← Quay lại trang sách

Chương mở

Tiết trời cuối thu, gió đìu hiu lạnh, nước sông Tô trôi chầm chậm qua những ngôi làng xơ xác. Màu trời u ám, lòng người trĩu nặng. Trời đã đổ chiều một màu vàng ảm đạm cuối góc trời Tây. Hàng cây không lá trơ trọi vươn bàn tay khẳng khiu lên trời cao níu giữ điều chi? Đặng Trần Côn lê bước trên con đường, xách theo nậm rượu, thất thểu về nhà. Chàng đã đi cả một buổi chiều, rảo bước qua phố phường điêu tàn. Nhiều người dân đã bỏ khỏi kinh thành chạy loạn, chỉ những kẻ như chàng còn ở lại, còn tiếc nuối một chút phồn hoa sót lại…

Mấy năm nay, Thăng Long thưa vắng hơi người, chỉ còn bầy quỷ dữ lang thang tàn phá và những kẻ không biết đi đâu về đâu. Đặng Trần Côn nhìn lên vệt sáng đang mất dần cuối chân trời, bất chợt thở dài. Một cơn gió lạnh lẽo thổi đến dọc con sông, tạt ngược về phía chàng, đưa theo bụi mù mờ mịt. Chàng dừng chân lại, dụi dụi mắt. Con đường phía trước của chàng trở nên nhòa nhạt, chàng thốt lên bốn chữ:

Thiên địa phong trần…

Chàng nhếch mép cười, mở nút rượu, nhấp một ngụm. Con đường trở nên rõ ràng hơn. Chàng là ai chứ? Chàng mong đợi điều gì? Giữa thời chiến loạn, kẻ tài hoa như chàng chẳng qua cũng chỉ biết đau đời, và chờ đợi… chờ đợi giấc mơ thái bình thịnh trị. Giấc mơ ấy có thể thành chăng?

Hơn chục năm nay, chiến tranh liên miên, quân nổi dậy khắp nơi, ai cũng giương cao lá cờ “Phù Lê diệt Trịnh”, chính nghĩa đầy mình, rồi cũng để làm chi? Tất cả đều chỉ là máu chảy đầu rơi. Uy Nam Vương Trịnh Giang hãm hại đại thần, tự ý phế lập vua Lê, lại hưởng lạc vô độ, khiến nhiều người phẫn nộ. Các hoàng thân triều Lê, đứng đầu là hoàng tử Duy Mật, tự xưng là Thiên Nam Đế Tử lúc này đang ở thế giằng co với quân đội của chúa Trịnh. Trịnh Giang lòng đầy cơ mưu, muốn lá cờ “Phù Lê diệt Trịnh” trở thành vô nghĩa, đã ép vua Vĩnh Hựu phải nhường ngôi cho cháu mình có tên là Diêu. Hoàng tử Diêu năm 19 tuổi bị Uy Nam Vương bắt nhốt, đến năm 23 tuổi lại được Minh Đô Vương Trịnh Doanh mời lên ngôi vua. Ai không hiểu chiêu cờ này của Doanh chứ? Hoàng tử Diêu là con trai của thái tử Duy Tường năm xưa đã bị Uy Nam Vương ép từ ngôi. Đưa hoàng tử Diêu lên ngôi, chẳng phải sẽ khiến lòng người ly tán chẳng thể về quy tụ dưới trướng của Thiên Nam Đế Tử hay sao? Lá cờ “Phù Lê diệt Trịnh” không còn sức mạnh, và hoàng tử Diêu tiếp tục lại trở thành quân cờ trong tay chúa Trịnh. Làm gì còn “Nhân nghĩa chi cử, yếu tại an dân. Điếu phạt chi sư, mạc tiên khử bạo” [1].

Kinh thành Thăng Long giờ đây giống như khuê phòng của biết bao thiếu phụ đang chờ đợi người ra trận bình yên trở về, chờ đợi một thời kỳ thái bình thịnh trị. Nhưng cứ chờ, chờ vô vọng, như biết bao phiến đá chờ chồng. Đặng Trần Côn cảm thấy rõ bản thân chàng và biết bao nhiêu danh sĩ Bắc Hà chẳng khác nào thiếu phụ đang chờ đợi, chờ lâu quá, chờ đến mức mình đang chờ gì cũng chẳng biết. Chỉ biết mượn cái tài lẻ để khuây khỏa cõi lòng.

Đặng Trần Côn nhấp thêm ngụm rượu. Hơi cay thấm vào cuống họng, xuống đến tim gan. Rượu sắp hết mà hồn chưa say. Càng uống càng thêm cơn phẫn chí. Chàng ho một tràng gay gắt. Cơn ho khiến chàng đứng sững, cảm thấy mình cũng đã cuối thu. Liệu chàng có kịp để lại một tuyệt tác. Chàng lẩm nhẩm trong miệng:

“Thiên địa phong trần

Hồng nhan đa truân

Du du bỉ thương hề thùy tạo nhân?”(2)

Chàng rảo bước thật nhanh về nhà. Trời đã gần tối hẳn. Tia sáng le lói cuối ngày gần tắt. Trời tối, lang thang ngoài đường là phạm pháp. Chàng muốn quay về với căn hầm của chàng, để chong đèn viết mấy vần thơ tuyệt tác. Thơ là tấc lòng của chàng gửi lại thế nhân. Mai này chàng ra đi, còn gì lại ngoài thơ? Người đời có thể quên chàng nhưng không thể quên được thơ chàng. Qua thơ chàng, người đời hiểu được sự đợi chờ vô vọng của những kẻ như chàng. Than ôi! Đau khổ nhìn đời rồi đời vẫn mịt mờ gió bụi vậy thôi.

Lệnh cấm của chúa Trịnh khiến đêm Thăng Long chìm hoàn toàn vào bóng tối. Người dân không ai được đốt đèn. Chỉ cung vua phủ chúa, chỉ công hầu khanh tướng được đi lại ngoài ánh sáng mà thôi. Với người dân áo vải như Côn, chỉ những ai có một căn hầm riêng cho riêng mình mới được thấy ánh sán

Chú thích:

[1] Trích hai câu mở đầu “Bình Ngô đại cáo” của Nguyễn Trãi, bản dịch của Ngô Tất Tố: “Việc nhân nghĩa cốt ở yên dân

Quân điếu phạt trước phải lo trừ bạo”.

[2] Trích ba câu mở đầu “Chinh phụ ngâm khúc” của Đặng Trần Côn. Bản dịch của Đoàn Thị Điểm:

“Thuở trời đất nổi cơn gió bụi

Khách hồng nhan lắm nỗi truân chuyên

Xanh kia thăm thẳm tầng trên

Vì ai gây dựng cho nên nỗi này”.