ĐÔI LỜI TÂM SỰ
Tiểu thuyết “Thị trấn Phù Dung”, sau khi in vào số 1 tạp chí “Đương Đại” năm nay, đã được sự chú ý của độc giả khắp nơi trên toàn quốc. Trong vòng vài tháng, bộ biên tập tạp chí “Đương Đại” và tôi đã nhận được mấy trăm bức thư. Các thầy, các bạn trong giới văn nghệ cũng hết sức nhiệt tình cổ vũ. Trước sau đã có những bài phỏng vấn, bình luận, và đưa tin của báo “Quang Minh”, báo “Thanh niên Trung Quốc”, “Đương Đại”, báo “Văn Hối”, “Tác phẩm và đua tiếng”, nhật báo “Hồ Nam” vân vân. Điều đó đã khiến cho tôi một anh chàng nhà quê ngớ ngẩn, vô danh tiểu tốt vô cùng sửng sốt, đồng thời cũng cảm thấy có được một tình bạn thân thiết và sự ấm áp như mùa xuân. Trong thư từ của bạn bè, độc giả gửi tới, nói chung đã đặt ra cho tôi một số vấn đề:
Con đường sáng tác mà anh đã đi, nó như thế nào? Anh đã viết “Thị trấn Phù Dung” ra sao? Trong bức tranh “đặt những phong vân chính trị vào trong phong tục dân tình, và mượn số phận của nhân vật để miêu tả sự thay đổi của đời sống nơi hương vật để miêu tả sự thay đổi của đời sống nơi hương trấn”, cùng với sự miêu tả cảnh sắc hương thôn trong tiểu thuyết, có liên quan cụ thể nào với sự từng trải trong đời sống của chính bản thân anh? Bố cục, kết cấu bộ tiểu thuyết này của anh cũng là lạ, khó tìm được những cái tương tự để so sánh, có thể nói là không Tây, không ta, không quê, không tỉnh. Cái kết cấu, bố cục ấy do đâu mà ra? Về phương diện ngữ ngôn văn học anh đã được kế nghiệp từ ông thầy nào? Thích đọc những tác phẩm văn học nổi tiếng nào? “Nhân vật phái hữu Tần Thư Điền cao ngạo, bỡn cợt cuộc đời, phải chăng là sự hóa thân của bản thân tác giả?”. Những đồng chí gần gụi với giới văn nghệ thì bảo: Anh viết cuốn tiểu thuyết này chỉ trong vòng hai mươi mấy ngày, như vậy là một mạch thành chương, đúng thế chăng?
Những câu hỏi như thế đặt tôi vào đối diện với những cặp mắt nghiêm trang, trầm tĩnh, nhiệt tình và rưng rưng lệ của độc giả cùng bè bạn, khiến tôi phải suy nghĩ và vô cùng cảm động. Văn học tức là sự tìm tòi cùng khảo sát về đời sống xã hội mà bản thân tác giả đã tự thể nghiệm được, và cũng là một hình thức “tự hỏi tự đáp” về cuộc đời mà tác giả đã nhận thức được. Tất nhiên những nhận thức, những tìm tòi, những khảo sát, không bao giờ dừng lại, mà nó luôn luôn tiến triển.
Đứng trước hai vấn đề sau cùng, bất giác tôi thấy ngậm ngùi nuối tiếc. Bởi lẽ tôi vốn là người viết chậm, và phương pháp làm việc thô thiển, nay bỗng nhiên được đeo lên vòng nguyệt quế: “tài năng mẫn tiệp”, “ngày viết vạn từ”. “Bình sinh chẳng ước vọng cao; Ngày ngày rót chén rượu đào con con...”. Cứ theo như ngụ ý người nhà quê của tôi, một năm viết được vài ba cuốn với ngót ngét mươi vạn chữ, đã là những năm tháng mưa thuận gió hòa, ngũ cốc phong đăng rồi, và cũng là sung sướng đến ngất ngây theo kiểu đầy đủ của con nhà nghèo rồi. Thực ra đối với thời gian sáng tác một tác phẩm mà nói, không thể chỉ tính từ lúc đặt cái bút viết cho đến khi viết xong chữ cuối cùng. Những điều viết trong “Thị trấn Phù Dung”, về phong tục xã hội, về thế thái nhân tình, về cuộc đời nhân vật, thực ra tôi đã quen thuộc từ tấm bé, cho đến khi trưởng thành tôi đã bắt đầu cấu tứ và suy nghĩ về nó. Đúng như lời luận bàn của ông Kim Thánh Thán, đời Thanh, ở ngay cuốn đầu của bộ sách tài tử thứ 5: “Nhưng mà nung nấu trong lòng, lâu ngày thành quen, đâu chỉ là căng giấy, ngoáy bút, sau đó phát huy. Mà là phong phanh, bên rào, trời rét, năm canh thao thức trong chăn, gục đầu mà nghĩ, giương mắt mà nhìn, tất cả rồi sẽ gặp đấy”. Tôi thấy rằng bất kể đời sau, đánh giá công tội thế nào của Kim Thánh Thán về vấn đề “Thủy Hử”, song cái điều mà ông đã ngộ ra được có liên quan tới đạo lý sáng tác tiểu thuyết, thật vừa tinh tế vừa độc đáo, đáng làm gương cho hậu thế soi chung.
Tôi đã học viết tiểu thuyết như thế nào? Và đã viết “Thị trấn Phù Dung” như thế nào? Điều đó phải được bắt đầu nói tới việc thích thú, ham mê đọc sách của tôi. Tôi có đọc được một ít sách, có thể nói là lung tung, không thành hệ thống gì hết. Bắt đầu, khi nhỏ ờ nhà quê, tôi đọc nhổ đọc nháo, đọc ngấu đọc nghiến, một ít tiểu thuyết kiếm hiệp, truyện truyền kỳ quái dị, cũng may mà tôi không bị cái thứ “võ hiệp” ấy dẫn dụ vào con đường ngang ngõ tắt, không đi lên Nga My sơn tìm những dị nhân để học lấy dị thuật. Tiếp đó tôi đọc “Tam Quốc”, “Thủy Hử”, “Tây Du “, “Hồng Lâu” rồi đọc những danh tác trong thời “Ngũ Tứ” trở lại đây, mới gọi là hơi hơi nếm biết mùi vị của giá trị văn học, cùng cái sức mạnh của nó. Tiếp nữa cũng là sự cưỡi ngựa xem hoa đối với văn học phương Tây thuộc thế kỷ thứ XVIII, XIX, chìm đắm mê muội với Tuốcghêniép, Tônxtôi, Mêrimê, Bangiắc, Giócgiơ Săng vân vân, những bậc thầy sáng tạo ra những vóc dáng nhân vật trong thế giới nghệ thuật, đó là những việc của tôi sau khi tốt nghiệp trung học. Sau đó với một thời gian tương đối dài, tôi đã có những cơn nghiện mới, thôi thì trăm thứ bà rằn, mỗi thứ đọc một ít, nào những tác phẩm hay về lịch sử, về triết học, nào chân dung nhân vật trong nước và ngoài nước, nào hồi ức chiến tranh, nào những ghi chép về các sự kiện lớn trên thế giới. Lại do bản tính tò mò, thích đi đây đi đó, nhưng con mắt vô duyên lại chẳng được trông thấy vầng trăng nước Mỹ, ông mặt trời của “đế quốc mặt trời không bao giờ lặn”', thủy tiên nước Pháp, những đấu trường của La Mã cổ, nên chỉ đành để cho lòng dạ, tâm trí phóng tràn trên những cánh đồng trang sách, và lần mò theo dõi những tin tức bí mật được hé lộ dần trên những báo chí về những chuyến bay trên trời, những chuyến thăm dò dưới biển, cùng những bom hạt nhân, người ngoài hành tinh, đĩa bay, văn hóa Maya, Kim Tự tháp cùng tam giác quỷ Bécmuýt. Cứ thế, tháng ngày tích cóp, xuân thu chuyển vần, rồi trong một phút bất chợt tôi kết thân với văn học như đâu có tiền duyên từ kiếp trước.
Và như thế là tôi đặt đòn gánh lên vai, loạng choạng bước đi, bắt đầu học viết tiểu thuyết. Thậm chí còn như đáy giếng nhìn trời, tự tin rằng: với chút vốn từng trải trong cuộc sống, chút hiểu biết về xã hội và cuộc đời, mà người xưa - dù đó là những triết nhân cổ đại - chưa từng thấy, chưa từng nghe, nếu không viết ra quả thật là đáng tiếc. Tuổi tác tôi chưa có thể gọi là nhiều, trong đời sống cũng chẳng có gì gọi là chìm nổi có liên quan tới sự sống chết của tính mạng, ngược lại, có thể nói rằng tôi đã bước vào cuộc đời từ nơi xuân ấm, thu se, nơi mạch suối, nước khe tuôn chảy. Tôi ra đời trong một vùng nông thôn tỉnh Hồ Nam. Sau khi tham gia công tác, tôi ở một nơi gần một thị trấn nhỏ thuộc miền núi Ngũ Lĩnh và ở một mạch mười bốn năm liền, lao động, học hỏi và kiếm sống, và đã bị lôi cuốn một cách không tự nguyện vào các cơn lũ của mọi phong trào vận động, và đã ngập chìm vào phong vân, biến đổi của thời đại cùng sự biển dâu nóng lạnh của đại địa Trung Hoa. Tôi ấu trĩ, cung cúc, ngu muội, đôi khi trong đáy sâu tâm khảm, cũng có nổi dậy những trận phong ba điên cuồng, và đã từng có lúc đứng trước những nanh nhọn, vuốt sắc của “cuộc khủng bố đỏ”, tính toán chuyện coi nhẹ thân mình.
Ở thị trấn nhỏ cũ kỹ miền núi ấy, tất cả những đường phố lát đá phiến xanh, những ngôi nhà mới gạch đỏ, ngói xám xanh, những cây long não già nua xòe tán lòa xòa, những ngôi nhà sàn xiêu xiêu vẹo vẹo, đều có một sức hấp dẫn sâu sắc, một cảm giác thân thiết mang đầy tính lịch sử đối với tôi. Những thăng trầm chìm nổi, những cảnh ngộ buồn vui, những đen đỏ bi hoan của những cư dân ở đó, cho đến tiếng gà kêu chó sủa... cũng đều hiển hiện trước mắt tôi, thấm sâu vào lòng tôi. Tôi nhận ra rằng sự tiến triển trong sản xuất vật chất ở miền núi rất chậm chạp mà mối quan hệ giữa người và người lại thay đổi một cách gấp gáp, nhân tạo.
Trước cuộc “đại cách mạng văn hóa” và trong cuộc “đại cách mạng văn hóa”, tôi đều bị lún sâu vào trong những vũng bùn khốn khổ, và cũng có thể nói là sự dằn vặt mâu thuẫn giữa cảm tính và lý tính. Thứ nhất là cuộc sống của mình bị sàng lọc, xáo trộn đến phờ phạc uể oải, nó khác xa với cuộc sống xã hội mà bản thân mình vốn đã mắt thấy tai nghe, thậm chí nó hoàn toàn ngược lại nữa kia. Cho đến bây giờ, cái nguyên nhân, chẳng nói, ai cũng đều đã rõ. Thứ hai nữa là do cơ sở văn học còn khiếm khuyết, bản thân lại nằm ở một khu biên viễn hẻo lánh, cách xa nơi kinh thành, đại ấp, không có trường mà cũng chẳng kiếm được. thầy. Vì thế, ngót hai mươi năm nay, mỗi khi tập tành viết được ra một cái gì đó, dù là một bài tản văn hai ba ngàn chữ, hoặc một cái truyện bốn năm ngàn chữ, bao giờ, đối với tôi, trước khi viết cũng như đang phải trải qua một cuộc thi cử quan trọng, và rơi vào một trạng thái hết sức băn khoăn, hồi hộp, lo lắng. Trong khi ngồi viết, ngay cả khi “văn chương lai láng”, “nước chảy mây trôi” thì khi viết xong được phần trên, đã lo ngay ngáy không biết phần dưới có viết tiếp được ra nữa không (bất kể là hay hay dở). Bản thảo viết xong, thường cũng lấy làm đắc ý được nhất thời, nhưng sau dăm ba hôm là đã bắt đầu thở vắn than dài. Mất sạch cả lòng tin, và bắt đầu xuất hiện cảm giác “thất bại” xám xịt. Vợ tôi là người hiểu được tâm trạng này của tôi, mỗi khi thấy tôi không kìm nén nổi nỗi say sưa của mình trong quá trình viết lách, đã hào hứng ba hoa nói cho bà biết, tôi đang viết về một nhân vật nào, một tình tiết nào, hoặc một đoạn văn nào, bà lại cười giáng cho tôi một búa:
- Em biết thừa cái cung cách của anh đi rồi! May ra cũng được vài ba ngày, rồi lại sắp, lại sắp thở thở than than...
Quả nhiên chỉ vài ngày sau, khi bản nháp đã viết xong, tôi đã từ chỗ đắc ý, nhảy tót ngay sang phía sau của nó - lạnh tanh, buồn bã. Cho đến rất nhiều ngày sau, mới lại dằn lòng, không cam tâm thất bại, đem bản thảo ra, nhờ bạn bè đọc giúp xem xem liệu có sửa chữa gì được không. Không ít tiểu thuyết của tôi, đã được bạn bè cổ vũ khuyến khích, mới lại nhóm lại hỏa lò, viết lại từ đầu lần thứ hai, lần thứ ba. Tôi không thể nào sửa chữa nổi theo kiểu ngoặc lên ngoặc xuống trong bản thảo đầu tiên, mà là lấy giấy khác, vừa chép vừa chữa, và đã phải bỏ khá nhiều công sức trong việc “thôi sao” từng chữ từng câu. Tôi hâm mộ những người đồng hành viết nhanh và hâm mộ cái bản lĩnh cùng tài hoa trời cho “một lần nên chuyện” của họ. Nếu như tôi không có được một đời sống cơ bản do chế độ xã hội chủ nghĩa ưu việt bảo đảm cho mà lại phải sống trong chế độ cạnh tranh của một xã hội khác, tôi chết đói là cái chắc.
Mùa thu năm 1978, tôi có đến thăm một miền núi của một huyện lớn. Khi đó khắp nơi trong toàn quốc đang có một cuộc thảo luận lớn: “Tiêu chuẩn chân lý”. Trong tất cả các thành thị, thôn xóm, bắt đầu sửa sai cho những án giả án oan do sự sai lầm của chính sách tả gây ra từ mười mấy hai chục năm nay. Một cán bộ phụ trách âm nhạc ở phòng văn hóa huyện này có kể cho tôi nghe chuyện một người đàn bà góa trong huyện anh bị án oan. Bản thân câu chuyện rất bi thảm, trước sau chết mất cả hai người chồng. Trong khi người nữ xã viên này lại đầy đầu một niềm tin mê tín, chỉ tự trách minh là cao số, là bạc phận, là sát phú. Lúc mới nghe, tôi củng có suy nghĩ, chỉ coi như một thứ tài liệu, ý tứ không nhiều. Sau đó ít lâu tôi tham dự một cuộc tọa đàm về sáng tác ở thành phố, tôi cũng có đem chuyện đó kể lại cho một số đồng chí nghe. Bạn bè đã góp ý kiến đối với tôi, đại khái có thể viết thành một cái truyện lấy tên là “Người quả phụ khóc mồ” hoặc “Mộ đôi”, hoặc “Rửa sạch nỗi oan cho một người đàn bà” gì đó... Tôi biết mọi người vẫn chỉ là nói để mà nói thế thôi, chứ thật chưa suy nghĩ kỹ về vấn đề này.
Đại hội toàn quốc lần thứ ba mang đầy ý nghĩa lịch sử của Đảng, đã đưa ra một đường lối chính xác: “Thực sự cầu thị, giải phóng tư tưởng”, đã làm cho cuộc sống chính trị trong toàn đất nước chúng ta có một bước ngoặt về lịch sử. Nhân dân suy nghĩ, Đảng và nhà nước đã quay đầu lại, tổng kết kinh nghiệm và rút ra những bài học trong khoảng hai mươi năm xây dựng đất nước. Còn tình hình văn học kể từ khi đập tan “bè lũ bốn tên” trở lại đây, cũng đã sớm đem tâm hồn mẫn cảm của mình, đi sâu nghiên cứu đời sống, và đó cũng là một bài học, một vấn đề to lớn của nghệ thuật. Tôi cũng ngoảnh đầu lại, sơ kết con đường viết lách mà tôi đã trải qua. Đường lối, phương châm của đại hội lần thứ ba, đã khai thông những bê tắc của tôi, cho tôi một lý luận nhận thức cao, giúp tôi có đủ dũng khí và nghị lực để nhận thức lại, mổ xẻ những hiểu biết quen thuộc đối với đời sống thị trấn nông thôn vùng Tương Nam. Tôi như được trèo lên một dốc núi cao, nhìn được từ cao xuống cả một vùng trong vòng hai ba chục năm nay nơi hương trấn nông thôn, của khu vực Tương Nam, với đầy đủ gió mây tụ hội, mạch suối lòng khe cùng sự thay đổi của dân tình... Vào khoảng tháng 7 và tháng 8 năm 1980, giữa những ngày nóng bức, tôi trốn vào một thơi thâm u mát mẻ của một lâm trường vùng núi Ngũ Lĩnh, bắt đầu viết nháp bản thảo “Thị trấn Phù Dung”. Quả thật lúc đó, đúng là lúc “tình cảm dạt dào, ngọn bút có thần” vậy. Hàng ngày, đúng là rưng rưng lệ mà làm, mà nói cười, mà nhiếc mắng, vô cùng phấn khích. Tôi đã chưng cất, cô đặc tất cả những nhận xét, những quan sát, trong cuộc sống xã hội hai ba mươi năm nay, cùng với những mối yêu thương giận ghét, và những giọt nước mắt bi hoan vào trong mười lăm, mười sáu vạn chữ. Nhìn từ góc độ này mà nói, tôi phải mất hai mươi mấy năm tâm huyết để viết ra “Thị trấn Phù Dung” cũng chẳng phải là điều quá đáng.
Có rất nhiều độc giả cảm thấy thích thú với kết cấu của “Thị trấn Phù Dung”, hỏi cái phương pháp viết “không quê không tỉnh, không Tây không ta” ấy đã đến với tôi như thế nào. Tôi nghĩ rằng, kết cấu phải phục vụ nội dung đời sống. Nội dung là chân, hình thức là giầy, chân, giầy không vừa nhau, đi lại sẽ khó khăn. Không thể gọt chân cho vừa giầy, lại không thể để chân trần mà đi lại được. Nhân loại đã tiến vào xã hội hiện đại hóa, khoa học văn minh đang vút bay, mãnh tiến, tăng nhanh nhịp điệu và tốc độ của đời sống nhân loại. Mọi người càng ngày càng đòi hỏi hiệu suất và bản sắc. Nếu như tác phẩm văn học của tôi chỉ dừng lại hoặc mô phỏng cái nhịp điệu chậm chạp của văn học phương Tây thế kỷ thứ XVII, XVIII, tỷ mỷ đẽo gọt, khắc họa thì lớp lớp độc giả hôm nay (đặc biệt là độc giả thanh niên lớp giữa) sẽ không chấp nhận được. Hơn nữa trong tác phẩm văn học cổ điển của đất nước chúng ta, nhịp điệu và tốc độ phát triển của câu chuyện tương đối nhanh, độc giả đã quen đọc và thích như vậy.
Như trên đã nói, “Thị trấn Phù Dung” lúc ban đầu đã được bắt nguồn từ chuyện một người đàn bà góa bụa được minh oan, sửa sai. Đã bao nhiêu năm tôi vẫn còn chưa viết ra, bởi vì tôi nghĩ nếu chỉ viết đơn thuần về số phận đau khổ của một người phụ nữ, loại tác phẩm ấy, cổ vãng kim lai đã gặp thấy nhiều, chẳng còn gì là mới lạ nữa, và cũng đã bị lỗi thời rồi. Cho mãi đến tận mùa hè năm ngoái, tôi mới bật ra được cái ý nghĩ rằng: Lấy một đường phố lát đá xanh ở miền núi làm địa điểm trung tâm, rồi đưa người phụ nữa ấy vào trong một nhóm nhân vật, và tổ chức nhóm người ấy thành xã hội thu nhỏ, viết về vai trò bi hoan ly hợp của họ, trong bốn niên đại khác nhau, thông qua cái xã hội nhỏ ấy để viết về xã hội lớn. Có được cái cấu tứ tổng thể đó, tôi đã mừng thầm trong dạ rất lâu, cảm thấy rằng sau khi viết chuyện đó ra, tối thiểu về kết cấu cũng không đến nỗi lỗi thời. Sau đó, tôi bắt đầu bố cục, quyết định viết về bốn niên đại (năm 1963, năm 1964, năm 1969 và năm 1979). Mỗi niên đại là một chương sách, mỗi chương viết bảy phần, mỗi phần tập trung vào vai trò của một nhân vật. Bốn chương gồm hai mươi tám phần. Trong mỗi phần, giữa mỗi nhân vật với nhau, tất nhiên phải có sự gắn bó thật mật thiết với nhau, thật tự nhiên, phối hợp chặt chẽ dọc ngang, trên dưới.
Tất nhiên cái kết cấu đó cũng là sự cùng sào phải nhảy trong nghệ thuật. Trước hết nó đòi hỏi tôi phải huy động hết vốn liếng tích lũy được trong hai, ba mươi năm nay về đời sống của một vùng hương trấn, phải rót đổ vào đó tất cả những tình cảm mãnh liệt của cuộc sống, phải dồn nén vào đó tất cả sự sống của đời mình. Đồng thời đối với năng lực điều khiển chữ nghĩa, ngôn ngữ của tôi cũng lại là một lần thử thách mới. Khoảng thời gian lớn, diễn giải, tự thuật cũng phải nhiều. Tôi nghĩ rằng tự thuật là một cách viết tiểu thuyết - đặc biệt trong truyện vừa và tiểu thuyết, thì đó là một cách thức chủ yếu - Tự thuật có thể biểu hiện dễ dàng, phong cách ngôn ngữ và năng lực văn học của một nhà văn. Khi đọc tiểu thuyết tôi đặc biệt thích thú lối tự thuật theo kiểu phù điêu trong tác phẩm của Bangiắc, bản thân tôi khi viết tiểu thuyết, tôi cũng luôn luôn thích thú với kiểu tự thuật.
“Thị trấn Phù Dung” sau khi được phát hành vào đầu năm nay. Có một khoảng thời gian tôi rất lo lắng, không biết độc giả có chấp nhận cái cách kết cấu tinh tiết theo kiểu “nửa tỉnh nửa quê” này không, cùng với cả từng mảng, từng mảng tự thuật trong đó. Nhưng chẳng bao lâu sau, những bức thư nhiệt tình của độc giả đã giải trừ cho tôi nỗi lo âu đó, phần lớn đều bảo: “Đọc một hơi hết sách”. Tất nhiên củng có một số nhìn nhận bất đồng. Chẳng hạn như có một nhà văn lão thành ngoài việc tán thành về cơ bản, đã bảo thêm tôi rằng, quá lãng phí về tài liệu, số liệu tài liệu ấy có thể viết được nhiều bộ tiêu thuyết về đời sống, vậy mà đem nhồi nhét vào cái khuôn khổ mười mấy vạn chữ. Lại nữa, trước đây ít lâu, có một nhà phê bình chuyển lời tới tôi rằng: Toàn thể gia đình một đồng chí làm việc ở tạp chí “Nhân Tài” đã đọc cuốn sách ấy, vô cùng thích thú, nhưng lại nói: “Chắc chắn rằng, nhà văn này đem đổ tất tật cuộc sống của mình vào tác phẩm này mất rồi”.
Còn có một số độc giả viết thư về nói, “Thị trấn Phù Dung”, giống như cái thị trấn nhỏ ở quê hương họ, những nhân vật chính trong đó như Hồ Ngọc Âm, Tần Thư Điền, Cốc Yến Sơn, Lê Mãn Canh, Vương Thu Xá, Lý Quốc Hương..., họ đều rất quen thuộc, như đã từng là hàng xóm của nhau, như đã cùng sống với nhau trên cùng một đường phố... Một hôm vào tháng tư năm nay, tôi đang ngồi chữa bản thảo trong phòng khách của Nhà xuất bản Văn Học nhân dân, bỗng có một người đàn ông tuổi trung niên xộc vào, tự giới thiệu họ tên, bảo rằng ông nguyên là một giáo viên ở thảo nguyên Mông Cổ. Ông nói:
- Đồng chí Cổ, tôi chính là Tần Thư Điền, người mà ông đã viết, tôi, chỉ vì một bản thảo tiểu thuyết lịch sử, nên trong “đại cách mạng văn hóa”, đã bị lôi đi đấu liên miên, liên tục, ngồi nhà lao, và bị phạt đi quét đường một mạch sáu năm liền...
Ông nói và nước mắt giàn giụa, khóc không thành tiếng. Mắt tôi củng thấy cay xè, và bị cái tỉnh cảm chân thực của anh “Tần Thư Điền” trên thảo nguyên Nội Mông Cổ này làm cho cảm động sâu sắc.
Mấy nhân vật chính đã viết trong “Thị trấn Phù Dung” đều có những nguyên bản trong đời sống, có nhân vật còn có tới mấy nguyên bản trong đời sống nữa kia. Có một vị nghiên cứu văn học hiện đại, công tác trong Sở nghiên cứu văn học thuộc Viện Khoa học xã hội, đã từng đặt vấn đề này ra với tôi: Cốc Yến Sơn là nhân vật chính diện, cán bộ lão thành trong “Thị trấn Phù Dung”, được mọi người rất đồng tình, được mọi người kính trọng coi là một ông già tốt bụng, phải chăng là đã cường điệu quá đáng khía cạnh “con người bình thường” của ông? Tôi nghĩ rằng, đây rõ ràng là một vấn đề đáng được các nhà phê bình đi sâu thảo luận phân tích. Không phải là không có ý nghĩa, khi trong tác phẩm văn học hiện đại của chúng ta, đã xây dựng lên nhiều hình tượng những cán bộ lão thành được mọi người yêu mến. Những hình tượng ấy phần lớn là những người chỉ huy từ trong những trận gió mưa dữ dằn của những năm chiến tranh thoát xác mà ra. Họ có cái khí khái anh hùng, trùm phủ giang sơn, và tài trí đảm lược, với cái thế thác đổ lũ trôi. Nhưng cái mà tôi cần viết lại là một người cán bộ già Nam tiến, làm việc và sinh sống trong một thị trấn nhỏ ở phương Nam trong thời kỳ hòa bình, không có rừng gươm mưa đạn, và cũng không phải là một công trường kiến thiết với thiên binh vạn mã rầm rầm rộ rộ. Cốc Yến Sơn trước hết là một con người bình thường, là một người trong những con dân miền sơn trấn, có cùng chung một số vận với con dân sơn trấn ấy, nhưng lại có những vui mừng buồn giận riêng. Hơn nữa một điều chủ yếu trong ông: ông là một đảng viên cộng sản, trung thành, chính trực, một người biết quan tâm tới người khác, biết thương yêu người khác, và sẵn sàng giúp đỡ mọi người. Sự có mặt của ông, vô hình trung đã sản sinh ra một sức mạnh, khiến cho một thị trấn nhỏ bé ở miền núi được bảo đảm trong sự thăng bằng ổn định. Trong mắt những người dân miền núi, ông là hóa thân của xã hội mới, của Đảng cộng sản, là một “nhân vật lãnh tụ” được quần chúng công nhận. Tất nhiên đưa ra một nhân vật lãnh đạo cơ sở với hình tượng như vậy, đặc biệt là không hề che đậy, đã viết mọi mặt, mọi vẻ trong đời sống của ông, cùng với mọi sự hỷ nộ ái ố như vậy, sẽ dễ sinh ra một câu hỏi: Trong một số loại nhân vật văn học hạn chế trong mấy kiểu người: “nhân vật anh hùng”, “nhân vật chính diện”, “nhân vật trung gian”, “nhân vật chuyển biến”, vân vân, thì Cốc Yến Sơn thuộc loại nhân vật nào và gia nhập được vào cái vở nào, thì sẽ tính sao? Cái đó khiến tôi nghĩ tới một điều rằng, văn học của ta nên viết về những con người sống trong đời sống, hay viết về những khái niệm trong ý nghĩ? Nên viết về những con người mới, chân thực, tin cậy, hay viết về những gì đã được tiêu chuẩn hóa, theo mốt, những “người trong khuôn”? Cho nên, tôi cảm thấy rằng, nhân vật Cốc Yến Sơn này, còn có đủ loại khiếm khuyết, nhưng làm một hình tượng cơ sở của Đảng chúng ta, cũng chẳng có gì là không thỏa đáng.
Phân loại nhân vật một cách giản đơn, là một loại quan niệm siêu hình, một sức ì được sản sinh ra trên lĩnh vực văn nghệ trong trào lưu tư tưởng của cánh tả, là một nguyên nhân trọng yếu làm cho hình tượng nhân vật bị khái niệm hóa, đồng dạng hóa, và công thức hóa, và trong một cái mức độ nào đó, nó thành thế lực làm trở ngại đến việc làm phồn vinh sáng tác văn học xã hội chủ nghĩa. Trong mấy năm gần đây, tôi đã bằng mọi cố gắng, tránh bớt những trói buộc đó trong những bài viết của mình, nhưng cũng chẳng được bao nhiêu. Từ nay về sau, tôi còn cần phải bỏ nhiều công sức hơn nữa, làm một cuộc tìm tòi lâu dài.
Có nhiều nhà văn lão thành gốc người Hồ Nam, luôn luôn đòi hỏi cũng như khuyên răn lớp trẻ chúng tôi, cần phải cắm rễ vào mảnh đất của cuộc sống, mở rộng tầm nhìn nghệ thuật, viết sao cho thắm đượm bản sắc của cuộc sống, sao cho đầy đủ ý tình của cuộc đời.
Các bậc lão thành ấy đã miệng nói tay làm, lấy những tác phẩm của chính mình làm ví dụ cho chúng tôi. “Viết cho thắm đượm bản sắc, đầy đủ ý tình”, đó là những lời tâm huyết của các bậc tiền bối, đó là những lời vàng đá của nghệ thuật. Muốn đạt được đòi hỏi này cần phải có nhiều yếu tố khác như thông hiểu ngôn ngữ, sự từng trải của cuộc đời, nơi đất sống, những tố chất tư tưởng, vân văn. Ở đây quyết không thể nói được rằng “Thị trấn Phù Dung” đã có cái gì đó là thấm màu đượm sắc, đầy đủ ý tình. Mà hoàn toàn ngược lại, cuốn sách tập tành đó của tôi còn cách xa với những lời ân cần chỉ bảo cũng như những kỳ vọng của các nhà văn tiền bối rất nhiều, chính điều đó đòi hỏi tôi phải dốc toàn bộ sinh lực của cuộc đời mình để theo đuổi truy tìm. Có rất nhiều độc giả cũng như những nhà phê bình đã chỉ ra cho tôi rất nhiều những điều bất túc trong “Thị trấn Phù Dung”, tôi đang suy ngẫm, để sao có được những sửa chữa bổ sung chân thực.
“Các tác giả của thế giới khác nhau. Các độc giả của tác phẩm cũng khác nhau”. Có lẽ nên nói thế này: Quảng đại độc giả là người có quyền phát ngôn cao nhất, là những nhà phê bình công minh nhất. Những điều nói ở trên, chẳng qua chỉ là một mẩu chuyện “mua vui” sau bữa cơm có liên quan tới “Thị trấn Phù Dung” vậy thôi.
Bắc Kinh đầu tháng 11 năm 1981
Đọc lại cho lần tái bản, tháng 7 năm 1982
CỔ HOA
HẾT