“TIM CHÀNG NẰM GIỮA TIM EM”
MỘT MÌNH HỒ NGỌC ÂM DẬY SỚM, QUÉT ĐƯỜNG, đã bao nhiêu năm rồi? Cô lặng lẽ quét, quét và quét, không nghỉ tay, không ngẩng đầu. Đầu óc cô tính toán gì? Cô nghĩ ngợi gì, tưởng nhớ gì? Cô nghĩ về bóng dáng ngày xưa, Tần Thư Điền đẩy đưa ngọn chổi tre giống như người khỏa mái chèo trên sân khấu? Cô nghĩ về cái ngày hai người sung sướng chơi khăm được cả đôi nam nữ nắm quyền? Hay cô tìm những dấu chân còn lưu lại của Tần Thư Điền trên những tấm đá xanh trải trên mặt phố? Những dấu vết ấy, cô thấy nó ở nơi nơi trên mặt đường, dầy đặc, chồng chất lên nhau, và chính những dấu chân ấy đã dẫm trên từng tấm đá xanh làm cho nó nhẵn bóng lên. Liệu còn nhận ra, phân biệt được ra dấu chân nào là của anh Tần Thư Điền, dấu chân nào là của chính mình? Những dấu chân dù quét đến thế nào nó cũng chẳng mất đi được, mà nó vẫn gắn trên mặt những tấm đá xanh, gắn trong tâm khảm của Hồ Ngọc Âm, càng quét càng hiện lên rõ nét hơn... Tấm lòng tưởng nhớ người thân, đã trở thành chất sống tươi tắm cho trái tim cô. Có điều kỳ lạ rằng, trong những tháng năm dằng dặc ấy, cô đã nếm đủ những dư vị đắng cay cái khẩu phần về tinh thần, và món “lương thực” về thể xác cho một “kẻ địch giai cấp”, cô ngậm đắng nuốt cay, giống như một ngọn cỏ sống trong kẽ đá, và không còn bao giờ nghĩ về “cái chết” nữa. Cô cũng đã học được cái cách thức đối phó với mọi trường hợp trong cuộc đời, gọi cô đi đấu tố, cô vẫn bình thường y như đi sản xuất ở đại đội vậy. Cô chẳng phải đợi người ta túm tóc giật đầu, cô đã kịp cúi xuống trước. Cô cũng chẳng phải đợi người ta đá vào bụng chân, cô đã quỳ phịch xuống trước. Khi người ta tát vào mặt bên phải, cô sẵn sàng chờ đợi cái tát thứ hai giáng xuống bên mặt trái... Cô cũng đã bị đấu nhờn, đấu chai ra rồi và là một vận động viên lão thành, cô đáng được thưởng huy chương vàng “kiện tướng thể thao” - Tại sao trong cuộc thi đua đại cực tả trong mươi, mười mấy năm liền lại không bình bầu thành tích thi đua, không tặng thưởng các loại huy chương vàng, huy chương bạc, huy chương đồng? Làm như vậy cũng bớt được cho cô phần nào khổ nhục. Hơn thế nữa, mỗi lần bị dẫn lên hội trường đấu tố, cô lặng lẽ quỳ xuống quay mặt về phía bà con, vẻ mặt mụ mị, tê liệt, giống như một pho tượng thạch cao. Cặp mắt to tròn, trắng đen rõ rệt, đôi lúc ngẩng lên nhìn về phía bà con, mang đầy vẻ thê lương, ai oán, biểu thị rằng cô vẫn sống. Đôi mắt của cô, đã tranh thủ được lòng thương cảm của bà con, làm tan ý chí đấu tố của mọi người? Có khi nó đưa ra những kháng nghị âm thầm: “Thưa các ông các bà và chị em hàng phố, tôi chỉ là cô Phù Dung mở quán bán canh bánh tráng... bây giờ tôi quỳ trước mặt bà con đây, tôi quỳ cho đến khi nào bà con mở lượng hải hà, rộng lòng khoan dung, hạ cơn giận dữ, tha thứ cho tôi...”. Rõ ràng rằng, mỗi lần thị trấn mở đại hội đấu tố, khi có cô quỳ trên sân đấu, không khí đấu tố ở hội trường cũng dịu bớt hẳn đi, ý chí đấu tố của quần chúng không cao, mùi vị thuốc súng bớt nồng. Còn có người rơm rớm nước mắt, cúi đầu xuống không nỡ ngó nhìn. Còn có người viện đủ loại lý do, để nửa chừng rút khỏi hội trường, mặc dù ngoài cửa có dân quân canh gác.
Chim chóc ở trên cây, hoa cỏ ở dưới rãnh, đều có cái mệnh của nó cả. Hồ Ngọc Âm cũng có một cái mệnh của mình, vạn vật, vạn sự cũng đều có mệnh. Số mệnh đã được định sẵn. Nếu không, những đàn bà con gái ở thị trấn Phù Dung, cũng có kẻ so với cô là hư hỏng, là lười biếng, là điêu toa, và cả những người đàn bà lòng dạ xấu xa, độc địa, vậy mà chẳng có ai làm sao cả, song chỉ riêng cô, Hồ Ngọc Âm thức khuya dậy sớm, cố sống cố chết xoay xỏa, bán một tý canh bánh tráng lại toàn gặp chuyện đen đủi, chẳng lành, là tại làm sao? Những kẻ hoang phí, bóc ngắn cắn dài trong đại đội, những kẻ năm nào cũng xin cứu tế của nhà nước lại là những mặt hàng tốt là sao? Làm sao chính phủ lại coi trọng, lại coi những kẻ này là mặt hàng chính phẩm? Và chính những loại người này lại được coi là con đẻ, con chính thức! Xưa kia bọn quan lại yêu giàu khinh nghèo. Ngày nay người ta đảo ngược lại, đấu giàu yêu nghèo, và cũng chẳng thèm xem, tại sao lại giàu, tại sao lại nghèo, vì thế mới coi Vương Thu Xá là loại người hạng nhất, coi hắn là gốc rễ, là cơ bản. Đấy, Hồ Ngọc Âm, trong kiếp này đã làm một con ngốc nên mắc vào vòng cạm bẫy, có đầu thai vào kiếp sau, thì hãy ăn bơ làm biếng, nằm ngửa ăn sẵn, há miệng chờ sung, ngửa tay xin chính phủ cơm ăn, xin chính phủ áo mặc, học tập Vương Thu Xá, ngôi nhà sàn có nghiêng cũng chỉ lấy một cây gậy chống, lúc nào cũng là bần nông hiện đại, cốt sao cho cấp trên nhìn thấy thuận mắt, thuận lòng, làm con đẻ, con chính thức, làm rễ trong các phong trào vận động.
Sống thừa còn hơn chết yểu, mặt dầy mày dạn vẫn cứ cố sống, người ta có coi mình như một con quỷ, hay một con quỷ cái đen cũng cần phải sống. Hồ Ngọc Âm hôm nay đã có “người bạn lòng”, anh Tần Thư Điền dù còn đang phải đi tù, và anh Tần Thư Điền còn để lại cho cô một giọt máu, đó là bé Quân Quân, cô chết làm sao được, có hèn thêm, có khổ thêm cô vẫn đáng sống, sống có ý nghĩa. Bé Quân Quân đến nay đã lên tám, đã lớn lên trong sự bế bồng, chăm nom của cô, nó cười, nó quấy, nó ăn, nó ngủ, nó u ơ học nói, nó nhảy nhót trong những nụ hôn thương yêu của cô. Xòe ngón tay ra mà tính, nhà nước bỏ tù bố của bé Quân Quân mười năm, nay đã tù được chín năm rồi, anh sắp được thả về. Anh Tần Thư Điền lao động cải tạo tận một nông trường ở hồ Động Đình, tháng nào cũng gửi thư về, cuối phong thư nào cũng viết “Thơm, thơm bé Quân Quân”. Đâu phải chỉ có “Thơm thơm bé Quân Quân”? Hồ Ngọc Âm là người vợ có trái tim hiền thuận, những ý tứ của chồng cô, cô hiểu... Tháng nào Ngọc Âm cũng có thư trả lời cho anh, phong thư nào cô cũng viết: “Anh Thư Điền thương yêu, bé Quân Quân thơm thơm anh. Anh cần giữ gìn sức khỏe, cải tạo cho tốt, nhà nước sẽ sớm cho anh trở về. Em và bé Quân Quân đợi anh từng ngày, trông ngóng anh từng giờ. Em trông đợi anh sắp mỏi mắt rồi, trái tim ngóng chờ anh cũng sắp mệt rồi. Nhưng anh cứ yên tâm, bé Quân Quân bên em mỗi năm mỗi lớn, còn em không phải mỗi năm mỗi già đi đâu. Lòng em còn rất trẻ trung, và cái trẻ trung ấy, em gìn giữ cho anh, chờ đợi anh. Anh yên tâm, anh yên tâm, yên tâm...”. Đúng vậy, Ngọc Âm vẫn nhớ những bài hát ở “sàn hát mừng”, tất cả một trăm linh tám khúc, chẳng quên một bài nào, và vẫn còn hát được, và vẫn chờ anh Thư Điền về để hát anh nghe, vẫn nhớ, để khi anh Thư Điền từ nhà tù về sẽ lại cùng hát với nhau. Cái tấm lòng ấy, cái tâm tư ấy, Ngọc Âm ơi, cô có viết ra trong những bức thư? Cô chẳng nên sợ hãi, những bài hát trong “sàn hát mừng” chẳng phải là thứ ám hiệu nào, chỉ chống phong kiến một chút thế thôi, những nhân viên quản giáo chắc chắn sẽ cho phép anh Thư Điền đọc.
Mỗi sớm khi Hồ Ngọc Âm trở dậy, cô lặng lẽ đi quét. Đâu phải chỉ quét đường, mà cô bới móc, kiếm tìm những dấu chân trên mặt những tấm đá xanh, dấu chân của chồng cô...
Vào năm thứ hai, sau khi bè lũ “bốn tên” bị hạ bệ, đại đội bộ, rồi ủy ban cách mạng thị trấn và cả đồn công an nữa đã có người bảo cô:
- Hồ Ngọc Âm ạ, cô không phải đi quét đường nữa...
Nhưng sớm sớm hàng ngày cô vẫn cứ đi quét đường, cô sợ rằng, sau này vẫn còn có biến, khi ấy người ta sẽ đổ tội cho cô là chống đối, hai nữa hình như cô đã quen thế rồi, hình như cô muốn cô chấp nói với bà con hàng phố rằng: cần quét, cần quét, cần quét cho đến khi nào chồng tôi trở về, cho đến khi nào anh Thư Điền của tôi trở về! Một người đàn bà hiền dịu, một người đàn bà trầm mặc lặng lẽ không nói, và trong cái thế giới nội tâm ấy, là cả một kho tàng cực lớn trong những tình cảm yêu đương.
Mùa xuân năm nay - mùa xuân của năm 1979, ủy ban cách mạng thị trấn cho người đến tìm cô, và lại do chính những con người ngày xưa đã đấu tố điêu cô, đã quy thành phần phú nông sai cho cô, bảo cô rằng: Đã quy sai thành phần của cô, đã quá đáng với cô, nay minh oan cho cô, khôi phục lại thành phần tiểu chủ của cô, quyền tư hữu nhà cửa sản nghiệp sẽ được trả, nhưng nay thị trấn vẫn còn tạm mượn lại. Cô kinh hoàng, hai tay ôm lấy mặt, không thể tin nổi, không thể tin được, không thể như thế, không thể như thế được! Thế là nằm mê giữa ban ngày... Nước mắt chảy ròng ròng qua kẽ tay cô, nhưng cô vẫn không khóc được thành tiếng. Cô không dám rời đôi tay khỏi mặt, cô sợ khi buông tay ra nhìn, sẽ đúng là cô đang mơ thật! Không thể như thế, không thể như thế được. Cô đã bị là phú nông mười bốn, mười lăm năm nay rồi, cô đã bị không biết bao nhiêu lần đấu tố, không biết bao lần quỳ mọp gối, mà lại sai được sao? Người ta trắng trợn nói với cô: Làm sai rồi! Họ là những người thích đùa, những người trước kia đã gạt cô sang thành phần phú nông, nay lại vẫn những con người ấy tuyên bố rằng đã gạt sai. Những con người mỏng môi nỏ miệng ấy, gì cũng nói được hết, gì cũng làm được hết. Họ không bao giờ sai cả. Ai sai? Và sai ở đâu? Cho nên Ngọc Âm chẳng bao giờ đi tin vào những lời như thế. Đúng là cô đang nằm mơ.
Cho đến khi những người ở ủy ban cách mạng thị trấn, đem giấy tò công văn ra cho cô xem, chìa cả dấu son đỏ chói, to lù lù của đồn công an cho cô thấy, cô mới dám tin, điều đó là thật. Trời ơi, trời đất ơi, chỉ một suýt nữa là cô đã ngất đi. Người cô lảo đảo, nhưng không ngã sụp xuống. Cô đã chai sạn đi trong những năm tháng bị đấu tố. Nhưng rồi đột nhiên mặt cô đỏ lựng lên, đôi mắt lồi ra, xòe rộng đôi tay, rồi cô thét lên, (tiếng thét to đến mức chính bản thân cô cũng phải lấy làm kinh ngạc):
- Trước hết, đừng có vội trả lại nhà cửa, đừng có vội trả lại tiền nong, mà ngay bây giờ, các người hãy trả chồng tôi lại cho tôi, trả chồng tôi cho tôi, tôi đòi chồng, đòi chồng!
Mấy người cán bộ của ủy ban cách mạng thị trấn, kinh hoàng đứng dựng cả lên, họ cứ tưởng rằng, người đàn bà đã bao nhiêu năm, đến ngay vo ve như tiếng muỗi kêu cũng không dám thốt ra, nay đòi họ phải trả lại người chồng Lê Quế Quế đã tự sát từ năm 1964! Sắc mặt của mọi người bệch bạc cả ra, có người còn cuống quýt: Đấy xem cái người đàn bà này, vừa mới bỏ mũ cho thị, vừa mới thực hiện chính sách sửa sai cho thị, thị không cúi đầu, không cảm ơn thì chớ, thị lại còn gào thét láo lếu ở đây.
Hồ Ngọc Âm cứ giữ nguyên đôi cánh tay đã chìa ra của mình, giọng cô cũng đã thấp xuống, nói tiếp:
- Hãy trả lại chồng tôi, chồng tôi bị các người bắt bỏ tù, bỏ tù mươi năm, còn một năm nữa mới hết hạn, anh ấy không có tội, không có tội, các người biết không?...
Những người của ủy ban cách mạng thị trấn lúc ấy mới thở phào nhẹ nhõm, vội vã cười cười bảo cô:
- Tần Thư Điền cũng được sửa sai, minh oan, được bỏ mũ. Cái phái hữu của anh ấy cũng bị quy sai, nên còn phải phục hồi cả công tác cho anh ấy nữa. Đài phát thanh của tỉnh, tối hôm qua, đã cho phát “sàn hát mừng” của anh ấy rồi.
- Ha ha ha! Thế là sai tuốt! Sai cả đám! Anh Tần Thư Điền cũng bị quy sai! Ha ha ha! Trời đất ơi, trời đất ơi! Thế là xã hội mới đã trở lại rồi! Đảng cộng sản đã trở lại rồi! Ha ha ha! Thế là xã hội mới không bị biến mất hút, ấy là tôi nói chính sách của cái xã hội ấy đã trở lại rồi.
Hơn bốn chục tuổi đầu cô chưa bao giờ lại dám cười thoải mái, thỏa thuê như thế trên con phố lát đá xanh, và cũng chưa bao giờ làm ầm ĩ như thế, điên dại như thế ở chỗ phố phường. Cô hoa chân múa tay, đầu óc rũ rượi. Bà con hàng phố tưởng rằng cô phát điên, ôi con người đáng buồn và cũng thật đáng thương ấy. Cho tận đến khi bé Quân Quân chạy đến kéo cô, giật cô, cô mới ôm thằng bé lên, đi vòng quanh phố mấy lượt, cô hôn tới tấp vào mặt nó, rồi cô mới bước những bước đĩnh đạc trở về nhà trọ Hồ Ký cũ.
Về đến nhà, Hồ Ngọc Âm ngã vật ra giường khóc, cô khóc thật to. Khóc gì nhỉ? Khi đau thương, tuyệt vọng, khóc, khi có được niềm vui từ trên trời rơi xuống cũng khóc. Con người đúng là một quái vật vậy. Khóc! Do ông thần ông thánh nào tạo ra vậy? Cần phải tặng giải thưởng lớn cho các nhà sinh lý học: Cốc vàng tình cảm. Nếu không, buồn sâu, vui lớn sẽ không có chỗ phát tiết ra, con người ta sẽ bị ứ máu trong lục phủ ngũ tạng mất.
Sáng sớm hôm sau, Hồ Ngọc Âm vẫn đi quét rác trên mặt phố lát đá xanh như cũ. Trước đây, cô âm thầm, lặng lẽ quét, bây giờ cô sung sướng được đi quét phố. Cô thật là ngờ nghệch quá, sửa sai rồi mà vẫn đi quét phố, không quét cô sẽ ngứa tay ngứa chân chăng? Đâu phải vậy! Là một người đàn bà cô có cách nghĩ của người đàn bà, cô cần phải cảm ơn bà con phố phường, trong bao nhiêu năm nay, mọi người đã đối xử tử tế với cô, nhờ giời, vì thế mà họ không dầy đạp cô vào chỗ chết. Hồ Ngọc Âm chẳng thù ghét gì bà con. Bao nhiêu năm nay, sớm sớm Hồ Ngọc Âm trở dậy đi quét phố, có thế bà con mới biết rằng con đàn bà đen vẫn sống, con mẹ phú nông mới vẫn còn, bây giờ được mở mày mở mặt ra rồi, thì vẫn đi quét phố được. Quét phố có gì là xấu? Có gì là hèn kém nào? Chỉ những con người đi ăn mày, xin cứu tế, xin trợ cấp trong xã hội mới, mói là hèn là xấu. Nghe nói ở Bắc Kinh, ở Thượng Hải, những người đi quét đường quét phố gọi là công nhân vệ sinh, có người còn được bầu vào quốc hội, được biểu dương, được in ảnh trên báo chí nữa kia.
Thực ra, việc Hồ Ngọc Âm sáng dậy sớm quét phố, còn có một bí mật trong lòng cô. Cô biết rằng, anh Thư Điền đi cải tạo lao động tận hồ Động Đình, nơi ngàn dặm xa xôi, sau khi nhận được thông báo minh oan sửa sai, chắc chắn anh sẽ đi ngày đi đêm để trở về, anh sẽ muốn mọc cánh để bay về nhà. Đứa bé cốt nhục con anh, anh còn chưa được trông thấy mặt lấy một lần, và người vợ cách biệt một mạch chín năm có già đi không? Hồ Ngọc Âm biết rằng, lòng anh Thư Điền cũng tan nát, và nóng như lửa đốt, anh không đi ngày đi đêm mà về được không? Ngọc Âm suốt đêm nọ sang đêm kia trằn trọc không ngủ được. Bé Quân Quân ngược lại cứ ngủ như con tằm, mặc cho Ngọc Âm ôm nó, hôn hít nó, nó vẫn chẳng tỉnh. Vậy mà hết đêm này sang đêm khác vẫn chẳng nghe thấy tiếng chân bước, tiếng gõ cửa. Không thấy anh Thư Điền trở về, cô cứ bồi hồi dự đoán: Anh Thư Điền có thể sẽ về đến nhà vào sáng sớm! Nghe người ta bảo, những chuyến xe khách từ châu về huyện mãi tận chiều mới về tới. Từ huyện về thị trấn còn những sáu chục dặm đường, anh Thư Điền chắc chắn sẽ chẳng ngủ đêm lại ở huyện làm gì, anh sẽ đi bộ suốt đêm theo đường cái mà về! Đúng vậy, anh sẽ đi bộ suốt đêm mà về... Quét xong cả dãy phố, trời cũng đã sáng bạch ra rồi. Ngọc Âm cũng thất vọng, cô bỗng oán trách trong lòng: Chồng ơi là chồng làm sao mà lại ngờ nghệch vô tâm đến thế? Anh có chưa kịp làm thủ tục, chưa thoát được cái thân ra, thì cũng phải gửi một phong thư về chứ, hoặc đánh một bức điện báo về chứ. Cứ để cho người ta đêm đêm trông ngóng, sớm sớm mong chờ, thật vô tâm vô tính. Cứ để cho người ta dài cổ mà chờ mà đợi. Hay là khi anh về đến huyện, anh lại đi làm thủ tục phục hồi công tác trước? Chao ôi, bụng dạ đàn ông, còn cao hơn giời, lớn hơn giời. Hồ Ngọc Âm chẳng thích anh đi làm cái công tác quỷ quái ấy làm gì đâu, rồi lại mang tai mang họa vào người. Anh cứ ở ngay bên cạnh cái con Ngọc Âm này này, rồi trông con, trồng lấy cái đất phần trăm, nuôi lợn nuôi gà nuôi vịt, làm công điểm tập thể, rồi trang trí hoa văn cho cái nhà mình, phối một khúc ca, làm cho ngày tháng như nước chảy vui vầy.
Trong những tháng năm bị cuộc sống dày vò, đã làm cho Hồ Ngọc Âm luôn luôn ưu tư, lo lắng. Kể từ ngày cô được minh oan, được sửa sai, bỏ mũ, cô vẫn sợ có biến, sợ ngươi ta đột nhiên lại gào lên: “Đả đảo con mẹ phú nông mới!” Cô sợ dân bỗng nhiên lại đeo tấm bảng đen vào cổ cô, lôi cô đi đấu tố, bắt quỳ... Cô luôn giật mình sợ hãi, như một kẻ tâm thần. Cô thiết tha mong anh Thư Điền trở về, trở về sống cùng cô những ngày yên lành. Dù là hai ngày, ba ngày, hoặc dăm bữa nửa tháng, giống như vợ chồng nhà người ta, thẳng cái lưng, vai sánh vai đi phố, cười cười nói nói, bước vào cửa hàng mậu dịch, mua mua bán bán. Anh Thư Điền ơi anh hãy mau mau trở về đi, làm sao anh vẫn chưa về? Biết đâu rằng, rồi vào một ngày nào đó, em lại phải đội cái mũ của con mẹ phú nông mới lên đầu, và anh lại là phần tử phái hữu, rồi mới được gặp mặt nhau, thì tấm thân do tám chữ cúc dục, cù lao... sinh thành nuôi dưỡng kia, có khóc cũng không còn khóc được nữa đâu...
Sáng sớm hôm sau trời có mây mù, đọng sương, lạnh lẽo. Hồ Ngọc Âm lại đi quét đường. Đêm qua cô vẫn không ngủ được. Cô chẳng còn một chút hứng thú nào và kéo lê đôi chân mệt mỏi trên đường. Mong chồng, đã đến mỏi mòn con mắt, đã thất vọng hết tối lại hết sáng. Đêm nào cô cũng khóc, ngày cũng phải thay khăn phủ gối. Chồng cô không trở về, việc minh oan sửa sai đối với cô cũng bằng thừa! Tất cả những cái đó chẳng có ý nghĩa gì hết, chẳng làm được gì hết! Cô rất muốn chạy thẳng tới ủy ban cách mạng thị trấn làm ầm ĩ lên: Tại sao anh Thư Điền của tôi vẫn chưa trở về? Chính sách sai gì mà lại sửa kiểu ấy? Tại sao các người còn chưa tha cho anh ấy về?... Tiếng chổi tre quét trên mặt những tấm đá xanh vang lên những tiếng sạt sạt, sạt sạt, từng nhát từng nhát, cô quét tới chỗ góc bức tường vây của hợp tác xã cung tiêu. Cô dựa vào bức tường nghỉ tay một lát. Bất giác cô ghé người nhìn vào cái cửa ngách trong ngõ hẻm, nơi mà ngày xưa Vương Thu Xá đã bị ngã gãy chân. Bây giờ cái cửa ngách đã được lấy gạch xây bịt kín lại, chỉ còn lại cái dấu khung cửa. Thôi, kệ xác nó, kệ xác những chuyện xưa cũ ấy, còn đi nghĩ về nó làm gì... Cô quay người lại, cầm chổi, bỗng nhiên từ xa có bóng một dáng người, tay xách hành lý hay cái gì đó, vội vội vàng vàng bước về phía cô. Có thể đó là người khách cần đi cho kịp chuyến ô tô sớm. Ơ kìa, cái người khách này, không chịu hỏi, nên đã đi nhầm đường mất rồi. Bến xe ở tận đầu đằng kia cơ mà, cần phải đi ngược lại mới đúng chứ... Tiếng chổi tre vẫn quẹt trên mặt những tấm đá xanh vang lên những tiếng sạt sạt, sạt sạt...
- Ngọc Âm? Ngọc Âm! Ngọc Âm!
Ai đang gọi thế nhỉ? Sớm thế mà đã réo tên mình? Mắt Hồ Ngọc Âm hoa lên, mắt cô như mờ mịt đi, một người đàn ông cao cao gầy gầy đứng ngay trước mặt cô, râu ria xồm xoàm, mặc một chiếc áo mới, một chiếc quần mới, đặt chiếc túi xách xuống chân mình. Người đàn ông ấy ngơ ngơ ngác ngác, đứng đó như một khúc gỗ... Hồ Ngọc Âm giật mình bước lùi lại một bước.
- Ngọc Âm! Ngọc Âm! Ngọc... Âm...!
Giọng người đàn ông mỗi lúc một to hơn, dang rộng hai cánh tay như muốn chồm về phía cô. Mắt Hồ Ngọc Âm càng như mờ mịt hơn, sao mà bực thế? Làm sao mà mặt đối mặt rồi mà vẫn nhìn chẳng được rõ ràng, chẳng nhận ra được người đó là ai? Lòng cô mụ mị, thật đáng chết, lòng dạ mụ mị đi! Người đàn ông ấy phải chăng là anh Thư Điền? Mình lại đang nằm mơ hay sao đây? Anh Thư Điền, anh Thư Điền, phải chăng đấy là anh Thư Điền ngày đợi đêm mong của em? Không phải, không phải đâu, làm sao lại có thể đột ngột đến như vậy được, dễ dàng đến như vậy được? Người cô run lên bần bật, môi cô cũng giật giật, tim cô như thót lên tận cổ, ngực cô như tắc thở. Cuối cùng cô đã bật ra một tiếng kêu như vỡ họng:
- Anh... Thư... Điền...
Với đôi tay vạm vỡ, chắc nịch, Tần Thư Điền ôm chầm lấy vợ mình, xiết chặt, xiết chặt làm cho đôi chân của Hồ Ngọc Âm bốc lên khỏi mặt đất. cả thân mình Hồ Ngọc Âm mềm nhũn như một sợi mây. Cô nhắm mắt, khuôn mặt cô bạc trắng ra giống như một pho tượng được tạc bằng đá bạch ngọc. Cô mặc cho chồng cô ôm cô thật chặt, mặc cho râu ria của chồng đâm vào mặt cô đến bỏng rát lên. Cô chỉ có một ý nghĩ duy nhất, chồng cô đã về, không phải nằm mơ, đúng là đã về thật rồi. Nếu là nằm mơ xin hãy cho mơ dài một chút, đừng có bị đánh thức dậy ngay lập tức...
Chiếc chổi tre nằm đổ dài trên mặt những tấm đá xanh lát phố. Tần Thư Điền bế cô vào ngồi lại trên bậc thềm của hợp tác xã cung tiêu, giống như bế một đứa em gái trong lòng. Đến lúc này Hồ Ngọc Âm mói òa lên khóc:
- Anh Thư Điền! Anh Thư Điền! Anh... anh...
- Ngọc Âm! Ngọc Âm! Đừng khóc! Nín đi! Nín đi!
- Anh về mà chẳng viết cái thư về!... Em đợi sớm đợi tối... Em biết rằng anh sẽ đi ngày đi đêm mà về!
- Anh còn nghĩ gì đến chuyện viết thư nữa? Nghĩ gì đến chuyện viết thư nữa chứ? Đi tàu thủy, đi tàu hỏa, xuống tàu hỏa một cái là anh nhảy tót ngay lên ô tô, xuống ô tô là cuốc bộ ngay trong đêm, vậy mà vẫn giận mình sao không mọc được cánh mà bay... nhưng mà còn nhanh hơn cả mọc cánh nữa, hơn một ngàn dặm đường, tất cả chỉ mất có ba ngày! Ngọc Âm em không mừng sao, sao vẫn chẳng thấy em mừng?
- Anh Thư Điền! Vì anh mà em còn sống đấy!
- Anh cũng thế! Anh cũng thế! Nếu không, anh đã đâm đầu xuống hồ Động Đình từ lâu rồi!
Hồ Ngọc Âm ngừng khóc, cô choàng cả hai tay lên cổ Tần Thư Điền, tới tấp hôn, và hôn lên mặt anh.
- Trời ơi! Hồ Ngọc Âm! Râu anh tua tủa ra thế này, đúng là không kịp cả cạo nữa!
- Anh là một người đàn ông, làm sao mà hiểu được nỗi lòng của một người đàn bà!
- Nỗi lòng em anh hiểu được.
- Mỗi sáng sớm đi quét phố, em đều gọi tên anh, đều trò chuyện với anh, anh hiểu không?
- Hiểu, hiểu. Anh mỗi ngày dậy sớm, đi cắt cỏ hồ, đi gánh bùn hồ, bao giờ cũng đáp lời em, anh vừa hỏi vừa đáp. Anh biết rằng, em đang đi quét đường, mỗi sáng sớm anh biết em bắt đầu quét từ đâu, quét đến đâu thì em nghỉ. Anh nghe thấy tiếng chổi tre quét lê trên mặt những tấm đá xanh sàn sạt, sàn sạt...
- Anh ôm em đi! Ôm em đi! Ôm chặt vào! Em lạnh.
Hồ Ngọc Âm dụi dụi đầu trong ngực Tần Thư Điền, cô chỉ sợ bất chợt anh buông đôi tay ra, và bất chợt mọi thứ biến mất như một cái bóng.
- Ngọc Âm, Ngọc Âm, em yêu quý của anh... Người vợ khốn khổ của anh...
Lúc ấy, Tần Thư Điền lại bật khóc, nước mắt ròng ròng:
- Vì anh, mà em phải chịu bao nhiêu khổ cực, chịu bao nhiêu điều tội nợ... Đời này, kiếp này anh chẳng trả xong món nợ cho em đâu, không trả được cho em đâu. Bao nhiêu năm nay, anh chỉ có tâm niệm một điều rằng, trông mong một điều rằng, làm sao về được bên em, nhìn em được một lần, thế là thỏa nguyện lắm rồi... Vậy mà, chẳng thể ngờ được rằng, ông giời có mắt, anh và em lại có ngày còn được làm người...
Lúc này Hồ Ngọc Âm không còn khóc nữa, một tình cảm yêu thương như của một người mẹ, bất chợt bùng dậy trong con người cô. Cô xoa xoa mái tóc rối bù của Tần Thư Điền, an ủi anh:
- Anh Thư Điền, anh có thấy em còn khóc nữa đâu, sao anh lại khóc? “Tim chàng nằm giữa tim em”. Em còn nhớ rằng, trước kia mẹ em đã bảo em, một người, được người khác yêu thương, nghĩ tới, thì dù có bị tai họa, khổ cực đến đâu, cũng vẫn được bình an vô sự... Bao nhiêu năm nay, lòng em luôn luôn nghĩ như thế, yêu thương như thế, cho nên hôm nay anh với em mới được bình an vô sự gặp nhau! Thôi hãy đứng dậy thôi anh, ngồi mãi trước thềm hợp tác xã cung tiêu thế này, bà con hàng phố dậy sớm, sẽ trông thấy mất, rồi người ta cười cho mà xem!
Tần Thư Điền lại khóc, cả hai người cùng đứng dậy, như một đôi tình nhân trẻ tuổi quá say mê nhau, tựa vào nhau, đi về nhà trọ Hồ Ký cũ.
- Bé Quân tròn tám tuổi rồi, phải không? Liệu nó có chịu gọi anh là bố không nhỉ?
- Em đã cho nó biết từ lâu rồi. Ngày nào nó cũng hỏi, bố bao giờ về, nó mong anh lắm đấy... Này em nói trước, nếu anh chỉ biết có nó, quăng em sang một bên... là em không có chịu đâu...
- Vớ vẩn, em chỉ toàn nói vớ vẩn, toàn những câu vớ vẩn!