← Quay lại trang sách

Khép màn

Đã nhiều năm rồi, Thiều mới có một lần thư thái thả thuyền trôi giữa sương mù. Chàng đã lạc lối trong sương. Chàng bất động nhìn rất lâu, rất lâu vào ngọn lửa lay động. Cơ thể và tâm trí của chàng giãn ra, chàng cảm thấy bao chất chứa nặng nề trong người thoát theo những lỗ chân lông ra ngoài. Rồi chúng bị lửa thiêu đốt. Trong lòng chàng lại dâng lên một nỗi buồn mênh mang, mênh mang dập dềnh theo cơn sóng va vào thành thuyền bì bõm.

- “Giang phong ngư hỏa đối sầu miên” - Thiều khẽ buông lời. Đó là câu thơ trong “Phong kiều dạ bạc” [1]. Chàng giờ đây u sầu đã đến mức không còn buồn gẩy nên điệu nhạc.

Đó là một cuộc trả thù ư? Không! Đó là một cuộc đảo chính ư? Không! Đó là một sự tri ân dành cho Duy Vỹ ư? Cũng không phải! Hay đó chỉ là một nỗ lực vì không gì cả? Lê Duy Khiêm có thể trở thành một bậc quân vương chân chính hay không, chàng không thể biết chắc. Thế cục này liệu sẽ an hay loạn, chàng cũng không đoán trước được, nhưng tất thảy là một sự văng đến vận hạn của số mệnh. Mười một năm qua, từ một tướng quân hào hoa phong nhã, chàng đã thấy mình bệ rạc đi rất nhiều cả thể xác và tinh thần. Tóc chàng tuy không điểm bạc như những người cùng trang lứa, nhưng tim chàng thì đã bạc từ lâu. Bên trong chàng lúc này không thể đạt nổi sự trống rỗng bởi một nỗi sầu che lấp, nỗi sầu của thời thế và thời gian.

Mỗi khi thả thuyền trôi, nhiều lần chàng đã nhìn xuống đáy hồ sâu, tuyệt không thấy gì dưới đó, chỉ thấy viễn cảnh về một ngày bản thân lao xuống và chìm dần, không vùng vẫy, chỉ buông lơi. Ý nghĩ ấy chợt đến, chợt đi, đến nay chàng vẫn ở đây, chán nản với cả sự chết. Bao lần, chàng vẫn thấy bóng thái tử Duy Vỹ thấp thoáng trong sóng nước, cất tiếng gọi, mà chẳng lời đáp.

Sau khi Duy Vỹ qua đời, vì là tội nhân, nên xác bị đem ra bãi tha ma. Chàng và Nguyễn Khản đã lén giấu xác của Duy Vỹ, tìm một thôn làng an tĩnh phía tây hồ Dâm Đàm để chôn cất trong nghĩa địa rồi thuê người dân chăm sóc cho mộ phần của thái tử. “Chắc thái tử sẽ được đưa về Lam Kinh thờ tự, ta cũng nên ghé qua chào người!”

Thiều chèo thuyền hướng về phía làng Nhật Chiêu. Nghĩa địa của làng ngay ven hồ, chàng cập bến là có thể đi vào. Dưới màn sương, nghĩa địa càng thêm vẻ u uất.

Thiều nhẹ nhàng bước đi trên cỏ mềm ướt sũng sương đêm. Côn trùng rỉ rả như tiếng vong hồn.

Mộ phần của Duy Vỹ vẫn được chăm lo, dù không ghi tên. Có bóng người phảng phất trong sương, cúi đầu trước mộ. Thiều đến gần mới thấy rõ đó là Nguyễn Khản. Chàng mỉm cười bước nhanh hơn.

- Chẳng hẹn mà đến, có phải thái tử muốn gặp chúng ta chăng? – Thiều lên tiếng.

Khản quay đầu lại, cười lớn:

- Ba chúng ta đêm nay lại đoàn tụ… Chẳng đáng say một bữa thơ rượu sao?

Khản ném bầu rượu cho Thiều. Thiều đón lấy, mở nắp, chắp tay cúi đầu trước mộ:

- Thái tử, gia quyến của thái tử đã được cứu… nỗi oan của thái tử đã được giải… ta tuy không thể rửa hận cho thái tử, nhưng thái tử chắc cũng không thích những hành vi oan oan tương báo như thế… Nay ta cùng người cạn bầu rượu này…

Thiều tưới nửa bầu rượu xuống mộ, nửa bầu dốc cạn. Vết thương hơi lâm râm đau nhưng chàng mặc kệ.

- Chúng ta đã nên rút lui chưa? - Nguyễn Khản thở dài – Việc cũng đã xong rồi, thương tích chẳng phải cũng đã nhận đủ rồi sao?

Thiều im lặng.

Sương bị gió thổi bay, hé lộ vầng trăng trắng lạnh. Côn trùng kêu rỉ rả trong đêm như có ai đó cứa vào nỗi lòng từng cơn. Tại sao sự đã thành mà lòng Thiều chẳng chút vui vẻ, chẳng chút đắc thắng, chỉ thấy rã rời.

- Chúng ta đã đi đến bước này… sợ chẳng thể rút được? Trịnh Tông, Lê Duy Khiêm… hai người trẻ ấy, chúng ta tưởng rằng đang phò tá họ… nhưng chúng ta lại đang dùng họ để đạt được ý nguyện của mình… Cuộc chơi này… nghiệp đã nặng quá rồi… nặng tới nỗi buông bỏ không dễ, chỉ có thể cố đi nốt chặng đường.

Nguyễn Khản thở dài:

- Ta đã từng nghĩ vậy, để rồi ta sợ hãi nhất… là câu trả lời này! Nếu có kiếp sau, ta nhất định không dẫm bước vào con đường này thêm nữa, cũng sẽ không lôi những người ta yêu quý vào đây thêm nữa… Đủ rồi, quá đủ rồi…

Nguyễn Gia Thiều ngửa cổ cười lớn:

- Thôi thì… bi kịch của những kẻ như chúng ta, đó là biết rằng cuộc đời của chúng ta chỉ như một tuồng kịch, nhưng lại không thể thoát ra, chỉ có thể hoàn thành vai diễn của bản thân trong chán nản, chờ đợi khép màn… Rồi lại chứng kiến những người trẻ tuổi khác, như chúng ta, cũng chán ngán như chúng ta, tiếp tục diễn các vở kịch khác… Ôi chao, cũng chỉ đến cùng một cái kết mà thôi…

Một làn sương mới được gió kéo đến, che khuất trăng. Đêm đã khép màn. Gà gáy le te báo chuyển canh.

Chú thích:

[1] Trích câu thơ trong “Phong kiều dạ bạc” của Trương Kế. Dịch nghĩa câu thơ: “Ngọn gió trên sông và ngọn lửa thuyền chài cùng nhau nói câu chuyện sầu.”

HÀ THỦY NGUYÊN

TƯ LIỆU THAM KHẢO

Được sử dụng để viết quyển 1: “Khúc Cung Oán”

Tư liệu cổ:

1. Vũ trung tùy bút – Phạm Đình Hổ (Bản dịch Đông Châu Nguyễn Hữu Tiến)

2. Tang thương ngẫu lục – Nguyễn Án & Phạm Đình Hổ (Bản dịch Đạm Nguyễn)

3. Hoàng Lê nhất thống chí – Ngô gia văn phái (Nguyễn Đức Văn & Kiều Thu Hoạch)

4. Chinh phụ ngâm khúc - Đặng Trần Côn (bản phiên âm tiếng Hán phổ biến) & bản dịch tiếng Nôm Chinh phụ ngâm khúc của Nguyễn Khản được Tạp chí Văn hóa Nghệ An đăng tải

5. Cung oán ngâm khúc – Nguyễn Gia Thiều (bản phổ biến)

6. Các bài thơ lẻ của Nguyễn Gia Thiều được đăng trên website Thi Viện.

Nguồn tham khảo của các tác giả hiện đại

1. Lịch sử nội chiến Việt Nam từ 1771 đến 1802 (Tác giả Tạ Chí Đại Trường)

2. Lê mạt sự ký: sự suy tàn của triều Lê cuối thế kỷ 18 (Tác giả Nguyễn Duy Chính)

3. Lịch sử Hà Nội (Tác giả Philipe Papin)

4. Bức tranh kinh tế Việt Nam thế kỷ 17 & 18 (Tác giả Nguyễn Thanh Nhã, bản dịch của Nguyễn Nghị)

5. Gia phả họ Nguyễn ở Tiên Điền (Mai Quốc Liên chủ biên, Nguyễn Thị Bích Đào phiên âm & khảo cứu)

6. Bài tiểu luận “Nguyễn Gia Thiều – người đối thoại với bóng”, trích sách “Bút pháp của ham muốn” (Tác giả Đỗ Lai Thúy)

7. Bài viết “Nhà thờ họ Nguyễn Gia” đăng trên website Di sản văn hóa huyện Thuận Thành - Bắc Ninh

8. Bài viết “Về bản dịch Chinh phụ ngâm của Nguyễn Khản” đăng trên website Tạp chí Văn hóa Nghệ An (Tác giả Thế Anh)