← Quay lại trang sách

Chương II

Thiếu tá Georges Ferrandini quê ở đảo Corse vùng Bastia. Một xứ có nhiều núi, nhiều mặt trời và cũng nhiều đất còn bỏ hoang. Hẳn vì cái thứ đất núi cằn cỗi ấy đã ảnh hưởng đến tính nết của con người chăng, và Georges cũng không biết là mình giống cha hay giống mẹ. Người cha nghiêm khắc, lạnh lùng làm chánh án ở trong vùng không hề rời khỏi xứ. Người mẹ giống hệt mặt bể những chiều êm gió, đời không biết gì ngoài sự làm lụng trong nhà, chăn nuôi bầy con và bầy cừu. Ngoài ra chỉ có đi nhà thờ là niềm độc nhất vì người đàn bà Corse rất sùng đạo.

Có lẽ Georges giống cả hai bên cha mẹ, ở chàng người ta nhận ra những nét nghiêm khắc lạnh lẽo của cha, nhưng bên trong ấp ủ một tấm lòng nhân đạo của người mẹ. Hai hình ảnh tuy mâu thuẫn nhau nhưng nếu khéo biết điều khiển thì vẫn có thể hòa hợp được.

Mặt trời, đất núi và bể xanh là ba yếu tố đã tạo ra con người. Gia đình Ferrandini có thể gọi là một gia đình gương mẫu cho tất cả dân trong vùng: cha mẹ thuận hòa, ngoan đạo, các con đứa nào cũng có giáo dục kỹ càng. Mỗi ngày chủ nhật sáng và chiều đi nhà thờ ; bao giờ cũng ông chánh án Ferrandini nghiêm trang với cái Bắc Đẩu bội tinh to tướng kiêu hãnh trên ve áo. Ông chánh án đi trước mở đầu cho cả gia đình trịnh trọng đi theo sau, từ đứa lớn đến đứa bé mỗi đứa mỗi quyển kinh trong tay, cấm nhìn ngang nhìn dọc. Chỉ trừ khi gặp một người trong vùng đến, họ cất mũ chào thì phải cúi đầu hoặc cất mũ chào lại, đáp 1ễ. Không cần nói cũng biết rằng mỗi lần đi như thế người cha thường bảo các con tìm đường nhỏ mà đi vì ở đường lớn thì chỉ mỗi một sự chào trả thôi cũng đủ mỏi cổ. Chứng tỏ cái uy tín của nhà Ferrandini đối với dân trong vùng.

Không kính trọng sao được, một gia đình mà người cha làm đến chánh án.

Tất cả những vụ kiện cáo xung đột gì trong vùng cũng do ông xét xử. Nhờ có ông mới có sự trật tự trên dưới, mọi người đều mang ơn.

Một gia đình mà đằng trước có vườn ô-liu đằng sau có chuồng cừu, với mấy con bò sữa. Mỗi mùa đưa cừu đi cúp len là mấy anh em Georges lại được may sắm một lứa quần áo mới. Chẳng phải vì số lương của cha không đủ dùng, nhưng người đàn bà Corse phần đông rất đảm đang. Tấm áo đen muôn thuở với chiếc khăn đen quàng lên đầu để che nắng, quanh năm các bà chỉ biết quần quật lo làm giàu cho quỹ gia đình mong sau để gia tài lại cho các con.

Không may cho Georges từ năm mười ba tuổi bỗng mắc chứng nói lắp, tha hồ cho các bạn bè chế giễu và các giáo sư bực mình.

Mấy năm trung học đầu thì bình yên, đến năm lên mười ba không biết tại sao bỗng dưng cái bệnh nói lắp lại phát ra rất nặng, nhưng chắc cũng nhờ thế mà Georges khôn trước tuổi.

Bệnh hoạn thường làm cho con người trở nên sâu sắc, có lẽ vì những ngày dài dằng dặc nằm cô độc trên giường bệnh, hoặc như Georges chỉ biết tha thẩn một mình ở góc sân trường lẩn tránh tất cả bạn bè để khỏi phải nói chuyện,

– Hay là ta câm rồi chăng? Hay là ta sắp câm chăng?

Ý nghĩ mà Georges phải lắp bắp nói ra vì sợ mình sẽ trở nên câm thật, ý nghĩ càng làm cho Georges thấy tương lai tối đen. Ở lớp, bài làm Georges khá bao nhiêu thì bài vấn đáp Georges lo sợ bấy nhiêu.

Thế mà Georges vẫn giấu cha mẹ không dám nói rõ sợ cha mẹ buồn, cậu bé chỉ lo lùng các thứ sách nói về chứng bệnh ấy ở thư viện của trường và cương quyết tự tìm cách sửa chữa. Sách nào cũng bảo cần tập đọc to tiếng và tập nói chuyện mà thôi.

– Nếu mầy không cố gắng thì đời mầy sẽ bỏ đi.

Đấy là một câu mà Georges đã tập nói to lên trước khi nói những câu khác. Muốn cho mọi người không nghe thấy Georges thường dậy thật sớm xuống sân trường tập nói một mình. Vào dịp hè về với gia đình, Georges viện cớ phải lo học lên lớp để đi riêng một mình để tránh mọi người. Chiều nào Georges cũng ra bể ghi câu nói xuống bãi cát còn ướt rồi trong tiếng sóng bể dạt dào giọng Georges lắp bắp hát lên sau khi đã nhìn cẩn thận chung quanh xem có thật đã vắng người chưa.

Cậu bé Georges tập nói như thế từ khi nước triều hạ cho đến khi nước triều dâng và sóng bể xóa hết những dòng chữ chàng đã kẻ lên cát ban nãy.

Georges rất ngạc nhiên vì một hôm bỗng nhận thấy mình khỏi bịnh.

Phải những ai đã từng đau bịnh mới có thể hiểu được tâm trạng của Georges, chàng sung sướng như người tù được ân xá, cả gia đình và bạn bè đều ngạc nhiên thấy chàng không lầm lì như trước. Mà lại trở nên vui vẻ hoạt bát.

Sau đó trường võ bị đã đào tạo nốt con người Georges trở nên một quân nhân gương mẫu, cha mẹ chàng đã nhìn thằng con trai trong bộ quân nhân mà ứa nước mắt vì cảm động, vì kiêu hãnh.

Cuộc chiến tranh thứ hai chấm dứt Georges vừa được 26 tuổi. Cũng như những kẻ sống sót khác, có mấy năm mà con người cằn cỗi hẳn vì được chứng kiến quá nhiều những cảnh tàn phá chém giết. Nhất là Georges lại chọn ngành Không Quân được cử sang Anh để theo đuổi cuộc kháng chiến sau khi nước Pháp bị chiếm đóng. Ai có thể quên những trận bỏ bom ở Londre mà một ký giả Pháp đã viết rằng: « Ngày 30-7-40 ấy trời mưa bom và mưa quân nhảy dù xuống thành phố Londre »,

Sau những trận tàn sát như thế mà còn sống sót thì con người nếu không đi tu cũng chỉ muốn là ẩn sĩ, tìm một mảnh đất nào làm ruộng làm vườn, cho tâm trí thanh thoát, cho quên những kỷ niệm bên mình.

Thế mà tuổi trẻ thật chóng quên. Ngày lễ đình chiến như một cái tẩy mạnh đã xóa được hết tất cả những vết thương. Georges trở về với ý định rất vững chắc, sẽ lập gia đình, tìm một cô vợ thật xinh, thật trẻ, thật ngoan để xây tổ ấm.

– Cô cho phép tôi được hân hạnh…

Georges cảm động chưa nói hết câu thì người thiếu nữ đã đứng dậy mỉm một nụ cười cho phép. Trong vòng tay rắn chắc của người sĩ quan trẻ tuổi Monique như bằng lòng trao cả khối thịt mềm mại của thân mình.

Thỉnh thoảng vừa nhảy thiếu nữ lại vừa ngước nhìn Georges cái nhìn xanh thẫm hệt như màu nước bể ở đảo quê hương về chiều. Sao lại có được những màu xanh thâm trầm như thế, thêm vào đấy đôi môi hé mở để lộ một chút răng óng ánh dưới đèn tưởng như mấy hạt ngọc trai.

Chưa bao giờ một người thiếu nữ lại có thể làm cho Georges xúc động đến trình độ ấy. Càng xúc động Georges lại càng cảm thấy toàn thân mình nhẹ nhàng như có ai cho mượn đôi cánh và tấm thân của người thiếu nữ cũng như đang vờn lướt trên sàn gỗ.

Georges mang ơn người đã dạy chàng học khiêu vũ mang ơn cả những vị thần nào đặt ra khiêu vũ. Quả là một lối chơi tao nhã.

Từ nãy đến giờ Georges tự hỏi không biết mình đã uống hớp rượu nào chưa, hình như chưa, cốc rượu còn đầy ở trên bàn đằng góc, thế mà tại sao tai Georges lại đỏ phừng lên, chàng trai nghe trong người nóng nảy. Một cảm giác ngây ngất như khi uống thuốc không lường, một cảm giác run rẩy lạ lùng. Có lẽ nào sự hiện diện của người đàn bà lại có một sức mạnh của rượu, của thuốc, một cái gì đang xoắn lấy tâm hồn, xoắn vào da thịt như thế.

Georges nhớ đến một kỷ niệm cũ, đấy là lần đầu tiên thi đỗ bằng tiểu học. Cả xóm kéo đến mừng, cha chàng mang rượu ra mời, thấy mọi người đều ngà ngà hai anh em chàng cũng rủ nhau làm người lớn, đợi cha mẹ bận tiếp khách mỗi đứa rót đầy một cốc, ăn cắp một điếu thuốc ra đằng sau chuồng cừu uống rượu và hút thuốc gọi nhau bằng ông nầy ông kia rất lấy làm sung sướng kiêu hãnh. Nhưng chỉ độ mười lăm phút sau cả hai đều đỏ phừng ho hen sặc sụa, nước mắt nước mũi chảy đầy xuống mặt, xuống áo. Không biết phải làm thế nào cả hai đành chạy trốn vào phòng gọi cô em gái đi tìm mẹ.

Đấy là do rượu, còn hôm nay Georges chưa uống rượu, vả lại có uống chắc cũng phải cả chai mới say. Từ độ chiến tranh, Georges đã quen quá đi rồi, những đêm phải nai nịt sẵn sàng chờ lệnh của các tướng Đồng minh để bay đi thả bom ở vùng nào có quân Đức đang chiếm đóng. Những đêm như thế anh nào đi về lại không làm một cốc lớn trước khi lên giường hay một cốc nhỏ trước khi ra đi cho thêm hăng hái can đảm.

Dầu sao con người vẫn là con người, cởi bộ áo quân nhân ra ai chẳng mang một tấm lòng, ai không buồn khi nghĩ rằng một trái bom mình thả xuống, một phát đạn mình bắn xuống là có thể giết được mấy mạng. Nhất là những kẻ rất yêu quê hương bị quân địch dành mất nên đành phải trở về để bắn phá quê hương. Có mấy khi địch chết, chỉ có những người dân lương thiện, những đồng bào của mình bị thiệt thòi,

May mà pháp luật của chiến tranh là thứ luật pháp trái ngược lại với thời bình, ở vào thời bình nếu anh giết, nếu anh đốt phá thì anh có tội, anh sẽ bị tù đày bị đền mạng. Thời chiến tranh nếu anh không giết, anh sẽ phải mang tội, ngay đến cả tôn giáo cũng dùng một thứ luật pháp ấy.

Mải suy nghĩ, thả hồn nương theo âm nhạc, đèn bật sáng lúc nào, Georges vừa ngượng ngùng vừa tiếc rẻ, chàng đành phải rời Monique đưa nàng về chỗ ngồi.

Trở lại bàn mình ở trong góc đằng xa, lần nầy thì nhất định phải nhờ cốc rượu để đè nén bớt những xúc cảm do mái tóc, do màu da, do ánh mắt của người đẹp đã gây nên trong lòng mình.

Những bản nhạc khác tiếp theo nhưng Monique xinh đẹp quá, nàng lại nhảy rất giỏi, ôm nàng ngỡ như ôm một cách chim, không bình bịch, đạp cả vào giày vào chân như các bao gạo khác. Cô nhiên mọi chàng trai đều tranh giành và Georges đành chỉ biết ngồi yên trong góc theo dõi từng bước chân của nàng.

Một cảm giác ghen tức bực bội, nhất là mỗi khi thấy anh nào nhảy thiếu lễ độ ôm hơi sát hay là cố giả vờ làm nhiều hình cầu kỳ để lợi dụng bắt thiếu nữ phải ngã người trong tay mình. Tự ái của Georges như bị tổn thương.

Trong một phút nóng nảy căm giận Georges tự hứa sẽ đánh bạt tất cả những thằng khác. Từ trước đến nay chàng chưa bao giờ chịu thua ai, trong sự học thức cũng như trong việc công làm, Georges là một đại úy trẻ tuổi nhất của nước Pháp, thuở bé mặc dầu bệnh hoạn Georges vẫn là một đứa học trò giỏi nhất trường. Vào đời, chàng là một sĩ quan nhiều uy tín nhất trong các bạn đồng lứa, có lý nào bây giờ chàng lại chịu nhường cho mọi người hơn mình.

– Rồi chúng bay sẽ biết.

Georges nắm chắc bàn tay tự hứa, tay nàng chưa mang nhẫn, tay chàng cũng chưa một lần vướng víu có thể bảo rằng chàng chưa bị một hình ảnh nào làm rộn tâm hồn. Georges nhất định sẽ cưới Monique làm vợ nếu nàng bằng lòng.

Georges đã thành công chỉ còn có ba hôm nữa sẽ đám cưới, tất cả mọi sự đều tiến hành đúng như ý chàng mong muốn. Hình như định mệnh đã cố ý xếp đặt sẵn tự kiếp nào,

Sau đêm gặp gỡ ấy, hôm nào Georges cũng tìm đến thăm Monique một lần, và mỗi ngày hàng bán hoa lớn nhất ở Rabbat đã mang đến một một bó hồng cho nàng cắm trong phòng ngủ. Chàng bắt buộc hàng hoa phải chọn thứ hoa hồng đỏ vì chỉ những đóa Baccarats trang trọng ấy mới trả lời đúng với tiếng nói của lòng chàng.

Ai nhìn bó hoa cũng đoán hiểu mối tình bỏng cháy của anh chàng sĩ quan trẻ tuổi. Cha mẹ Monique mừng hơn bắt được vàng, phải ở địa vị cha mẹ mới hiểu nổi những ưu tư của các bậc cha mẹ, nhất là ở địa vị ông bà Poisson, thật đã khó ăn khó nói mỗi khi ai vô tình hay có ý hỏi một câu: « Sao cô ấy chưa lấy chồng».

Có hai chục giỏ hoa đám hỏi gác dài trên kho còn mang cả tấm thiệp tên họ nhà trai, toàn những người tai mắt có chức vị. Thế mà đám nào rồi cũng hỏng, đám nào cũng chỉ lui tới một vài tháng rồi xin hồi hôn. Mặc dầu mọi người đều công nhận rằng. Monique có cái nhan sắc của mấy cô đào chiếu bóng, mấy cô đào mẫu mặc áo ở Paris, nhất là nàng cũng rất chịu khó theo sát thời trang ở Paris.

Cố nhiên, ở đời cái gì cũng có lý do riêng của nó, ông bà Poisson đều biết như thế, nhưng có nhiều sự thực tàn nhẫn, não nề không thể nói ra và bậc làm cha mẹ chỉ biết cắn răng đau khổ riêng với nhau, cũng không dám phàn nàn trước mặt con sợ nó buồn tội nghiệp.

Lần nầy xem chừng cái anh chàng sĩ quan trẻ tuổi nầy rất nóng nảy, ngày nào cũng gửi nào hoa, nào kẹo, nếu hôm nay bận công tác không thể đến được thì ngày mai mới tám giờ sáng đã kéo chuông ầm lên đánh thức mọi người. Con cháu đồng hương với Napoléon có khác.

Bà Poisson tuy hy vọng nhưng cũng không dám lộ ra mặt. Khi đã bị hai chục lần kinh nghiệm như bà thì ai có cho đến thức gì cũng vẫn còn hồi hộp. Mỗi một ngày qua rồi là người mẹ ấy lại thở phào một tiếng dài cảm ơn trời. Tuy ở xa nhà thờ mà ngày nào người đàn bà ấy cũng không quên đến cầu nguyện, đến đốt đèn xin Đức mẹ phù hộ cho kỳ nầy cô con gái được song suốt. Bà Poisson còn nguyện nếu Monique có chồng rồi bà sẽ đi hành hương ở Lourde để tạ ơn, mặc dầu bà vốn không phải giòng mộ đạo. Khi người ta quá sung sướng hay quá đau khổ người ta hay trở nên mê tín muốn tìm đến một sự màu nhiệm để bám víu. Monique đã nhiều lần nói với mẹ đừng đi đốt đèn làm gì mất công vì nàng chắc chắn là đã nắm hết phần hồn, phần trí của anh chàng sĩ quan si mê ấy rồi, thế mà người mẹ vẫn không dám ngừng đi đốt đèn ở nhà thờ.

Mỗi lần Georges bận gì không thấy đến và người đưa tin không báo sớm thì bà Poisson đã nghĩ ngay đến sự đem gác cái giỏ hoa thứ hai mươi mốt lên kho, trước mắt bà lại đang hình dung ra cảnh tượng cũ. Tất cả đều do chính tay bà sắp xếp mỗi lần là một tiếng thở dài ngao ngán và để an ủi, chỉ còn cách đổ lỗi cho định mệnh.

Nếu người mẹ ấy đọc được tâm trạng của chàng rể tương lai chắc bà sẽ bớt lo lắng quá như thế. Với Georges lấy vợ phải lấy liền tay, chàng chỉ lo sợ người đẹp, con chim xanh sẽ bay sang cành khác, Georges cũng chẳng cần phải hỏi ý kiến trước bố mẹ mình ở quê nhà. Chàng tin chắc rằng chỉ nhìn ảnh Monique thôi là cha mẹ phải bằng lòng ngay, Georges không tha thứ cho một cô gái nào thiếu nhan sắc. Dầu cô nàng có đầy đủ các đức tính, có thông minh tài hoa đến mấy,nếu không nhan sắc cũng chỉ có thể làm bạn mà thôi chứ bảo cưới thì các thêm mấy cái hồi môn chàng cũng xin chịu. Độ còn ở Anh quốc có người bạn Trung hoa, một hôm nghe chàng nói quan điểm của mình về sự chọn vợ, người bạn đã thương hại lắc đầu mang cái câu « Xú phụ gia trung bửu » của cổ nhân Trung quốc ra giảng chọ Georges nghe. Chàng đã trả lời lại rằng « Mieux vaut partager une bonne affaire …» và người bạn không biết phải nói gì thêm.

Nhưng ba hôm nay, ba hôm nay hình như trong không khí có gì u uất, có gì thay đổi. Mấy tuần đầu Monique ngoan như một cô bé kiểu mẫu. Thật hiếm, có mấy ai được phúc đến thế.

Lần nào tới nhà cũng có những chiếc bánh làm sẵn còn nóng đang đợi chàng trên bàn với hai tách nước trà chanh vì nghĩ chàng sống ở xứ Anh đã mang cái chứng nghiện nước trà vào khoảng « tea time »

Nàng lại còn trang hoàng trên mấy chiếc bánh ấy bằng những hình kẻ một đôi tim hay đôi môi đang kề sát nhau, có khi cắm vào bánh quả tim một bông hoa Baccarat đỏ để trả lời chàng. Hoa hồng đỏ là biểu hiệu của tình yêu mà hoa Baccarat vẫn là thứ hồng đắt tiền nhất, có khi phải giả đến năm trăm quan một bông, thế là tình của Georges và Monique cũng phải rất quý giá như loại hoa ấy.

Không những chỉ biết làm bánh, Monique còn bỏ thì giờ ngồi khâu khăn tay, và trên mỗi chiếc khăn đều có hai chữ M, G. quấn quýt lấy nhau để tặng chàng.

Ở thế kỷ thứ hai mươi nầy mà còn tìm được những mối tình thơ mộng lãng mạn đó, cái thứ tình của La Nouvelle Héloise, của Paul et Virginie không kiêu hãnh sao được. Trong người thiếu nữ ấy có những mâu thuẫn hòa hợp với nhau càng tăng thêm phần dễ thương và càng làm cho một chàng trai cũng đầy mâu thuẫn như Georges phải say mê. Con gái Corse hiện thời chưa chắc có ai đã đảm đang như Monique, cố nhiên là đừng nói đến cái nhan sắc và lối trang điểm của nàng thì cô nào cũng phải bỏ cuộc.

Georges thách ai có thể tìm được một người vợ như thế, chàng trai không ngừng viết thư về khoe với mẹ:

«Mẹ ơi nếu mẹ biết nàng giống hệt như mẹ, nàng cũng dành cho con cái thứ tình của mẹ dành cho cha, thương con như mẹ đã thương cha hồi trẻ, con chắc thế. Mẹ có tưởng tượng thấy chăng, rồi đây con trai của mẹ sẽ được hưởng một khung cảnh êm đềm, mỗi tối đi làm về,chồng đọc sách bên ngọn đèn vợ khâu vá thêu thùa. Chắc mẹ cũng biết tính con giống cha, con không thể chịu được những sự nông cạn của mấy cô gái mới, hay là sự đần độn của những cô gái thiếu giáo dục. Người vợ tương lai của con chọn có đủ đức tính để gây hạnh phúc cho thằng con trai khó tính của mẹ. Nhiều lúc quá hạnh phúc con chỉ sợ tim con sẽ vỡ tan ra mất, nói thế để mẹ thấy con đang sung sướng đến thế nào. Mẹ có sung sướng giùm cho con không nếu mẹ biết rằng có hai mươi người đến dạm hỏi nàng, với bằng chứng là hai mươi cái lẵng hoa đám hỏi xếp dài trên kho còn mang cả những tấm các để tên ông kỹ sư nầy bác sĩ kia, hoặc những sĩ quan cao cấp.

Thế mà rồi tất cả đều phải rút lui. Vì nàng cũng khó tính giống con. Tất cả đều phải nhường cho con, đời cái gì cũng có số mẹ nhỉ, bây giờ con mới nhận thấy câu nầy rất đúng, số nàng chỉ để dành làm vợ của con, nàng phải đợi con đến, như cô công chúa ngủ trong rừng đợi người hoàng tử…»

Thư của Gorges thì nóng bỏng như thế mà trái lại chàng chỉ toàn nhận được những bức thư lạnh lùng dè dặt của cha mẹ:

«.. Con ơi nàng đẹp lắm, có mấy khi nhan sắc và đức hạnh lại đi đôi với nhau.

Nếu lấy vợ chỉ cần có nhan sắc thì mẹ xin chia mừng cùng con, nhưng đời còn bao nhiêu khía cạnh khác. Nghe con bảo nàng có hai mươi cái giỏ hoa đến dạm hỏi mà tất cả đều không thành, Mẹ cũng tin là người thiếu nữ ấy phải đẹp lắm, nhưng mẹ ngờ rằng bên trong phải có một lý do gì chăng? Nếu quả thật nàng đẹp và đức hạnh như con tả, tại sao trong số hai mươi người đến hỏi ấy lại không được một người có mắt, có tâm hồn để đủ thông cảm nàng ư.

Mẹ xin con hãy chầm chậm, ai đi chậm là đi chắc, con không nhớ câu châm ngôn ấy sao, vả lại con cho phép mẹ nghi ngờ những cuộc tình duyên xây trong một điệu nhảy..»

Lần nào đọc những bức thư như thế xong, Georges không giận mà chỉ chắc lưỡi tự bào chữa vì mẹ quá thương mình nên ở đâu cũng chỉ thấy toàn tai nạn cạm bẫy. Ngày nào cưới xong chàng sẽ đưa vợ về quê hương để hưởng tuần trăng mật, để mẹ thấy con dâu của mẹ là một của báu lúc ấy rồi sẽ cãi nhau sau. Ngôi sao định mệnh của chàng sáng lắm, ai khổ chứ Georges không tin rằng mình có thể khổ nhất là khổ vì vợ. Người vợ không hề tìm kiếm mà 1ại gặp thế chẳng là một sự xếp đặt trước của định mệnh ư.

Các bạn chàng vẫn bảo rằng buồn nhất cho đời một thằng đàn ông là chọn nhầm nghề, thứ hai là chọn nhầm vợ và thứ ba là đời không có lý tưởng. Nghĩ lại Georges quả là thằng con trai may mắn.

Chàng say mê nghề nghiệp mình, lý tưởng của chàng là phụng sự quốc gia, làm sao xứng đáng với người dân đồng hương với Napoléon, đấng anh hùng của nước Pháp. Có anh chàng Corse nào mà không kiêu hãnh vì mình là con dân của một xứ đã có bậc anh hùng lớn lao như thế. Hồi còn đi học nội trú Aix, các bạn hay chế rằng mấy thằng Corse có những hai cái để kiêu hãnh, thứ nhứt là Tino Rossi và thứ nhì là Napoléon, Chúng nó luôn luôn đánh nhau vì câu ấy, chỉ mình Georges là không hay dự những đám đánh nhau đó nhưng ai cấm chàng kiêu hãnh riêng một mình. Vấn để thứ ba là chọn vợ thì Georges tin chắc rằng chàng không nhầm. Người đàn ông Corse rất yêu gia đình, có thể đi làm tướng cướp vì gia đình, để phụng sự gia đinh. Chàng sẽ không làm gì cho vợ khổ và Georges tin chắc rằng vợ chàng cũng đồng một quan niệm với chàng.

Thế mà mấy hôm nay, còn có ba hôm nữa cưới tại sao chàng lại thấy vị hôn thê như là một con người khác hẳn. Tính nàng mấy hôm trước đang dịu dàng bỗng trở nên gắt gỏng cau có. Buổi tiệc cưới, Monique nhất định bắt mời thật đông, đêm hôm qua nếu không có Douce là mẹ của Monique, chàng cũng bắt chước gọi bằng Ma Douce theo với nàng. Thật thế nếu hôm qua không có Douce chắp tay lại xá chàng thì chàng đã đứng dậy bỏ về.

Hôm qua cả ba người ngồi lại ở bàn sau bữa cơm tối để thảo luận về việc đặt tiệc, Monique đưa ra một tấm giấy trắng to tướng và cây bút đợi ghi tên quan khách.

Chỉ nhìn tấm giấy, Georges đã cau mặt hỏi:

– Em định mời cả xứ Maroc sao?

Nàng lạnh lùng trả lời.

– Đời người con gái chỉ có một lần vinh hạnh đó phải để cho em mở mày mở mặt với người ta chứ anh.

– Sao em lại tìm sự mở mày mở mặt trong chỗ ấy, nó chỉ để dành cho những ai không còn có gì, rỗng tuếch ở bên trong hay là bị bắt buộc.

Monique xịu mặt chỉ giả lời có mấy câu ngắn ngủn:

– Anh thì biết cái gì.

Rồi nàng ghi hết tất cả những ai quen xa quen gần, cố nhiên là cả hai mươi nhân vật đi hỏi mà không thành ấy cũng được mời. Cãi nhau mãi rốt cuộc Georges đành phải nhượng bộ vì chàng không muốn làm mất hòa khí. Thứ hai là vấn đề đi hưởng tuần trăng mật, Monique muốn đi Venise để đánh dấu những ngày đẹp nhất của cuộc đời.

Hình như nàng không hề nghĩ đến giá trị của đồng tiền. Chỉ có mỗi một sự đi chọn áo cưới nàng cũng đã làm cho Georges phải hoảng lên về cái ý thích rất kỳ lạ. Mình chỉ là vợ một sĩ quan thường thôi mà cứ nằng nặc may cho giống kiểu áo trên của bà vua Anh, mẫu áo dưới bà chúa Thụy Điển. Cái đuôi áo cũng phải dài cho được mấy thước vì các bà vua chúa ấy đã mặc như thế.

Nàng đòi làm đám cưới ở nhà thờ lớn nhất, không phải mùa hoa Arum mà bắt hiệu hoa gởi cho được ở Pháp thứ hoa trồng trong lồng kín để ôm cho xứng với chiếc áo cưới, xứng với đôi giầy bạc, vì nhìn trong báo Match thấy hoàng hậu Elisabeth cưới với hoa Arum chứ không phải một thứ hoa trắng khác.

Mà để làm gì những sự ấy, để chụp ảnh, để quay phim, nàng không quên mời cả mấy ký giả để xin họ viết cho vài dòng vào báo.

Giá Georges giàu hơn hay Georges bằng lòng cho nàng hoàn toàn định đoạt, nàng còn muốn thuê nhà ở khu vực Madeleine tại Paris đủ ba tháng để được cưới ở nhà thờ Madeleine chắc nàng mới hả dạ.

Chàng không ngờ người đàn bà để ý đến cái đám cưới một cách quá đáng như thế, nhà thờ nầy cao hơn có nhiều bậc thang cấp, lúc cặp tay chú rể đi ra sẽ đẹp hơn ở nhà thờ kia nhất là chụp vào ảnh. Từ trước chàng vốn sợ những cô gái xì-nốp hơn sợ cọp cái thế mà nghe chương trình đám cưới của Monique sao Georges vẫn đứng vững trên đôi chân, quả thật chàng cũng không hiểu nổi.

Hai tháng trời ở thời kỳ vị hôn, những hình ảnh mà Monique hay cho Georges thấy là hình ảnh một cô gái mạnh khỏe chiều chiều ra tưới vườn, chăm sóc mấy cụm hoa. Thấy chàng đến thì chạy ra đón rồi lăng xăng đi dọn bánh, những chiếc bánh bao giờ cũng do tay nàng làm lấy, chọn từng cái trứng gà, đong từng thìa bột. Những lúc ngồi bên chàng nghe chàng kể chyện thì không bao giờ đôi tay rời đôi que đan vì sợ mất thì giờ. Nếu có nói chuyện nàng cũng chỉ nói toàn những câu chuyện về hạnh phúc tương lai chẳng hạn như:

– Cái tủ sách của anh, em muốn anh cho em vẽ kiểu lấy. Ở đây nhân công rẻ, mua đồ gỗ họ bán sẵn vừa đắt vừa không mấy khi ưng ý mình. Em thấy nó phải có nhiều từng, phải rộng và cả ba mặt đều có kính để che bụi, anh bảo anh có nhiều sách quý…

Đại khái câu chuyện của Monique là như thế hoặc là.. «Hôm qua Douce vừa mắng em, sao không săn sóc anh hơn, Douce bảo anh là người sống sót của chiến tranh nên rất thâm trầm sâu sắc, em cần phải luôn luôn tìm hiểu anh… »

Georges thì chỉ thấy cô vợ tương lai của mình quá hoàn toàn. Thế mà ba hôm nay, có lần Georges tự bắt gặp mình nói lên một câu:

– Hay là… hay là mẹ đã nói đúng.

May cho Monique là sau câu ấy thì lòng tự ái của chàng vùng lên, chàng nhất định gạt cái ý tưởng ấy đi. Dầu sao chàng không thể quay lùi, nếu Monique có xấu tí́nh thật thì chàng sẽ dạy bảo dần. Đến cái bệnh nói lắp mà Georges còn tự chữa khỏi nữa huống hồ là những cái tính trẻ con ấy, Georges chưa bao giờ chịu khuất phục trước một khó khăn gì cơ mà.

– En avant marche.

Hô xong khẩu hiệu ấy Georges cảm thấy phấn chấn hơn.

Đám cưới rồi tính lại sổ, Georges thấy không thể nào đi Venise được, chàng ghét nợ; sợ có nợ mà bây giờ đâm ra mang nợ, nếu đi Venise thì ít nhất phải vay thêm hai trăm nghìn quan nữa. Lần nầy Georges nhất định không chịu, chàng muốn đưa vợ về Corse cho biết quê hương bà con. Chàng sẽ chỉ cho vợ xem những hốc đá nào chàng hay ngồi đọc sách một mình, những bãi cát nào chàng hay nằm phơi, và đã rất nhiều lần phác họa ra hình ảnh người yêu lý tưởng. Người ấy ngày nay đang đi cạnh chàng…

Ý Georges như thế nhưng Monique nghe nói về Corse đã dẫy lên:

– Em chịu thôi, đời có một lần trăng mật mà anh đưa em về quê để cho mọi người dòm ngó, ăn không dám ăn, mặc không dám mặc. Em không thể nào hiểu được cái tính ích kỷ của người đàn ông, về quê họ là quê của họ, tha hồ cho họ ăn họ ngủ, đằng nầy người đàn bà đang còn bỡ ngỡ. Thời gian trăng mật là thời gian để cho hai người hiểu nhau, yêu nhau về tinh thần cũng như về vật chất, đưa vợ theo đến chỗ mà nàng sẽ bị xem như một nữ thí sinh, chịu làm sao được.

Georges thấy vợ nói cũng có lý nên chàng đành nhượng bộ, nhưng chàng cũng không thể đưa nàng đi Venise mà chỉ đưa sang Thụy Sĩ, thuê một cái chalet nhỏ nằm chìm dưới mấy gốc thông già xanh mướt, ở trên ngọn đồi khá cao nên có thể nhìn bao quát xuống dưới. Phong cảnh rất đẹp mắt, tuyết trắng xóa đông cứng lại vì lạnh nhưng trên trời vẫn chiếu ánh nắng xuống, nhìn tuyết đông như một thứ pha lê trong, màu hơi xanh. Đẹp nếu thật yêu nhau thì nơi nầy sẽ hơn cả chốn thiên đường vì thiên đường còn bị các vị thiên thần phá rối.

– Ở đây yên tịnh đến rợn người có phải không anh?

– Không, anh thấy ở đây thật đúng là nơi dành riêng cho những kẻ muốn đến hưởng tuần trăng mật.

– Anh lầm, có lẽ tại anh là dân miền quê, anh lại là một quân nhân chưa hiểu những cái gì sung sướng văn minh mà con người cốt ý tranh đấu. Trăng mật đâu có phải chỉ là ăn rồi nhìn nhau suông, như thế chỉ để cho chóng chán nhau ấy à.

– Vậy em bảo trăng mật là thế nào cơ?

Gorges ngạc nhiên hỏi, quả thật chàng thú nhận mình hơi quê mùa trong vấn đề ấy. Chàng có bao giờ biết gì ngoài những thứ sách vở khô khan, nếu ai hỏi chàng về chiến lược chiến thuật, hay những kiểu máy bay nào như thế nào thì chàng có thể trả lời, chứ bảo nói về mấy vấn đề nầy thì chàng xin chịu thua.

– Trăng mật là phải đến những nơi thí dụ như Hôtel Carlton ở Cannes, hay là nếu không muốn rời khỏi xứ chúng ta đang ở thì như Mamounia ở Maraketch, hay là Georges V ở Paris v..v… Đại loại những nơi sang trọng có các tài tử danh nhân. Ngày đi chơi, đêm về mình phải thay áo để xuống ăn với mọi người ; cho mọi người chiêm ngưỡng cái hạnh phúc của chúng ta. Em kể những cái khách sạn sang nhất vì phải ở đấy mới có đủ các thứ tiện nghi, sự chào đón của nhà hàng. Làm cho người vợ cảm tưởng mình là một vị công chúa dầu ngày mai có trở xuống làm con mẹ bán rau cải ngoài đường.

– Nếu thế thì cái trăng mật của em chỉ để dành cho một giai cấp đại tư bản ở trong thế giới mà thôi.

– Em đã bảo rằng đời có một lần, sau nầy người đàn bà mỗi khi vui buồn chỉ cần nhớ đến những ngày kỷ niệm rực rỡ ấy cũng đủ an ủi cả cuộc đời.

– Quan niệm của em lạ nhỉ.

Georges chưa bao giờ nghe ai bàn đến những vấn đề lạ lùng như thế, thì ra mỗi con người đều có một diễn viên trong mình mà không tự biết, nhất là khi người ấy lại được ưu đãi của tạo hóa về phần vật chất. Tại sao cha mẹ chàng không bao giờ bàn đến những vấn đề nầy.

Thấy chồng im lặng có vẻ suy nghĩ, Monique nói tiếp.

-Anh đừng cho em là kỳ dị, tất cả chín mươi phần trăm đàn bà đều thích như thế, còn lại mười phần trăm để dành cho những người mà từ thuở bé đầu tắt mặt tối và những kẻ ở trong nhà tu.

– Có lẽ anh lại hợp với cái số mười phần trăm còn lại ấy.

Georges thốt ra câu nói chàng quên cả giữ gìn sự phiền lòng vợ, may quá Monique đang ngáp kêu buồn ngủ vì không có gì để làm để chơi.

– Đằng nào cũng tốn tiền sao anh không thuê một chỗ đông nhộn đêm có nhảy, ngày có trượt tuyết cho vui vui một tí. Anh thấy không, tại sao anh biết chọn vợ đẹp, rồi tại sao anh lại giấu đi trong một xó núi như thế nầy.

Georges công nhận rằng vợ mình có lý, mặc dầu những lý lẽ nầy là những lý lẽ mà chàng không thể theo được. Tâm hồn chàng còn giản dị quá. Chưa có ai dạy bảo cho chàng những điều ấy ; hôm nay mới có Monique là người thứ nhất, và đây cũng là bài học thứ nhất.

Bài học thứ hai là bài học của tối tân hôn. Monique đã lên một cơn épilepsie trong giấc ngủ. Thế mà cha mẹ nàng đều giấu chàng, không phải chỉ giấu mình chàng thôi mà giấu luôn cả mọi người. Đi đến bác sĩ cũng chỉ khai vớ vẩn, rồi uống những thứ thuốc an thần chứ không bao giờ dám nói thật, sợ tai vách mạch rừng.

Mãi đến tối tân hôn, Georges mới biết mà ban đầu chàng cũng chưa rõ là tại sao, bệnh gì. Đang ngủ bỗng Monique vật vã chân tay, cắn môi, trào bọt mép trông rất ghê sợ nhưng ngày mai nàng không còn nhớ một sự gì nữa cả. Georges đã xót xa ôm vợ vào lòng, chàng tự hứa sẽ hết sức chăm sóc cho người vợ yêu mặc dầu phải tốn kém đến thế nào. Georges vẫn ngây thơ cho đến lúc ngồi nói chuyện riêng với người bác sĩ chuyên môn về cái bệnh ấy.

Thì ra chỉ có Georges là lương thiện, là không tìm biết trước vị hôn thê, có mình chàng chịu chờ đến ngày ra làm lễ ở nhà thờ, đợi cha ban phép xong mới dám nghĩ rằng đây là người đàn bà của mình. Vì thế nên mãi đêm tân hôn chàng mới biết rằng vợ mình có bệnh.

Bây giờ Georges mới vỡ lẽ ra, vì sao lại có hai chục giỏ hoa gác trên phòng kho, chàng tự đặt câu hỏi nếu mình cũng biết trước như mọi người liệu Georges có rút lui không, liệu rồi trên phòng kho ấy có được sắp thêm một cái giỏ hoa thứ hai mươi mốt không?

Dầu sao sự đã lỡ, nàng đã thành vợ của chàng và Georges thấy mình từ nay có bổn phận phải lo lắng săn sóc che chở cho người đàn bà yếu đuối đã trao cuộc đời vào trong tay mình ấy.

Một năm sống chung, Georges đã biến thành người gác bệnh nhân rất giỏi, nhưng nhìn lại cái quỹ gia đình quá thiếu hụt chàng chịu đổi sang Brazzaville, thăng chức, thêm tiền nhưng phải xa vợ.

Trước khi đi, chàng đã tha thiết giao sức khỏe vợ cho một người bác sĩ của gia đình, bác sĩ Louis. Georges căn dặn vợ phải cố gắng tĩnh dưỡng, đừng suy nghĩ gì đến vấn đề tiền nong, nếu chàng nhận lời đi xa là chỉ vì muốn cho nàng yên tâm mà thang thuốc.

Nhờ sự săn sóc rất tận tâm của Louis, bệnh Monique càng ngày càng thuyên giảm. Georges sung sướng vì nhận thấy sự hy sinh của chàng rất xứng đáng và trong đầu óc người đàn ông lương thiện ấy đang định mời vợ sang Congo ít lâu để biết thêm một thành phố, một xứ nữa trên bản đồ thế giới. Georges muốn rằng vợ mình ngoài sự hiểu biết, về cuộc sống ăn chơi hời hợt mà nàng đã thành thạo và chàng phải học lại của nàng, ngoài sự hiểu biết ấy, Georges muốn nàng sẽ trở nên một người bạn của mình trên lãnh vực tinh thần.

Georges biết rằng Monique khá thông minh, chỉ trong một vài năm sống chưng, nhất định chàng sẽ huấn luyện chỉ bảo và nhất định rằng chàng sẽ thành công chữa bịnh cho vợ như chàng đã thành công trong sự chữa bịnh cho mình. Một ngày kia nếu Georges nhắc đến Hans Horbiter, vợ chàng sẽ biết rằng người ấy là ai, và cái théorie de la glace éternelle, welg eis lekre là cái gì. Chàng sẽ kiêu hãnh biết mấy được một người vợ đẹp thông minh trí thức, điều mà người đàn ông nào sống ở thời đại mới cũng mong muốn vì không phải chỉ có đẹp là đủ. Điểm nầy chàng bắt đầu hiểu dần từ ngày cưới vợ rồi.

Georges lại còn muốn rằng sau khi về già mỗi lần nhắc đến Brazzaville hai vợ chồng chàng sẽ cùng nhớ đến cái hồ Stanley pool rộng lớn cũng như khi nhắc đến Thụy Sĩ, hay Maroc hay một vùng nào khác, những kỷ niệm chung sẽ trở lại trong tâm trí Georges cũng như trong tâm trí vợ. Có gì buồn hơn là khi nói đến một vùng nào hay một vấn đề gì mà chỉ một người biết còn người kia thì chỉ có há miệng ngồi nghe không biết gì mà thêm bớt.

Như có sự thần giao cách cảm hôm nay đi làm về Georges nhận được điện tín của vợ báo tin sẽ đến trong chuyến máy bay ngày mai. Monique đã đón trước ý chồng, vừa mạnh là nàng đã muốn gặp mặt chồng ngay, Georges cảm động suốt đêm hồi hộp không thể nào ngủ yên.

Máy bay vừa đến Georges chạy vội ra định ôm vợ vào lòng nhưng chàng bị nàng đưa tay ra gạt ngang.

– Em gặp anh vì có một câu chuyện rất quan trọng?

– Chuyện gì thì hẵng đợi về nhà đã chứ.

– Không được, em phải nói ngay, ngày mai em trở về vì đã ghi vé khứ hồi.

– Em đùa đấy chứ, có gì mà lạ lùng quá thế.

Georges ngơ ngác hỏi, chàng không thể tin rằng đấy là sự thực.

– Em không đùa, em muốn xin anh bằng lòng để chúng ta ly dị với nhau… vì..

Như nhận được một viên đạn xẹt qua tai, Georges ngập ngừng hỏi tuy chàng vẫn chưa tin là sự thật.

– Vì… vì có một người khác phải không em…

– Vâng vì có một người khác… anh đã biết, anh thông minh, em mong rằng…

– Ai?

– Louis, bác sĩ Louis.

– Người đã săn sóc em?

– Vâng người đã chữa bệnh cho em, đã săn sóc em trong suốt thời gian anh đi vắng.

Georges nhắc lại câu nói của vợ:

– … trong suốt thời gian anh đi vắng…

Nếu nàng biết tại sao chàng phải đi vắng, nếu nàng biết rằng đêm ngày chàng đã lấy câu châm ngôn Sustine et abstine của phái khắc kỷ cổ Hy lạp «chịu đựng và tránh xa » chịu đựng những sự đau khổ và tránh xa mọi cám dỗ để giúp cho mình thêm can đảm trong thời kỳ sống ở Brazzaville nầy. Nếu nàng biết, mà sao nàng lại không biết, có lẽ nàng đã quá biết, nhưng người đàn bà quả thật là khó hiểu. Tại sao trong thư nàng không bao giờ tỏ ra một tí gì về ý định của mình.

Tuy biết rằng đây chính là sự thực, Georges vẫn còn muốn bám víu vào một chút tin tưởng ở phép màu nhiệm, Georges hỏi thêm vợ một câu cuối cùng, trên đường từ sân bay về nhà.

– Tại sao em lại nhận lời lấy anh?

– Tại anh say mê quá làm em thấy thương hại vả lại em muốn trả thù mấy đứa đi hỏi em ngày trước.

Georges nghĩ ngay đến hai mươi cái giỏ hoa, thì, ra chàng là một khí giới để trả thù hai mươi cái giỏ hoa ấy.

Thế là hết, bao nhiêu công trình xây đắp, bao nhiêu hy vọng tương lai đều sụp đổ như vừa có một trận động đất lớn. Chàng chưa bao giờ biết cảm tưởng của những kẻ không được chết ngay trong những trận động đất nhưng chàng cảm thấy nghẹn ngào khó thở hình như có gì đang đè lên ngực đang chặn lấy cổ. Tâm hồn chàng đang quằn quại cầu xin một phát súng giải thoát, chàng muốn chạy ngay ra nhà thờ đến cầu dưới chân Chúa, xin Chúa ban cho mình một chút can đảm để chịu đựng qua khỏi những phút quá khổ nầy.Liệu Chúa có thèm ngó đến chăng?

Cuộc tình duyên chưa đầy hai năm kể từ buổi chiều gặp gỡ đầu tiên. Cái gì có thể giúp chàng đứng vững được lúc nầy nếu không nhờ đến rượu. Trong một phút Georges bỗng thấy thông cảm với tất cả những người điên, những người say, những người chơi bời trác táng trụy lạc.

Suốt đêm thao thức, Georges nhường giường cho vợ nằm còn chàng chỉ ngồi hút thuốc hết điếu nầy sang điếu khác, bên cạnh chai whisky để đợi sáng. Còn gì để nói với nhau nữa. Giá khóc được, tại sao xã hội hay lên án chế giễu những yếu đuối, sao người ta lại chê cười khi thấy những thi sĩ làm thơ than khóc một mối tình. Đành rằng cái thời kỳ lãng mạn đã qua nhưng tình yêu bây giờ với tình yêu ngày xưa có khác gì nhau.

Trời sáng dần, ánh sáng loang nhẹ như một vết dầu trên khung vải. Georges đứng lên chậm rãi đi vào phòng trong kéo màn cho vợ ngủ. Nàng còn nhiều thì giờ, mà hai chuyến máy bay tiếp nhau như thế nầy thì đầu cho sức đàn ông cũng phải cảm thấy mệt. Georges biết rằng mình còn yêu vợ nhiều quá. Đi ngang qua giường, Georges đứng lại nhìn vợ đang ngủ, chàng tự hỏi có phải là hình ảnh cuối cùng mà chàng sẽ giữ trong lòng là hình ảnh nầy chăng?

Ánh sáng đã giúp cho Georges một lối thoát. Monique có lý, nàng không yêu chàng bao giờ cả chỉ là một sự giả thù mà thôi, tại sao ngày nay nàng gặp được người yêu mà chàng còn muốn giữ lại. Có ai giữ được một tấm lòng, ai điều khiển được một tấm lòng?

Trước khi chia tay chàng chỉ dặn có mỗi một câu:

– Anh chúc em hạnh phúc, ngày nào cần đến anh thì em cứ viết thư hoặc tìm đến với anh, hy vọng anh sẽ giúp được em.

Câu nói thế mà linh thiêng, chỉ có ba tháng sau, luật sư chưa làm xong giấy tờ thì một hôm bức thư mà nét chữ quen thuộc đã làm cho Georges phải cắn môi trước khi bóc ra.

« Nếu anh không tha thứ cho em thì chắc rồi đây đời em sẽ phải đắm chìm trong vũng bùn sâu, anh rộng lượng nỡ nào để cho vợ anh chết trong sự dày vò hối hận…»

Ba tháng, thời gian chỉ qua nhanh với những người sung sướng, Georges đâu có sung sướng, thế mà sao đối với chàng hình như cũng chỉ mới có hôm qua. Hôm qua hai người gặp nhau, hôm qua vợ nằm ngủ trên giường lần cuối, hôm qua chàng tiễn nàng lên máy bay. Thế thì hôm nay nàng xin trở lại có là bảo xa. Thánh kinh không nói chuyện l’enfant prodigue đó sao, người cha ấy đã dang tay ra đón con, cho con mặc áo đẹp, sai người ở làm con bê béo nhất để thết đãi ăn mừng. Tại sao Georges lại không bắt chước như lời giảng dạy của Thánh kinh.

Giá đời nếu ai cũng chịu tha thứ thì cuộc sống sẽ dễ dàng biết mấy. Georges nhất định tha thứ, chàng xin đổi trở lại Rabbat sống lại ở xứ nghìn ngôi đền (Pays aux mille minarets) mà chàng tin chắc rằng từ nay vợ chồng chàng sẽ được hạnh phúc. Chàng tin ở cái kinh nghiệm của một người đàn bà khi đã bị dày vò vì hối hận, khi đã biết thế nào là đau khổ.

Tờ giấy ly dị được hủy bỏ, tòa chưa làm án nên chẳng có gì khó khăn, nhưng ở đời, có bao nhiêu chuyện lạ, nhiều đôi ly dị rồi lại đám cưới lần nữa thì sao.

Muốn cho vợ có một ý thức rõ rệt hơn về gia đình, Georges xin mua một ngôi nhà mới cất; hướng mặt ra bờ bể Rabbat, nơi nầy sẽ là cái tổ ấm vĩnh viễn của đôi vợ chồng Georges, mỗi chiều Monique có thể ngồi đan áo như ngày nào và đôi mắt xanh sẽ được nước bể phản chiếu lên. Georges sẽ lại tìm được những hình ảnh cũ.

Georges muốn cho vợ quên hết những kỷ niệm đau buồn xưa, muốn cho nàng thoát xác, lột bỏ cái xác cũ bệnh hoạn, kéo lê thê một dĩ vãng nặng nề những hình ảnh, với kỷ niệm của những nhân vật, những khung cảnh, mà không giúp gì được trong sự tiến bộ của con người.

Cố nhiên chàng phải vay tiền của cậu em trai để mua sắm để xây dựng lại cái hạnh phúc mới.

Có thể rất nhiều người không hiểu nổi Georges, cho rằng hành động của chàng là ngu, là dại vì những kẻ ấy chưa bao giờ yêu. Nếu họ đã có một lần yêu thành thật, yêu say đắm như chàng yêu thì họ sẽ hiểu chàng và tán thành những việc làm của chàng.

Một đứa bé ra đời, câu chuyện hơi kỳ lạ, từ độ cưới nhau Monique vẫn tỏ ra không muốn có con vì nàng sợ già, sợ bận, sợ xấu thế mà bỗng dưng có một đêm chàng đang ngủ bị vợ gọi dậy bảo rằng nàng muốn có một đứa con.

Mấy tuần sau Monique báo cho chồng biết rằng nàng đã mang thai. Có người đàn ông nào yêu vợ mà không mừng khi nghe cái tin ấy, Georges lại là dân Corse, một xứ còn nặng óc gia đình cũng như dân Châu Á, dân Do Thái, dân Châu Phi… Georges đã nghẹn lên vì cảm động.

Đứa bé ra đời càng thêm tốn kém vì Monique là một người mẹ có khiếu thẩm mỹ, thích sự sang trọng nên sắm sửa những gì cho mình cũng như cho con, đều phải sắm thứ hạng nhất.

Thằng bé cần ăn rau nghiền ư? Cái máy nghiền chàng đã vay tiền ở sở để mua cho xứng đáng, vì gia đình chàng cứ cuối tháng là hết sạch. Cái máy nghiền ấy chàng hí hửng mang về cho vợ tưởng thế nào cũng được khen không ngờ nó đã bị ném đánh choang một cái xuống sàn, Monique mỉa mai chê ầm lên là đồ bán chợ trời đồ bán xon, ai dùng được những của ấy.

– Anh mua giá mười nghìn quan đấy em ạ.

Chàng tưởng phân trần như thế thì vợ sẽ hiểu nhưng nàng chỉ cười khẩy bảo rằng, muốn dùng cho tạm được phải mua một cái ít nhất là ba chục nghìn quan. Chiều ấy nàng về xin bố tiền đi mua cái khác.

Đấy là một trong những kỷ niệm làm cho Georges băn khoăn bao nhiêu lần Georges đặt câu hỏi hay mình ngu thật, tại sao có thể chịu đựng được một người như thế, nhưng rồi chàng lại tự an ủi rằng trong một trăm gia đình không có gia đình nào hoàn toàn hạnh phúc. Vả lại nếu cuộc đời Georges không làm cho sung sướng, không làm gì ích lợi thì ít nhất chàng cũng đã làm cho hai kẻ được hạnh phúc: đấy là vợ và đứa con trai, dầu sao thằng bé cũng vô tội.

Còn Monique, nàng không bao giờ tìm hiểu vì sao số mình lại may mắn thế, loại người quen được đời chiều đãi, nên sự gì đến cũng là lẽ tất nhiên nó phải đến, nàng sẽ ngạc nhiên nếu sự xảy đến không mang lại cho nàng những gì nàng chờ đợi. Tiền chồng làm ra là để tiêu xài, hết lại hỏi như đứng trước cái máy nước hết lại đưa tay ra vặn cho nước chảy, giản dị biết mấy. Nàng chưa có lần nào làm thử một cái tính so sánh số lương của chồng mỗi tháng, với sự ăn tiêu trong nhà như thế thì làm sao cho đủ. Nếu có ai thử ghé mắt nhìn hai cái tủ áo sẽ thấy sự chênh lệch rõ ràng: phía tủ của Georges chỉ có một vài bộ quần áo lễ phục trong quân đội ngoài ra, chàng chẳng có một bộ quần áo nào trông cho được mắt. Trái lại liếc sang bên tủ áo của Monique, mắt người sẽ sung sướng vì đấy mới là mỹ thuật, đấy mới là kẻ biết mặc biết chọn hàng, chọn màu.

Georges nhìn mỗi ngày nên chàng đã quen mắt và không hề thấy sự chênh lệch, Monique cũng thế. Mỗi lần tìm được một mẫu hàng mới hợp với ý thích, với màu tóc màu da, nàng cũng vui không kém nhà kỹ sư hóa học khi tìm được một chất hóa học gì mới, Nhưng rồi niềm vui tàn ngay chứ không lâu dài như đối với những ông kỹ sư trong việc tìm kiếm của họ.

Còn đâu những câu chuyện đằm thắm: «Em sẽ tự tay vẽ kiểu để thợ đóng tủ sách cho anh, vì anh có nhiều sách quý ». Lời nói chứng tỏ sự hiểu biết về thẩm mỹ về ý thức đối với những quyển sách quý không như những người đàn bà khác, chỉ biết ăn diện, đi chơi chỗ nầy chỗ khác, ngoài ra không bao giờ thông cảm được với linh hồn sách vở. Đã thế câu nói còn bao hàm cả một lòng yêu thương chồng. Còn đâu nữa. Câu chuyện của hiện tại đã hoàn toàn đổi khác:

«Năm nay xa-lông xe hơi coi bộ đặc biệt hơn năm ngoái anh nhỉ. Anh có để ý thấy hãng Simca vừa cho một kiểu xe gần như xe Hoa-kỳ nhưng đuôi ngắn hơn, thích ghê. Hôm qua thấy cái Versaille chưng trong tủ kính làm em hoa cả mắt, nước kền bóng quá, ngồi trong xe ấy thì phải biết là hạnh phúc ». Rồi đôi mắt nàng mơ màng như đang tưởng tượng đến lúc mình được từ từ lái cái xe ra khỏi hãng xe… Cũng đôi mắt xanh đó ngày xưa lúc chưa cưới nhau, nàng hay mơ màng xa xôi khi nghe Georges nói đến tổ ấm của hai người. Ngày nay cái tổ ấm không phải chỉ căn một mái nhà với đôi trái tim, mà còn phải cần bốn cái bánh xe tức là cái xe hơi mà cứ mỗi kỳ hai năm lại phải đổi mới.

Người đàn bà khi nghe họ nhắc đến một nhân vật nào hay một cái gì qua đến lần thứ ba là ta có thể tin chắc rằng họ đang say mê cái ấy.

– Georges nầy, anh có thấy cái Trianon hơn cái Versaille không?

– Versailles là cái cung điện lớn, Trianon là cái cung điện nhỏ, còn cái Petit Trianon xây hồi vua Louis XV do nhà kiến trúc Gabriel, về sau hoàng hậu Marie Antoinette…

– Thôi đi anh, biết anh giỏi sử lắm rồi, em có cần biết mấy cái của nợ ấy đâu, em muốn hỏi ý kiến anh về cái xe Versailles và cái xe Trianon của Simca nó khác nhau thế nào.

Georges lắc đầu ngơ ngác:

– Anh làm sao biết được.

Lần thứ hai nghe Monique nhắc lại câu hỏi cũ, Georges lại cố đùa bằng cách trả lời lối khác:

– Em muốn bỏi hai cái bản hòa ước phải không? Bản hòa ước Versailles ký năm 1919 ngày 28 tháng 6 ở giữa nước Pháp, Đồng minh và nước Đức, để kết thúc cuộc chiến tranh thứ hai còn bản hòa ước Trianon ký ngày 4 tháng 6 năm 1920 …

Không đợi cho Georges nói hết, Monique đã hét lên:

– Em lấy chồng chứ em không lấy quyền sử ký!

Thấy vợ cáu, Georges vội làm lành vì không bao giờ muốn trong nhà có làn không khí bất hòa.

-Thôi anh xin lỗi, ai bảo em cứ hỏi anh những gì về xe cộ anh làm sao có thì giờ mà tìm biết.

– Anh nặng nề như mấy con gấu rừng.

– Đúng, mẹ anh vẫn bảo thế và còn thêm chữ gấu rừng Á đông, tại sao anh cũng không biết, làm như Âu châu chúng ta không có gấu.

Thấy câu chuyện đi lạc với hướng của mình muốn đến Monique lại bẻ quặt lại hỏi Georges:

– Độ nầy xe hơi dễ mua quá anh nhỉ? Hôm qua em vào hãng đại lý Simca lái thử cái Versailles, tay lái nhẹ ghê. Thấy mình ăn mặc «chic » mấy thằng cha bán hàng chạy đến xun xoe trông thương lạ. Chắc chúng nó tưởng mình ít nhất cũng là nhân tình của ông Sultan hay là một ông lớn nào trong hoàng tộc. Chúng nó đưa mẫu xe, nào mời đi một vòng lại còn hỏi em muốn màu gì để làm còm-măng đặc biệt.

– Nhưng em đến những chỗ ấy làm quái gì, chúng mình có xe rồi đâu cần mua thêm.

Georges hỏi vợ, hơi ngạc nhiên, từ độ cưới nhau và ngay cả từ độ cưới lại, tức là sau khi hủy bỏ tờ ly dị, chàng không bao giờ tìm hiểu chương trình thời khóa biểu của vợ trong lúc mình đi làm quần quật vắng nhà. Lúc nào chàng cũng muốn tỏ ra chàng kính trọng sự tự do của vợ, trái với tâm lý của người đàn ông Corse hiện tại họ đang còn giữ theo lề lối xưa cổ mà Georges vẫn hằng chống đối ngay từ thuở bé. Chàng muốn thay đổi cái quan niệm cổ hủ không hợp thời ấy, người đàn bà đã được giải phóng từ bao nhiêu lâu rồi mà bây giờ còn có người tiếc cái « ceinture de chasteté », thật là thủ cựu. Văn minh thì phải bắt chước theo các nước Âu Mỹ để cho đàn bà tự do một tí chứ. Georges không bao giờ mở đến cả cái ví cầm tay nếu vợ không bảo mở, đừng nói đến chuyện xem thư từ hay lục vấn những cuộc đi chơi với các bạn bè, uống trà, đánh bài chiều. v.v..

Nhưng Georges cũng không bao giờ nghĩ đến rằng vợ có thể bỏ con ở nhà để lái xe đi Casablanca thử xe mới như thế. Ngày xưa lúc còn bệnh hoạn Monique không dám đi ra đường một mình vì cứ bị ám ảnh vì cái ý nghĩ sợ đụng xe, đụng người.

Thấy nói quanh mãi mà chồng vẫn không chịu hiểu, Monique bực mình nhưng rồi nàng nhất định nói thẳng.

– Anh, sao chúng ta không đổi cái Versailles đi cho thích?

– Đổi làm gì xe còn tốt chán, mình em lái chứ anh có đụng đến mấy khi.

Monique chìa cái môi hồng ướt, tuy không đánh son nhưng từ nãy đến giờ mỗi lần muốn kìm hãm sự bực tức nàng đã mấy lần cắn môi thật chặt để khỏi hét lên, Monique nói chậm rãi.

– Xe cũ rích, hôm nào còn phải làm máy, phải thay bốn cái bánh thì cũng thế; đằng nầy mình chỉ cần bỏ ra hai trăm nghìn quan nữa là đủ đổi xe mới. Ba nói nếu cần ba cho vay, anh chỉ ký một tờ giấy nợ là đủ.

– Sao lại phải làm máy, sao lại phải thay bốn cái bánh, xe chúng mình anh tưởng còn mới quá cơ mà.

– Mua từ hơn một năm rồi, anh ra nhìn công-tơ mà coi, không làm máy lại để bắt em nằm rừng sao? Vả lại lái mãi chiếc xe một màu chán chết. Chưa đến chỗ nào thì mọi người đã biết ngay rằng xe của mình.

– Em đi đâu mà nằm rừng?

– Ô hay, anh muốn em phải cấm cung như những người đàn bà Ả-Rập ấy à. Tuổi em bây giờ mà anh không cho em tận hưởng thì đến bao giờ anh mới cho em hưởng.

Georges im lặng cắn môi suy nghĩ, thật là phức tạp, chàng không ngờ đời còn những tình tiết rắc rối như thế. Thời đại đã hoàn toàn đổi mới cả rồi chăng? tất cả những quan niệm về nhân sinh, về hạnh phúc đều phải duyệt lại cả chăng? Từ trước Georges vẫn nghĩ mình đã đi trước bánh xe của thời đại không ngờ… Chàng đinh ninh rằng sau mấy tháng trời đau khổ, Monique đã hoàn toàn thay đổi nhưng không, con người nhờ trời được cái chóng quên. Hẳn đấy cũng là một đặc ân riêng mà trời đã dành cho người chăng? Nước suối «Léthé » mạnh đến thế ư, không những con người đã quên những gì xảy ra trong kiếp trước mà quên luôn cả những việc xảy ra trong kiếp nầy?

Tại sao Monique lại không cùng một quan niệm với chồng, có phải là cuộc sống sẽ dễ chịu biết mấy không? Georges vẫn tưởng hạnh phúc là mái gia đình, là một người chồng biết yêu quý mình, là đứa con kháu khỉnh mạnh khỏe, chứ hạnh phúc đâu ở chỗ cái xe hơi kiểu mới với tấm áo khoác vison.

Câu chuyện cãi nhau ngừng ở đây vì người đàn bà vốn khôn ngoan. Kinh nghiệm đã cho Monique biết rằng mình không bao giờ có thể tìm được một người đàn ông nào hơn Georges. Những người đàn ông khác hiện vẫn chạy theo nàng chẳng qua vì thấy nàng sang trọng, xinh đẹp, thơm mùi nước hoa đắt tiền. Điểm làm cho nàng được nhiều «Succès » nhất là nàng có chồng, họ theo nàng trước hết là khỏi phải lo cưới và thứ hai nữa là nếu có đứa con nào thì pháp luật đã bắt chồng nàng lo lắng chu toàn, họ khỏi phải vướng bận gì cả. Sẩy nhà ra thất nghiệp, chuyến thử thách năm kia còn đó, thằng cha Louis lúc còn là bác sĩ chữa cho nàng thì ngày đêm không ngừng thề thốt hẹn hò. Ngày nào cũng nói đến chuyện cưới xin, đêm nào cũng mời đi ăn đi chơi, đón ý chiều chuộng nàng như chiều chuộng một vị công chúa. Đến khi nàng ăn phải bả, bắt chồng ly dị thì chưa đầy hai tháng sau đã trở mặt xem nàng không khác gì một cô gái điếm chuyên nghiệp.

Cố nhiên là đừng mong gì nhắc đến chuyện cưới xin, lại còn lên giọng dạy đời bảo cho nàng biết là nên trở về xin lỗi Georges, vì trên quả đất chẳng còn có thằng nào ngốc hơn thằng chồng của nàng. May mà Georges là kẻ đại lượng quân tử nếu không thì chưa biết đời nàng rồi sẽ ra sao.

Mỗi lần cãi nhau một vấn đề gì mà thấy tình thế có vẻ hơi gay cấn thì Monique khôn ngoan lái ngay câu chuyện sang hướng khác. Nàng đến nũng nịu ôm lấy đầu chồng nhắc lại những kỷ ni