MỘT VĨ THANH THỜI ĐẠI
MỖI PHIÊN CHỢ CỦA THỊ TRẤN PHÙ DUNG XUÂN nay, đã khác xưa rất nhiều. Ngày xưa đi chợ, những người trong núi cứ như họp “chợ đen”, đem bán những đặc sản núi rừng hiếm quý, da lông, dược liệu, đều cần phải mọc đôi mắt ở đằng sau gáy, để mắt trước mắt sau xem động tĩnh thế nào. Tất cả lương thực, dầu hạt chè, vừng, lạc, đậu tương, bông, sợi gai, trâu, dê vân vân đều thuộc vào “ba loại vật tư” do nhà nước thống nhất quản lý, nghiêm cấm đem mua bán ở chợ. Còn như thịt lợn thịt trâu, đến ngay các xã viên quanh năm ngày tháng cũng chẳng được dính răng đôi lần. Lợn nuôi, ngay từ khi còn bú mẹ, đã phải đăng ký bán nghĩa vụ, trừ khi chết dịch, mới đem cái thứ thịt “lợn toi”, đỏ dòng dọc ấy ra chợ bán. Những người ở thành phố, mỗi người, mỗi tháng được nửa cân tem thịt, có khi còn phải nhờ người quen, đi cổng sau mới mua được. Nói lại kể cũng vui, đối với loại thực phẩm quý hiếm, khó khăn này, trên báo chí, rồi “bản tin tham khảo”, lại tuyên truyền rằng, cứ theo như y học hiện đại phân tích: Hàm lượng côlêchtêrôn trong mỡ động vật rất cao, dễ gây ra bệnh xơ cứng động mạch, bệnh tim, cao huyết áp, cho nên ngày ngay, trong những nước thường lấy thịt làm thức ăn chính, đều chủ trương ăn những thức ăn thô, nên ăn nhiều rau cùng lương thực phụ, nhiều chất xơ thực vật mới có lợi cho thân thể, những người mặt mũi hồng hào chưa biết chết đột tử, lúc nào, da mặt vàng võ mới sống được dài lâu, trăm năm tuổi thọ...
Thời gian giống như một trò ảo thuật! Khi “bè lũ bốn tên” bị hạ bệ mới ngắn ngủi khoảng hơn hai năm một tý, mà người miền núi dường như đã cách mấy đời mới chợt bừng tỉnh, bước ngay vào một thời buổi hiện đại. Bây giờ chợ Phù Dung, một tháng ba tuần, mỗi tuần vào ngày một, ngày sáu những cô em người Dao, những bà chị người Choang, mặc xanh xanh đỏ đỏ, vòng bạc sáng long lanh, cùng với những chàng trai người Hán quần áo là thẳng nếp, tất cả, những chị em cáng đáng mọi việc trong nhà, sau một mùa bội thu mặt mày hớn hở, tiền rủng rỉnh, nhét chật trong hầu bao những chàng trai làm chủ gia đình, hoặc tốp năm tốp ba, hoặc hai người thành một đôi, hoặc gánh những gánh rau đầu mùa xanh non mỡ màng, hoặc xách những làn, những giỏ trứng vịt xanh màu trứng cuốc, hoặc trứng gà màu hung, hoặc đẩy xe cút kít trên xe đầy những thủy sản cá tươi còn nhảy tanh tách của các đội sản xuất, các xí nghiệp địa phương, hoặc đạp sau những chiếc xe đạp lao vun vút, đèo đằng sau một cô gái nói cười hể hả... Người từ những con đường lớn, đường nhỏ bốn phương dồn về, chiếm lấy vài thước đất ở phố Cũ, phố Mới bày hàng đặt gánh, bán bán mua mua. Những người như nước chảy sông trôi đó, những tiếng ào ào, như chợ vỡ đó làm cả thị trấn ầm ầm náo động lên. Trong chợ, nơi làm cho mọi người chú ý nhất là những gian hàng mới xuất hiện: dãy hàng gạo, hàng thịt. Gạo trắng, gạo cẩm, gạo xay, gạo máy, từng sọt, từng gánh, xếp thành hàng, tùy thích mọi người lựa chọn, trả giá. Chính sách mới quy định, tất cả các xã viên sau khi hoàn thành nhiệm vụ và nghĩa vụ với nhà nước xong, được đem ra chợ bán tự do tất cả những thứ dư thừa như lương thực dầu mỡ, nông sản phụ. Dãy hàng thịt trông còn ngon con mắt hơn, hai dãy phản thịt, trông cứ như hội chợ triển lãm bình tuyển của những nhà chăn nuôi, xem thịt nhà nào có khổ mỡ dày thịt ngon, bì mỏng thịt mềm, “Này ông anh! Con lợn này tới trên dưới ba trăm cân đấy nhỉ?”. “Ba trăm năm chục! Nuôi thêm nữa sức đâu mà chăm nom!” “Ối giời, thịt gì mà toàn mỡ thế này, chẳng có một tẹo nạc nào! Bà vợ tôi sợ béo...”. Thật khó mà chiều được ông anh đồng chí, cứ thử nghĩ lại hai năm trước đây mà xem, một tháng nửa cân thịt phiếu, rau thì toàn xào chảo không, thế mà bây giờ lại chê béo, chê lắm mỡ, ít nạc! Thật đúng là tự do như trèo lên đỉnh núi mà hát nghêu ngao vậy. Ngay những ngày không phải phiên chợ, những cửa hàng thịt cũ trên phố Mới bây giờ cũng mở cửa hàng bán suốt từ sáng sớm cho tới tối đêm. Sản xuất cung tiêu đã nảy sinh một mâu thuẫn mới: Xã viên đòi giao lợn, cửa hàng thực phẩm không chịu nhập. Lý do là thị trấn nhỏ, không có kho lạnh, đến thịt của tư nhân còn bán không hết, huống hồ lợn nhà nước mổ ra ai rước đi cho? So với ngày xưa, quan hệ mua bán nay đã hoàn toàn trái ngược lại... Những người miền núi nào cũng có biết cụ thể “bốn hiện đại hóa” là cái quái gì đâu, nhưng mà qua những lợi ích thiết thân, họ đã bắt đầu được nếm thử cái mùi vị ngọt ngào đó.
Không có lo gần, song vẫn có lo xa. Những ám ảnh cũ vẫn còn chưa được rũ sạch trong lòng mỗi người dân, nỗi phập phồng sợ hãi vẫn còn đây còn đó. Mọi người vẫn cứ hồi hộp âu lo, to nhỏ bàn bạc rằng, những nanh vuốt cực tả, trong một đêm, hôm tối trời nào đó, sẽ đột nhiên vùng dậy, nhổ phắt cái mầm non mơn mởn và còn chưa được cứng cáp này đi. Những khẩu hiệu và biểu ngữ, đấu tranh và vận động, liệu có còn trỗi dậy phá phách trỏ lại được nữa không, lại làm ách tắc đời sống con người, lại làm cạn kiệt hết dầu mỡ mắm muối cùng những nhu yếu phẩm không thể thiếu được trong đời sống con người... Những ám ảnh ấy quả thật là vẫn còn tồn tại. Sau khi Vương Thu Xá chủ ngôi nhà sàn phát điên, phát rồ, ngày ngày vẫn vật vờ ở phố Cũ, phố Mới, trên vạt áo nhếch nhác bẩn thỉu của y lúc nào cũng đeo đầy những huy hiệu hình người lấp lánh. Còn miệng y lúc nào cũng lảm nhảm bằng một giọng thê thảm:
- Ngàn vạn lần xin chớ có quên!...
- Năm, sáu năm lại làm “đại cách mạng văn hóa” một lần...!
- Đấu tranh giai cấp, mày chết tao sống... a...!
Tiếng nói của thằng Vương Điên, tiếng nói u linh, ma quỷ vẫn cứ phảng phất vang vang trong thị trấn Phù Dung. Người lớn trẻ con ở thị trấn, vào ban ngày hễ gặp Vương Điên, là chạy tụt ngay vào trong nhà, cài cửa cho thật chặt. Ban đêm hễ nghe thấy tiếng kêu gào thảm thiết của y thì bàng hoàng hoảng hốt, người run lên cầm cập. Hồ Ngọc Âm, người đã trở thành nhân viên phục vụ khi cô mở lại quán bán canh bánh tráng trên phố Cũ lát đá xanh, nghe tiếng gào thét của Vương Điên đã từng đánh rơi chiếc muôi múc nước dùng. Mới gần đây, cả nhà ông trưởng trạm thuế vụ, cả nhà ông chủ nhiệm hợp tác xã cung tiêu mới trở lại thị trấn do chính sách sửa sai, cứ chợt nghe thấy tiếng y kêu gào là người lớn lại trào nước mắt, trẻ con thì gào khóc, tối đến khó mà ngủ cho ngon giấc... Chủ nhân ngôi nhà sàn vẫn cứ là một đại họa của thị trấn Phù Dung.
Mọi người trong thị trấn miền núi này vẫn đang còn lo âu, nguyền rủa hắn.
“Cô Phù Dung” cũng vẫn còn chập chờn thấp thỏm mỗi khi xoa đầu chú bé Quân Quân ngây thơ, ấu trĩ của mình:
- Cái thằng Vương Điên ấy, không chết đói, không chết rét, không biết nó còn sống đến bao giờ?
“Ớt phật thủ”, vợ Lê Mãn Canh cũng vẫn luôn luôn tự hỏi:
- Lẽ nào trong cái đầu óc đùng đoàng của cái thằng Vương Điên ấy vẫn còn muốn làm trưởng thị trấn, làm bí thư chi bộ, để bắt mình đi tập những bài thể dục ngữ lục, và đi múa điệu múa chữ trung?
Bí thư chi bộ đại đội sản xuất của thị trấn Lê Mãn Canh nói:
- Điên cho đáng đời! Chúng ta là xã hội mới, có Đảng lãnh đạo. Cái bọn người kiểu như Vương Thu Xá, cuối cùng cũng chẳng nên trò nên trống gì. Thật là một bài học sâu sắc!
Cốc Yến Sơn, “Đại Binh phương Bắc”, bí thư thị trấn, đang bận rộn với việc chống ô nhiễm cho sông Phù Dung, cho ngòi Ngọc Diệp, chẳng nói gì về chuyện này, ông đã định rằng cho người đưa Vương Thu Xá đến chữa bệnh ở bệnh viện tâm thần của châu, coi như một sự tống quỷ, tiễn ma.
Phó phòng văn hóa huyện, Tần Thư Điền mới đây đã trở lại thị trấn Phù Dung để sưu tầm dân ca, lại nói một câu xem có vẻ đầy triết lý sâu xa:
- Bây giờ có thành lớn, trấn nhỏ nào mà chẳng có vài ba người điên đang vật vờ, gào thét? Nó là cái vĩ thanh đáng buồn, đáng trách của thời đại chúng ta.
Viết lần đầu tại Mãng Sơn từ 18 tháng 7 đến 4 tháng 8 năm 1980.
Tháng 9, sửa chữa lần đầu tại nhà sáng tác, hội Nhà văn Trung Quốc.
Tháng 10, sửa chữa tiếp tại số nhà 166 phố Triều Nội, Bắc Kinh.
CỔ HOA
LÊ BẦU (dịch)