năm 1958, đại nhảy vọt, do vì tất cả mọi người trong thiên hạ phải đi đun sắt luyện gang, đi phát huy các loại, các kiểu vệ tinh cao sản nổi tiếng nổi danh trên thế giới, thêm vào đó là các ủy ban trên huyện, trên khu (6) viết giấy hạn chế buôn bán, trao đổi trên chợ búa, phê phán thế lực tư bản chủ nghĩa ở thành phố, hương thôn, nên chợ Phù Dung đang từ ba ngày họp một phiên đổi thành một tuần lễ một phiên, rồi lại đổi thành 10 ngày một phiên, cuối cùng thì nửa tháng một phiên. Quá độ dần dần, tiến tới tiêu diệt thị trường, chợ búa, tức là hoàn thành xã hội chủ nghĩa, tiến vào cộng sản chủ nghĩa. Nhưng nghe nói là ông giời không vừa lòng, đồng ruộng, đất cát, nương rẫy chẳng nên cơm cháo gì, thêm vào đó là bọn đế quốc xét lại quấy phá, cái ngưỡng cửa của thiên đàng cộng sản chủ nghĩa khá cao, nhảy vọt lên mà cũng không với tới, nên đã trượt chân ngã bổ chửng từ trên lưng chừng mây xuống, và rơi đúng vào cái miếng đất nghèo nàn, túng bấn giữa nơi trần thế, sống những ngày đói khổ với chảo canh rau xanh loãng thếch, trong nhà ăn công cộng, nửa tháng một phiên chợ chỉ toàn thấy bán những cám bã, rau má, sắn dây, thổ phục linh, bột cây đuôi chồn. Ngựa gầy dài lông, người gầy vàng mặt. Nhà nước và trăm họ đều bị bệnh phù thũng. Thương lái tuyệt tích, chợ không ra chợ, nhưng cờ bạc đĩ điếm, múa võ choảng nhau, trộm cắp lừa đảo, đã bùng lên một thời, cho đến năm kia, - nửa năm cuối của 1961 - Ủy ban huyện mới viết công văn xuống, chuyển chợ từ nửa tháng một phiên xuống thành 5 ngày một phiên. Trước hết là nới rộng ngày phiên chợ, cho tiện việc giao lưu phẩm vật. Vì nguyên khí đã bị trọng thương, thị trấn Phù Dung không sao phục hồi nổi cái chợ có hàng vạn người mua bán, tập trung những thương lái của 18 huyện trong ba tỉnh như trước kia.
Mấy năm gần đây, người làm ăn buôn bán của thị trấn được coi là khá giả nhất không phải là những hàng thịt trâu thịt lợn vốn nổi tiếng xa gần từ xưa tới nay, mà là quán canh bánh tráng của cô Hồ Ngọc Âm mới mở ở thị trấn. Hồ Ngọc Âm là một nữ thanh niên khoảng 25, 26 tuổi. Những người đến đứng, ngồi, ăn một bát canh bánh tráng ở cửa hàng cô, thường vẫn quen gọi là “cô Phù Dung”, còn những người thích bông đùa cười cợt lại gọi là “Phù Dung Tiên Nữ”. Gọi cô là Tiên Nữ quả cũng có gì đó hơi quá đáng, nhưng Hồ Ngọc Âm mày đen, mắt to, mặt như trăng rằm, khuôn ngực nở nang, dáng bộ gợi tình, khiến cho thương lái qua lại cũng muốn đầu mày cuối mắt. Chủ nhiệm cửa hàng lương thực của thị trấn, Cốc Yến Sơn đã ví von như thế này:
- Da thịt cô Phù Dung trắng nõn nà, y như tấm bánh tráng của cô vậy.
Cô niềm nở chiều khách, tính nết dịu dàng, nhanh miệng, nhanh tay, không phân biệt khách quen khách lạ, không phân biệt ăn mặc sang trọng hay rách rưới, đều niềm nở đón đưa, mời chào.
- Ăn thêm một bát nữa nhé? Em thêm một môi canh cho đỡ khát.
Hoặc như:
- Vâng, vâng! Phiên chợ sau lại nhớ đến hàng em!
Thêm vào đó là bát đũa sạch sẽ, gia vị đầy đủ, nước dùng bao giờ cũng ngọt hơn các cửa hàng khác. Một hào một bát, tùy ý múc thêm nước dùng, cho nên cửa hàng cô lúc nào cũng nườm nượp, khách đến khách đi, không bao giờ dứt.
“Mua bán ngọt ngào, tiền vào như nước”. “Khách mua là vua cơm áo!”. Đó là những lời “gia huấn” mà Hồ Ngọc Âm đã học được từ chính cha mẹ mình. Cứ theo như lời đồn đại, mẹ cô xưa kia đã từng làm gái thanh lâu, bán phấn bán hoa ở vùng cửa một con sông lớn, sau cùng với một người hầu bàn chạy trốn đến thị trấn miền núi giáp giới ba tỉnh này, rồi mai danh ẩn tích, mở một quán trọ được các thương lái qua rất lại rất mến yêu. Vợ chồng mãi tới khi hơn bốn chục tuổi, đèn nhang cầu Phật mãi mới đẻ được một cô con gái Ngọc Âm. “Ngọc Âm” có ý nghĩa là sự bố thí của Lão Mẫu Quan Âm đại từ đại bi. Năm 1956, công tư hợp doanh, cũng là lúc Hồ Ngọc Âm lấy chồng chưa được bao lâu, hai ông bà già đã song song qua đời. Khi ấy còn chưa thực hành chế độ nông nghiệp cấp cao, Hồ Ngọc Âm và anh chồng mới chỉ tham gia hợp tác xã sơ cấp ở thị trấn, trở thành hộ nông nghiệp. Vào ngày phiên chợ, tranh thủ bán thêm canh bánh tráng, nhưng đấy là chuyện của hai năm gần đây. Về chuyện cũ, kể ra cũng hơi khó nói. Hồ Ngọc Âm tham gia vào việc buôn bán, kể từ khi tay xách cái làn, đi bán bánh cám nhân rau, rồi dần dần bán đến bánh bột cây đuôi chồn, bánh bột khoai, cuối cùng mới bán canh bánh tráng. Cũng chẳng phải cô tiếp nối nghề nghiệp cha ông gì, mà chẳng qua chỉ là trong những ngày đói khổ quá thì đầu gối phải bò, mà thành ra người buôn bán thôi.
- Cô Phù Dung! Hai bát nhé, cho thật nhiều ớt vào!
- Có ngay! Nhưng sợ nhiều ớt quá sẽ cay đến cả lỗ rốn của ông anh mất thôi.
- Lỗ rốn tôi mà bị cay ấy à, đã có cô xoa giúp!
- Thối!
- Bà chị, một bát canh bánh tráng với hai lạng rượu trắng hâm nóng.
- Có ngay, trời nóng nực như thế này, tôi làm bát to, thêm nước dùng. Còn rượu, xin mời sang cửa hàng bên kia mua.
- Cô Phù Dung, cho một bát bánh tráng chan bằng nước lã. Anh chỉ thích những thứ nước trắng nõn nà như tay em thôi. Ăn thế đi đường, khỏe chân.
- Anh thật mồm rộng lắm điều, thế nào rồi cũng được bài học. Chắc là hai ngày hôm nay vợ anh chưa bắt anh quỳ xuống chân giường, rồi véo tai anh, phải không?
- Anh chỉ thích được em véo tai anh thôi!
- Anh cứ rờ hồn, anh canh bánh tráng chan bằng nước lã, rồi lưỡi anh sẽ mọc mụn lên đấy, kiếp sau, trời sẽ bắt anh làm thằng câm.
- Đừng nói thế, đừng nói thế, như vậy cửa hàng canh bánh tráng thiếu mất một khách hàng, em có chịu không?
Cứ như thế đối đáp, chua có, ngọt có, nhưng trong mắt bao giờ cũng mang sẵn nụ cười dịu dàng, với tiếng nói cứ ngọt như tiếng hát. Đối với những khách hàng quen thuộc, thường tới ăn ở đây, lúc nào cô cũng nói cười vui vẻ, thân thiết tiếp đón, đối đãi như anh em trong nhà.
Rõ ràng, cửa hàng canh bánh tráng của cô có những khách hàng thân quen, phiên chợ nào cũng ghé vào.
Người đầu tiên phải tính đến là chủ nhiệm cửa hàng lương thực Cốc Yến Sơn. Ông Cốc ngót bốn chục tuổi, người miền Bắc, ông là người thực thà trung hậu, cô đơn, sống độc thân. Không hiểu ra làm sao, vào mùa thu năm ngoái bỗng nhiên báo cho Hồ Ngọc Âm biết, cứ mỗi phiên chợ xưởng xay xát gạo của ông có thể bán cho cô 60 cân đầu mày tấm gãy, khép kín việc làm hàng của cô! Vợ chồng Hồ Ngọc Âm cảm động đến chỉ một suýt nữa sẽ quỳ xuống lễ tạ ông Cốc và gọi ông là ân nhân. Từ đó cứ mỗi phiên chợ, ông Cốc đều ghé vào cửa hàng của Hồ Ngọc Âm ngồi nán lại một lát, lặng lẽ nhìn Hồ Ngọc Âm đang nhanh chân lẹ tay, tiếp đón khách hàng từ bốn phương tới, vẻ như ngâm nga thưởng thức cái dáng tươi trẻ của cô. Vì ông là người đứng đắn, nên đối với ngay cả cái tên “cô Phù Dung” mang đầy sự chớt nhả, dung tục mà người ta đặt cho Hồ Ngọc Âm cũng chẳng gợi lên trong lòng ông một chút tà ý nào.
Thêm một người nữa là anh Lê Mãn Canh, bí thư chi bộ của đại đội sản xuất ở thị trấn. Anh Mãn Canh ngót ba mươi tuổi, là quân nhân chuyên ngành, là anh em cùng tuổi với chồng Hồ Ngọc Âm, Hồ Ngọc Âm nhận anh là anh nuôi. Mỗi phiên chợ người anh nuôi cũng ghé lại hàng của cô em nuôi, thưởng thức một vài bát không phải trả tiền, điều đó mang ý nghĩa tượng trưng rất lớn, vì vô hình trung, nó như cấp giấy phép hợp pháp cho cửa hàng canh bánh tráng, báo cho những người đi chợ biết rằng, cửa hàng canh bánh tráng đã được bí thư chi bộ cho phép, bí thư chi bộ ủng hộ.
Đến ăn canh bánh tráng không phải trả tiền, còn có một người nữa: Vương Thu Xá, một nhân vật nổi tiếng ở thị trấn, “rễ của các phong trào vận động”. Vương Thu Xá vừa ba mươi tuổi, có bộ mặt tròn xoe, những ngày bình thường trông giống như pho tượng Phật cười. Nhưng mỗi khi chính phủ cử người đến nắm phong trào, tổ chức một cuộc vận động nào đấy, thì nhất định anh ta trở thành cốt cán, nào vác loa đi gọi người đến họp, rồi đứng ra hô khẩu hiệu đầu tiên, gây không khí trong hội trường, nào vào ban canh gác để phòng người xấu, vô cùng đắc lực. Cho đến khi xong một phong trào, cuộc vận động đã trôi qua, anh ta lại giống như một quả bóng xì hơi. Mồm miệng luôn luôn nhờn mỡ, thích ăn ngon, người ta có một tiền, phải chia, tiêu làm ba lần, còn anh ta ba tiền coi như một tiền, đem tiêu. Mỗi khi đến ngồi ở cửa hàng canh bánh tráng bao giờ cũng chỉ một câu:
- Thím em, cho hai bát, ghi sổ!
Anh ta nói ráo hoảnh, không biết ngượng như thế.
Có khi còn vỗ vỗ vai chồng cô, nói đùa ngay trước mặt cô:
- Này người anh em! Làm ăn ra sao thế? Cậu với thím em của tôi lấy nhau đã bảy, tám năm rồi, mà thím em của tôi vẫn cứ như một cô gái trinh, chẳng biết mang bầu? Có khi phải mời lấy một anh thợ, kiếm lấy một tên nhóc mà bế bồng!
Câu nói đã làm cả hai vợ chồng cô phải đỏ mặt, buồn không được, tức không xong và chửi cũng không nổi. Đối với kẻ chỉ biết ăn không ăn hỏng này, Hồ Ngọc Âm tuy trong lòng tức tối, nhưng ở phường phố thị trấn này mỗi khi có phong trào vận động nào đó hắn vô cùng đắc thế, không dại chuốc vạ vào mình, nên vẫn đành phải cười cười, chịu cho hắn ăn quỵt.
Trong số khách hàng của mỗi phiên chợ, còn một con người kỳ quái nữa thế nào cũng ghé vào hàng, nên cũng đáng nhắc tới, người này có biệt hiệu là “Tần Rồ”, tên thật là Tần Thư Điền, thuộc phần tử loại 5. Tần Thư Điền vốn là một con người đàng hoàng, đã từng là giáo viên âm nhạc, thể thao của trường huyện, và là biên đạo múa của đoàn ca múa huyện, năm 1957 vì đã sáng tác một màn ca múa phản động, dùng dân ca để phản Đảng, nên bị quy thành phái hữu, bị đuổi về quê hương sản xuất. Thái độ của anh ngoan cố, chưa bao giờ chịu nhận tội phản Đảng phản xã hội chủ nghĩa, mà chỉ thừa nhận rằng mình đã có hai lần hủ hóa với phụ nữ, đề nghị bí thư chi bộ đại đội Lê Mãn Canh đổi chiếc mũ “phần tử phái hữu” thành cái mũ “phần tử xấu”. Anh có cả một mớ lý luận ngụy biện. Anh đến quán của Hồ Ngọc Âm bao giờ cũng nhằm vào lúc vắng người, anh cười tít mắt, trong miệng ngân nga một khúc hát: “Ơi gạo ơi! Gọi gạo đến, gạo đến nhiều. Cay đến nhiều... Nhiều nhiều”.
Có người hỏi:
- Này Tần Rồ! Anh cứ nhìn giời mà hát cái bài quỷ quái gì thế?
Anh đáp:
- “Cao cao mãi”, âm nhạc Quảng Đông, nhảy múa đấy.
- Cậu mà cũng cao cao mãi à? Rõ ràng là phần tử loại 5, có thấp thấp mãi thì có!
- Vâng ạ, đúng thế! Dưới bóng núi sông, một lòng cải tạo!
Khi đứng trước Hồ Ngọc Âm, Tần Thư Điền lại tỏ ra là người vô cùng biết điều, mắt không đảo ngược đảo xuôi, không nói quá nửa lời. “Chớ đánh đập chó gầy, đừng quấy rầy ngựa ốm”. Quả là Hồ Ngọc Âm có thấy anh ta tội tội, thấy anh ta khốn khổ. Đôi khi bốc bát canh cho anh ta, cô còn cố ý bốc thêm tý bánh, múc thêm thìa mỡ.
Mỗi ngày phiên chợ, những người bám vào nghề buôn bán sinh nhai, có đủ các loại, cá mè một lứa, đục trong lẫn lộn, mặt phật tâm xà, mặt phật tâm cũng phật, lương thiện, lưu manh, mượn gió bẻ măng, liệu gió kéo buồm, nhanh mồm nhanh miệng, lèo lá lật lọng, hàng xấu bảo tốt, hàng tốt bảo xấu, bẻo lẻo tráo trở, đánh đá chanh chua... không thiếu mặt nào!
Mấy người khách quen thuộc, thường hay đến cửa hàng canh bánh tráng của “cô Phù Dung”, xin tạm giới thiệu đến đây.
Mấy năm gần đây cuộc sống của con người giống như cái chợ. Trong toàn bộ câu chuyện sau đây, mấy nhân vật này chưa thể gọi là nhân vật chính, nhân vật phụ, mà còn nhiều nhân vật phải sinh sôi nảy nở ra, từ đầu xanh đến tóc bạc sẽ tiếp tục vai diễn, lần lượt gặp gỡ cùng độc giả.
Chú thích:
(1) Tên riêng của ba tỉnh Quảng Đông, Quảng Tây, Hồ Nam (N.D).
(2) Hoa sen ở Trung Quốc có nhiều tên gọi, như “liên”, “hà” và “thủy phù dung”, ở nguyên tác, tác giả dùng chữ “thủy phù dung” để đi đôi với “mộc phù dung”, cố ý nhấn mạnh vào chữ “phù dung” vừa là tên tác phẩm vừa là chỉ cả vào vùng đất Hồ Nam, vì xưa kia Hồ Nam nằm trong đất của nước Phù Dung, và về sau này, chữ “phù dung” chỉ để chỉ riêng và gọi riêng cho tỉnh Hồ Nam (N.D.).
(3) Người Trung Quốc ăn bánh chưng vào dịp tết Đoan Ngọ chứ không ăn vào dịp tết Nguyên Đán như ta (N.D.).
(4) Ngày này trong dân gian Trung Quốc thường ăn cháo. Tục lệ bắt nguồn từ Phật giáo: Tương truyền rằng Thích Ca Màu Ni đắc đạo vào ngày mồng 8 tháng Chạp, nên chùa chiền thường nấu cháo cúng Phật. Về sau dân gian lưu truyền mãi liền thành tục lệ. Nguyên chữ Hán là “Lạp Bát chúc” tức là “cháo mồng 8 tháng Chạp”. Nhưng trong nguvên bản, tác giả lại viết là “Lạp bát đậu”. Vì thế dịch là “cháo đậu” (N.D.).
(5) Tất cả những đơn vị đo lường dùng trong sách này như mẫu, cân, thước... đều là mẫu, cân, thước theo hệ thống của Trung Quốc (trừ những chỗ dùng mét hoặc kilôgam theo nguyên tác). Cụ thể là: một mẫu Trung Quốc ăn 666.67 mét vuông; một cân Trung Quốc ăn 0,5000 kilôgam, một thước ăn 0.333 mét... (N.D.).
(6) Đơn vị hành chính “khu” nằm dưới đơn vị “huyện” (N.D.).