← Quay lại trang sách

Chương III

Thiên Nga đọc hết quyển truyện thì đồng hồ nhà láng giềng cũng vừa gõ năm tiếng. Quyển sách đã làm cho nàng thức suốt đêm, trước mặt nàng hình như những cảnh những nhân vật đang nhảy múa. Một tiếng thở dài mà Thiên Nga không tự kiềm chế đã thoát từ trong tâm hồn người đàn bà nhiều tình cảm.

Georges dặn nàng đọc xong phải nói ý kiến, có lẽ cái tiếng thở dài vừa buông ra ấy đã quá đủ rồi chăng? Quyển truyện La Seconde Chance này như nối ý với quyển 25è Heure mà tác giả đã vạch ra tất cả cái khổ của người dân Do Thái trong cuộc chiến tranh thứ hai. Bị tầm nã, bị tra tấn, bị đuổi, bị đánh bị giết, tất cả mọi sự chịu đựng tất cả mọi sự thiếu thốn vô nhân đạo để làm gì? Để thỏa thích cái ý muốn ma quái của một vài nhân vật. Quyển La Seconde Chance nối tiếp với quyển trên, tác giả nói lên những nỗi khổ của người dân những nước bị sửa biên giới. Những kẻ không được trở về với quê hương mà phải vì đi tìm một chỗ để chân trên mặt đất. Nhân vật chính trong truyện cho đến chết vẫn còn đặt tin tưởng vào chủ nghĩa của mình đã phụng thờ. Boris Bodnar vẫn đinh ninh rằng nếu thượng cấp xua đuổi mình là vì thượng cấp không biết rõ mình chính là con người mà thượng cấp đã giao cho những công tác như thế… Sau bao nhiêu lần tìm về đều bị tù đày hắt hủi. Boris sống ở trên núi cùng với những người dân Roumains khác cũng đi trốn cái chính sách Cộng sản. Lúc đoàn quân Đồng minh đi tìm người về, thấy những chiếc xe tanks những bộ quân phục mà ngỡ rằng của quân đội Nga, anh chàng đưa tay lên hoan hô « vive la force soviétique » nhưng khi nhìn kỹ lại qua dòng nước mắt mới thấy tất cả các thứ khí giới đều có chữ «made in U.S.A »… Thiên Nga cũng không hiểu tại sao Georges lại trao cho nàng quyển truyện ấy, có phải vì sợ Thiên Nga sẽ hối hận vì cái cảm tình của George, và nàng đã dành cho nhau? hay muốn nàng thấy rõ thêm rằng đời còn có rất nhiều ngang trái mà vấn đề biên giới, vấn đề chủng tộc vẫn là những bài tính chưa giải quyết? Hay vì thấy Thiên Nga thường tỏ ra dè dặt,với người quân nhân nên chàng đã muốn cho nàng hiểu rằng mình không phải như nàng lầm tưởng?

Nàng nhớ trong câu chuyện Georges có nói lên một ý mà nàng vẫn nghĩ: « loài người sinh ra chỉ biết làm khổ nhau chứ chưa thấy làm được gì hơn.»

Có phải vì những lý do ấy hay còn gì nữa… Sau hôm gặp gỡ và sau buổi ăn đầu tiên không theo lối Nga hoàng mà cũng chẳng theo lối Staline, Georges bảo thế vì chàng rất thích thú ở chỗ cả hai người cùng mất thì giờ học Nga ngữ mà chẳng mấy khi có dịp dùng.

Họ đã dùng một bữa cơm thuần túy Việt Nam có cá kho có dưa giá thịt luộc với rau sống khế và chuối non chát, nhiều thứ Georges chưa hề ăn qua nhưng cũng vui vẻ nếm hết. Trước hôm Thiên Nga đến, Georges đã căn dặn chị Ba cố gắng làm sao cho chàng khỏi bị chê.

Sau hôm ấy Thiên Nga mới chịu nhận rằng cảm tình không có biên giới, trước kia nàng vẫn thường cãi nhau với các bạn để bảo vệ những lý luận của mình, nếu không cùng một giai cấp là đã khó hiểu nhau rồi đừng nói đến sự khác nòi giống. Hôm nay nhận thấy lập luận của mình hơi bị lung lạc, nàng hiểu thêm tâm hồn Georges qua quyển sách, qua hai buổi nói chuyện quên giờ giấc. Lần đầu tiên mà con người trọng kỷ luật và trọng giờ giấc ấy chịu điện thoại lên phòng tham mưu bảo rằng chàng sẽ đến muộn.

Tâm hồn Thiên Nga hoang mang, cảnh tượng bữa ăn hôm ấy diễn lại trong đầu óc.

– Cô có biết một nước nào có câu tục ngữ: «Muốn làm bạn với ai thì trước hết phải ăn với người ấy một thìa muối » không?

Nói xong Georges tinh nghịch lấy bình muối đồ đầy một thìa đưa cho Thiên Nga bảo rằng để đốt giai đoạn. Các ông “Lords” đặt ra câu ấy chắc thế vì họ có nhiều thì giờ đi ăn với các “Ladies”, còn chúng mình ở trong thời kỳ chiến tranh, chờ cho ăn hết một thìa muối này thì không biết đến bao giờ mới có thể thành bạn của nhau.

Thiên Nga không đồng ý nàng cho rằng như thế là gian, cái gì cũng phải có yếu tố năm tháng vào mới có giá trị.

Họ vừa ăn vừa cãi nhau đủ thứ chuyện, Thiên Nga kể cho Georges nghe một vài chi tiết về cuộc sống hiện tại, một vài ý nghĩ ngông cuồng của nàng. Thỉnh thoảng khi nàng quay nhìn một vật gì, ánh đèn ngời qua mắt làm Georges cảm thấy lạnh mình. Chàng như tìm gặp trong ánh mắt những nét dã man mọi rợ, những ý liều lĩnh khinh bạc, Georges cười thầm với ý nghĩ của mình, hẳn tổ tiên nàng là con cháu của Thành Cát Tư Hãn.

– Thiếu tá cười gì thế?

– Đôi mắt của Thiên Nga, tôi muốn biết Thiên Nga có lai Mông Cổ không?

– Lai thì sao?

– Chẳng sao cả. Tôi muốn nhớ những trang sử xưa khi nói đến quân Mông Cổ, tràn sang Âu…

– Tôi biết Thiếu Tá muốn nói cái gì, các bạn ở trường cũng hay bảo thế mỗi khi họ nghe giảng về Démographie historique et comparée ông thầy già gào lên rằng học trò không biết lo, chỉ độ 20 năm nữa với sức sinh sản của dân tộc Á đông thì rồi thế giới sẽ nhuộm vàng hết, trong khi người Âu càng ngày muốn hạn chế sự sinh sản. Nghe ông thầy nói đến đấy là y như cả lớp quay lại nhìn tôi bằng đôi mắt lo sợ. Thiếu tá có sợ không?

– Không sợ.

Câu chuyện quay sang những phong tục tập quán của hai nước. Georges bảo rằng ở quê chàng mọi người đều kính trọng cái bánh mì và phần việc cắt bánh mỗi bữa ăn vẫn chỉ để dành cho người cha hay đứa con trai lớn. Đấy là một cái vinh dự cho người ấy, vì thế năm lên bảy lên tám, Georges chỉ cầu mong sao cho chóng lớn để được cắt bánh mì. Cha chàng thường răn dạy các con không được phung phí, đừng có cái thói ăn vỏ bỏ ruột hoặc lấy ruột bánh mì mà viên từng viên trong tay vứt đầy bàn như những cô gái nhõng nhẽo và yếu thần kinh.

Thiên Nga cười vang, nàng hơi ngượng vì mình là dân Á đông không lấy bánh mì làm thức ăn chính, nên nhiều người hay có cái chứng viên ruột bánh mì như thế. May quá nàng chưa đến Corse bao giờ, nếu không chắc sẽ bị mời ra khỏi đảo.

Sau bữa cơm, thời gian không quá một tiếng đồng hồ mà cả Georges và Thiên Nga cùng chung một ý nghĩ như đã là bạn của nhau từ lâu lắm.

Thiên Nga bớt dè dặt, nàng tìm lại được sự tự nhiên như thuở còn đi học, Georges thì tuy thân mật hơn nhưng có những cảm giác trái ngược đang dành nhau đến xâm chiếm lấy trí óc. Georges vừa thấy vui sướng nhưng cũng vừa lo ngại. Hình ảnh Monique trong bộ áo đỏ, trong chiếc xe đỏ, với mái tóc màu bạch kim đang hiện ra trước mắt, tươi cười thỏa mãn vì ý muốn của mình đã thực hiện được.

Hình ảnh ấy từ mấy tháng nay và nhất là từ độ gặp Thiên Nga sao không còn làm cho chàng đau xót nữa, hay là chàng đã hết yêu Monique rồi? Có thể như thế được không, một mối tình to lớn, xây bằng bao nhiêu đau khổ bao nhiêu hy sinh. Ngày xưa hồi Monique còn ốm, Georges đang ở Congo, có một bận chàng bị mời đi dự tiệc ở một tòa Lãnh Sự trong lúc nhảy cô gái con của một ông Lãnh Sự bảo thầm thì với chàng « anh hãy hôn tôi đi » Mặc dầu lúc ấy đèn tắt thế mà Georges đã từ chối bảo rằng mình có vợ rồi nên không muốn làm khổ vợ đang ở xa. Độ ấy chàng rất kiêu hãnh thấy mình đã cứng rắn được như thế. Cố nhiên, cách mấy ngày sau chàng nổi tiếng là đại ngốc, nhưng Georges vẫn không cần, chàng không cần luôn cả những cuộc mời mọc khác và cô gái ấy mỗi khi thấy chàng là vội vã bĩu môi quay lưng như sợ chàng mang vi trùng dịch tả đến.

Thế mà sao bây giờ đứng trước Thiên Nga chàng lại quá mềm yếu. Thiên Nga có gì khác với cô gái con ông Lãnh Sự ngày xưa? Thiên Nga người con gái có đôi mắt Mông Cổ, ngoài ra còn gì nữa đâu…Lạ lùng hơn nữa là lần nầy không phải lần thứ nhất chàng gặp một người đàn bà Á đông, chàng đã có dịp gặp những cô gái Nhật, cô gái Hương cảng. Cô nào cũng xinh, cô nào cũng duyên dáng, thế mà sau khi ra về là hết, không cô nào được cái hân hạnh ở lại trong tâm trí Georges quá một tiếng đồng hồ. Đối với Thiên Nga, Georges phải thú thật rằng Thiên Nga đã làm đảo lộn tất cả những nguyên tắc, những kỷ luật của chàng vẫn buộc cho mình để giữ lấy mình, ngay từ hôm gặp ở nhà Maurice, có phải tại người con gái ấy đã đến đúng lúc chăng?

Ngoài sân gió thổi nhẹ làm đưa đẩy mấy cành lá chuối reo lên một âm thanh đặc biệt, chỉ có ở những xứ nào có cây chuối mới nghe cái thứ tiếng gió ấy, nó phần phật có lúc nghe như tiếng sóng hồ vỗ nhè nhẹ, có lúc nghe như tiếng thầm thì của một giống ma quái xa xôi. Georges vẫn đang bị dày vò vì hai thứ tình cảm đang vật lộn trong lòng, thỉnh thoảng nhìn đến Thiên Nga không thấy nàng nhìn lại, Thiên Nga cũng như đang suy nghĩ một chuyện gì. Nàng ngả đầu ra ghế hai tay vòng lên ngực.

Trời sắp mưa.

Giọng Thiên Nga như từ xa vọng về, làm Georges hơi giật mình lạ lùng, hơn nữa là trong giọng nói có gì nhắc đến giọng nói của Monique mấy hôm đầu mới quen với Georges.

– Thiên Nga có sợ mưa không?

– Sợ thì không sợ nhưng mưa hay mang về cho người những cảm giác bơ vơ, hình như vì gió …

Thiên Nga nói chưa hết lời thì Georges như bị một sức điện gì chạy qua người, chàng đứng vội lên rồi bước nhanh đến ngồi cạnh tay ghế dựa của Thiên Nga. Không xin phép, chàng từ từ nắm lấy bàn tay người thiếu nữ. Thiên Nga nhè nhẹ cố tìm cách gỡ ra, nhưng bị bàn tay của Georges bóp chặt hơn.

Cả hai cùng cảm động không biết nói gì, một lúc sau Georges mới lên tiếng hỏi.

– Em có mệt không?

Thiên Nga không trả lời câu hỏi mà chỉ ngước lên khẽ nhìn Georges:

– Chúng ta cách xa nhau nhiều quá, chiến tranh, nòi giống, văn hóa… dư luận …

– Tại sao Thiên Nga chỉ sống vì những cái gì ở bên ngoài mà không chịu sống thử cho mình một lúc nào đó….

Thiên Nga nhăn mặt hơi có vẻ trách móc, cả hai cùng mỉm cười không tìm hiểu lý do. Georges cúi sát vào tai người bạn gái nói rất khẽ bằng tiếng Nga:

– Ia Iloubio vas…

– Anh còn đủ trí nhớ để nói thứ tiếng ấy?

– Anh muốn tỏ cho Thiên Nga biết rằng anh không hành động vì một phút mù quáng …

– Anh không cần giảng em hiểu rồi, nhưng anh đã biết gì về em?

– Anh không cần gì hết, chỉ cần biết một chuyện thôi, em là của anh, chúng ta quen nhau từ kiếp trước; thế không đủ sao?

– Em chỉ là một đứa con bỏ rơi ngoài chợ được viện mồ côi nhặt về, năm lên sáu được một gia đình giàu mà không con mang về làm con nuôi. Mặc dầu mới sáu tuổi em vẫn còn nhớ rõ những gì xảy ra, không bị cái chứng lãng quên, như Freud đã gán cho cái tuổi ấy. Nếu khi nào anh muốn tìm hiểu cái cảm giác đó thì anh cứ việc đến những nơi người ta bán súc vật nhất là chó và mèo mà xem. Nói thế chứ em phải công nhận rằng em đã mang ơn bố mẹ nuôi của em rất nhiều, nhờ lòng tốt của bố mẹ em nên bây giờ em mới tự có thể làm việc và tự nuôi lấy thân. Mặc dầu các bà con hai bên gia đình rất lo sợ em lớn lên ăn hết gia tài thì các con họ không được hưởng, nên họ luôn luôn xúi giục bố mẹ em gả đi lấy chồng càng sớm càng hay.

Năm em vừa lên mười sáu tuổi thì trong nước có cuộc cách mạng, đọc báo chí chắc anh cũng đã theo dõi được tình hình hồi ấy. Cuộc cách mạng nào cũng phải có những sự tù đày giết chóc mới đúng lề lối, vì thế nên cha mẹ em được liệt vào hàng ngũ phản dân tộc, buôn bán cho Pháp, làm giàu trên mồ hôi nước mắt của người dân và cha em phải bị bắt để đền tội, tài sản tịch thu. Mẹ em thất vọng vào ngụ ở chùa, còn lại một mình em không biết làm gì ; em đi theo đoàn nữ thanh niên vì nếu không đi theo họ thì chẳng biết đi theo ai.

Nhờ đi vào đấy em đã học thêm được rất nhiều mà ở trường và ở trong nhà với bố mẹ nuôi em không hề biết đến, em học tìm lý tưởng học yêu tổ quốc và học căm hờn. Sau đó thì cuộc chiến tranh bùng nổ, giữa hai nước Pháp – Việt.

Nhận thấy em có nhiều khả năng nên em được người ta gửi vào hoạt động vùng tạm chiếm. Vào đấy em bắt đầu liên lạc với gia đình, ba em trốn thoát nên khỏi tù, nhưng gia đình em xuống một cách thảm hại, cha mẹ em sống trong gian nhà bé nhỏ chỉ đáng làm gian nhà bếp. Hình như đời mỗi người chỉ được một thời thịnh, thời của cha mẹ em đã hết nên ở tù ra trời còn bắt mang bệnh tê liệt, hết cả hoạt động buôn bán chỉ nằm một góc. Trước sự đói rách ấy em không thể làm gì hơn là xin đi làm thư ký đánh máy cho một hãng buôn để kiếm tiền giúp gia đình gọi là trả chút hiếu.

Mỗi ngày một mệnh lệnh của thượng cấp đưa về bảo em làm việc này việc khác, anh thử đặt vào địa vị em rồi anh sẽ làm sao, còn khổ hơn con cá nằm trên thớt, không biết lúc nào bị cắt đầu móc mang. Một hôm người thông tin về bị bắt. Xét tài liệu có tên em và địa chỉ nhà em, thế là hai cha con cõng nhau vào tù. Em làm sao quên được những cái nhìn trách móc của những người thân, suốt mấy tháng cực khổ tra tấn, em không bao giờ thấy khổ bằng lúc nghĩ đến cái nhìn của cha mẹ em trao cho em.

Cũng may là chúng thấy cha mẹ em bệnh hoạn nên thả ra. Em khỏi phải cần tả lại cho anh nghe những ngày tù đày vì nhà tù nào cũng giống nhau kém hơn nhau một tí thôi, chắc anh đã đoán hiểu, nhất là đối với một đứa con gái.

May phúc cho em, cha mẹ em biết rằng em oan nên đã cố sức chạy xin cho em ra, thế là em mang ơn thêm một lần nữa, lần này cũng nặng nề không kém lần trước khi người đưa cho em rời khỏi viện mồ côi.

-Thiên Nga vào cha gọi

Thiên Nga ngước lên nhìn mẹ hơi ngạc nhiên, tại sao giọng mẹ khác hẳn mọi hôm, có gì nghiêm trọng quá, làm nàng hơi lo ngại. Sống trong bầu không khí nặng nề ảnh hưởng của chiến tranh nên con người không ngừng sợ sệt. Một tiếng động khác thường, một giọng nói lạ đều làm cho Thiên Nga nghĩ đến chuyện rủi ro gì sắp xảy đến.

Thiên Nga lặng lẽ xếp sách đi qua phòng cha, nàng cố chậm bước để kéo dài thời gian mặc dầu chưa biết cha sẽ nói gì với mình. Từ hôm ở tù ra nàng còn yếu nên cha mẹ không cho nàng đi làm việc. Thiên Nga muốn học thêm trong ngành bào chế, nhân có một hiệu thuốc quen của mẹ nàng bằng lòng cho nàng vào giúp việc và tập dượt luôn thể.

– Thiên Nga con có biết mấy năm nay cha và mẹ con khổ đến bực nào không? Con hãy nhìn cái đầu tóc của mẹ con và cái thân hình bệnh hoạn của cha thì đủ hiểu, nhưng đấy chỉ là phần vật chất còn phần tinh thần thôi khỏi cần nói đến. Nhà ta bây giờ càng ngày càng trầm trệ, bao nhiêu tiền bỏ ra mua gỗ đều bị mất vì không chở về được ; nợ dồn dập mà cha bị nằm một chỗ, rồi con trở về, con bị bắt…

Nói đến đây người cha nàng ngừng vì nghẹn lời hay vì muốn cho Thiên Nga có đủ thì giờ để hồi tưởng lại cái cảnh tù đày của nàng. Đưa tay lên chùi mặt ông cụ nói tiếp:

– Bây giờ sức cha đã kiệt, nợ vẫn không trả nổi, cha mẹ không có con cái, chỉ có mình con. Chung quanh bà con đều quay lưng vì sợ liên lụy hoặc sợ phải giúp đỡ, chỉ mình con lúc này có thể cứu cha

– Cha muốn con phải làm gì, cha cứ bảo nếu sức con có thể…

Thiên Nga chưa nói hết câu thì người cha đã vui mừng cắt ngang, ông cụ ngờ rằng cô con gái đã thông minh đoán biết.

– Có người muốn xin con làm…

Thiên Nga cắn môi để trấn tĩnh, nàng không chờ đợi một câu chuyện quan trọng đến thế.

– Cha không ép con đâu, tùy ý con, người y hẹn nếu con bằng lòng thì sẽ giúp cho cha bồi thường chiến tranh…

Thiên Nga im lặng, nàng không cần phải hỏi tên ai… Cái thằng đàn ông mà cha chỉ dùng chữ xin chứ không cưới tức là thằng ấy hẳn phải có vợ rồi. Một thằng mà có thể giúp cha đòi được tiền bồi thường chiến tranh tất nhiên phải là một thằng Việt gian hạng nặng mới có đủ uy quyền mà làm những công việc ấy. Hơn nữa phải là một thằng Việt gian mới dám xin nàng là một cô gái đã can án, đã bị ở tù vì tội liên lạc với địch. Không cần phải tìm biết nó là ai cũng hiểu biết rằng đấy phải là một thằng đàn ông có uy quyền và ác độc. Nếu không độc ác, nếu thấy việc đáng làm có thể làm được, có thể giúp đỡ một gia đình, sao lại không làm mà phải mặc cả, phải đòi đứa con gái ra làm vật hy sinh…

– Con về ngủ… Ba để tùy con định liệu… Ba không ép.

Thiên Nga lặng lẽ bước về phòng mình; đầu óc rối bời, không biết tìm cách nào để giải quyết. Bên ngoài trời bắt đầu mưa, những hạt mưa gõ nhịp xuống mấy cái chậu để sẵn chờ hứng nước, Thiên Nga vẫn mở cửa sổ đứng nhìn ra ngoài, mặc cho mưa tạt vào phòng ướt cả tóc cả áo. Hình như trong con người có một cơ quan nào ngừng hoạt động, một cái gì đang tê liệt, đang bế tắc. Giá có ai cầm kim chích vào cánh tay hay lấy lưỡi dao rạch vào thịt chắc nàng cũng sẽ không biết đau. Trời vẫn mưa, sao hôm nay trời mưa nhiều quá, hay trời đang buồn giùm cho một người.

Một cái chớp sáng lòe lên không gian như lưỡi gươm tung lên của tên đao phủ làm Thiên Nga rùng mình nhưng vẫn không chịu đóng cửa quay vào. Một cuộc đời chết hay một cái đầu rơi, khác nhau là mấy…

Biết rằng vào giường cũng không thể nào ngủ được. Nàng muốn đứng nhìn trời sáng thử xem có tìm ra được một giải pháp nào chăng. Làm sao để cứu giúp được cha mẹ mà không bị chôn vùi cuộc đời, giải pháp gì bây giờ? Thiên Nga không buồn mà cũng không oán cha mẹ, nàng chỉ oán cuộc chiến tranh. Nếu không có chiến tranh, nếu không có chiến tranh thì cuộc đời của nàng và của bao nhiêu gia đình khác đâu có phải chịu những sự điêu linh như thế. Nếu không có chiến tranh thì cuộc đời của Thiên Nga như đã được vạch ra sẵn, lớn lên học hành xong, gặp một người chồng vừa ý, sống một cuộc đời hạnh phúc.

Trời ngừng mưa, không biết mấy giờ, một mảnh trăng khỏa mây tươi tỉnh hiện ra như nụ cười trong đêm tối, một vài tiếng gà gáy vang lại từ xa, Thiên Nga vẫn đứng ở cửa tiếp tục suy nghĩ.

Có cách gì để nhân 1oại bớt tham lam, để chấm dứt chiến tranh không? có phải vì thừa nhân khẩu, như những nhà xã hội học nói không? Nếu sự sinh sản được hạn chế công khai thì liệu có làm cho giảm bớt sự cần thiết trong công việc đi tranh dành đất đai, thức ăn không?

Có cách gì để cho những nhà lãnh tụ của mỗi nước bớt nghĩ đến chuyện đi tìm ảnh hưởng kinh tế chính trị? Bao giờ cho người ta bớt lo mở mang những kỹ nghệ chiến tranh để nâng đỡ đến những kỹ nghệ hòa bình chứ cứ còn mải lo đúc gươm súng, bom đạn thì rồi cứ phải tìm cách tiêu thụ? Còn gì buồn cho một lưỡi gươm chưa được dính máu; một khẩu súng chưa thơm mùi khói thuốc súng.

Mải để cho những ý nghĩ vơ vẩn ấy chen lấn dằng co trong đầu óc, Thiên Nga quên cả sự đi tìm một giải pháp, ngày mai làm sao trả lời với cha. Người cha đã hai lần cứu sống, đã cho mình một cuộc đời đầy đủ từ nhỏ?

Trời sáng dần, một vài nét vạch dài màu vàng nhạt vẽ lên không gian qua màn mây tối, những nét vàng ấy cứ mỗi lúc một đậm thêm và loang rộng ra, mây cũng đổi màu. Những tiếng chim ríu rít gọi nhau đi tìm ăn vui vẻ như không hề biết khổ, như đã quên hết cảnh mưa gió vừa qua.

Thiên Nga thèm muốn sống địa vị những bầy chim vô tư ấy. Giá con người cũng được như thế, chỉ cần một đôi cánh, một giọng ca vẫn có thể sống được dưới bầu trời cao rộng. Tìm đến những chỗ nào mình thích, khi nào buồn thì ca lên cho muôn loài cùng nghe có phải dễ dàng biết mấy.

– Sao cô biết tôi là một thằng Việt gian mà cô dám lấy, cô không sợ bị đoàn thể phê bình sao?

– Đánh bạc với trời.

Thiên Nga lạnh lùng trả lời, từ hôm nàng nhất định làm vui lòng cha mẹ, Thiên Nga vẫn tự cho như đấy chỉ là một canh bạc, không hơn không kém. Nhìn gia đình vui vẻ, cha nàng như tìm lại được sức khỏe, mẹ nàng cũng sung sướng hiện ra mặt, thay với cái nhìn oán hận hôm xưa bây giờ nàng lại hay gặp được những cái nhìn biết ơn, âu yếm. Thiên Nga bớt thấy khổ, ít nhất nàng đã làm được một việc có ích trong cuộc đời. Bao nhiêu người sinh ra từ bé đến lớn đến già, khi ngồi tính toán lại, nếu họ lương thiện không thiên vị thì họ sẽ thấy rằng suốt trong từng ấy năm trời họ chưa làm gì có thể gọi là có nghĩa lý. Họ sống, ăn mặc, đi học, thi cử, có địa vị trong xã hội, lấy vợ, lấy chồng, đẻ con, đi làm mỗi ngày hai buổi rồi hết. Không nói đến những hành động vô duyên và có khi ác hại, chưa nói đến những vấn đề giết người cướp của, đoạt vợ đoạt chồng của kẻ khác… Đấy không là một an ủi lớn cho Thiên Nga rồi sao, sức khỏe tìm lại được của người cha, nụ cười biết ơn của người mẹ?

– Cô là một cán bộ địch vận phải không, ở ngoài chúng nó nghe cô lấy tôi chắc chúng nó mừng lắm vì tin rằng chúng nó sẽ vận được tôi.

Hắn cười lên khoái chí sau câu nói của mình tự cho rằng thông minh và duyên dáng lắm. Thấy Thiên Nga ngồi yên không trả lời, hắn đến bên nàng vỗ vai thân mật nói tiếp:

– Cán bộ gì mà không biết ăn nói, thế mà đòi vận ai? Chắc chúng nó chửi tôi lắm nhỉ, nhưng chúng nó lầm cả! Chính tôi mới là người yêu nước, cô thấy ai có tinh thần cách mạng như tôi chưa? Những người khác vào địa vị tôi thì sợ sệt lo lắng; chẳng đứa nào dám làm gì cả. Đời có bao nhiêu 1âu, ở đấy mà lo sợ với giữ gìn, thích gì thì cứ làm, thèm gì thì cứ thỏa mãn. Phải không cô, chắc cô cũng đồng ý với tôi chứ?

Thiên Nga nghe nói mà trí nghĩ mải đi về đâu, nàng không cần biết hắn thế nào, quá khứ của hắn, tương lai của hắn, tất cả đối với nàng đều xa lạ. Nàng sẽ không hoạt động gì vì nàng muốn cho cha mẹ nàng được sung sướng cho trọn vẹn, vì thế khi hắn nói rằng « chúng nó mừng lắm», nàng cũng vẫn dửng dưng. Hắn cố nói để nhìn xem nét mặt Thiên Nga có thay đổi. Hắn biết trước mà vẫn dám tiến tới tất nhiên là hắn đã có cách đề phòng, Thiên Nga có làm gì rồi cũng không thể trốn thoát, hơn nữa nếu nàng có trốn thoát trở về với đoàn thể của nàng thì bên này cha mẹ nàng sẽ phải thay thế. Đó là một điều Thiên Nga không bao giờ mong.

Hắn hơi bực mình thấy Thiên Nga cứ lì ra không như ý hắn muốn, hôm nay vì Thiên Nga mà hắn bỏ một buổi làm việc, hắn diện thật sang, mặt mày nhẵn nhụi, đáng lẽ nàng phải kiêu hãnh.

– Cô phải biết có bao nhiêu đứa con gái trinh tiết sẵn sàng đến dâng mình cho tôi, kể cũng thích…

Câu nầy hắn nói như chỉ để cho mình hắn nghe, đấy là một điểm hắn rất tự hào, từ địa vị tầm thường trong xã hội, ngày bé, mỗi khi ra đường nghe tiếng còi xe các quan lớn hắn phải tránh sát bên lề đường. Xuất thân làm nghề bán báo kiếm mỗi ngày có vài đồng bạc thế mà nhờ có chí hắn trở nên một thương gia rồi nhân thời kỳ quân đội Pháp trở lại chiếm đóng hắn nhảy ra làm chính trị. Khôn ngoan thì nhất định là ít ai khôn ngoan bằng hắn. Khi có tiền rồi thì phải mua danh, có danh rồi thì phải lo giữ gìn cho cái danh được vững chắc. Hắn tự so sánh mình với Hitler, với Napoléon và hắn muốn rằng trong lịch sử nước Việt Nam cũng phải ghi tên hắn như lịch sử Pháp đã ghi tên Napoléon. Những người chung quanh biết hắn ưa nịnh nên ai cũng không tiếc lời ca tụng sự thông minh và tài cán của hắn, và cố nhiên là hắn tin thật. Được mặc áo gấm thất thê ngũ thể, được người ta tôn làm cụ lớn, đi ra năm bảy người theo hầu, đời hắn thật là mãn nguyện. Nhờ thế mà hắn không sợ chết. Theo ý hắn, chết như con bò mộng xứ Espagne là sướng, chết mà có kèn, có trống, có lính bồng súng đi hàng hai, còn đòi gì nữa. Hắn ngại nhất là sinh ra trong cái mái tranh không ai thèm biết đến, rồi lúc chết cũng phải trở về dưới mái tranh thì đau khổ biết mấy. Nhờ thế hắn nổi tiếng là can đảm, và không biết ai còn tặng hắn mấy chữ «Anh hùng dân tộc ». Hắn đang chờ một người nào thật thông minh tế nhị sẽ biếu hắn một bức tranh sơn mài với bốn chữ vàng «Anh hùng dân tộc» ấy thì chắc là hắn sẽ sung sướng lắm. Nhưng mọi người chưa ai có đủ sáng kiến để nghĩ đến, không lẽ hắn lại tự thuê thợ khắc lấy, chỉ có hắn là thạo tâm lý nhờ vậy nên mới có cái địa vị ngày nay.

Giá có người nào thông minh biếu cho hắn bốn chữ ấy bằng vàng thì nhất định hắn sẽ thưởng lại một chức vị gì rất xứng đáng.

Hắn gặp Thiên Nga trong một buổi hội chợ, nàng đang đi tìm mua gì mà thấy hắn nàng không tránh đường, không đỏ mặt cúi đầu e thẹn như mấy cô gái khác, trái lại còn bĩu môi quay đi như gặp phải một tên lưu manh gian ác. Thế là hắn trả thù, hắn đã sắp sẵn cái chương trình ngay từ hôm đó sau khi hỏi lý lịch của nàng. Hắn có tên cận vệ trung thành chỉ chuyên môn đi lùng danh sách và lý lịch các cô gái trong vùng. Nhờ tên cận vệ hắn biết danh sách tất cả mọi gia đình, ai có con đi kháng chiến, ai có con ở tù v.v…

Nghe tên cận vệ báo cáo về gia thế và lý lịch của Thiên Nga xong, hắn thi hành ngay chương trình, mời cha của cô gái đến niềm nở hỏi han và tỏ ý định của mình, hẹn cho người cha ấy trong vòng ba tuần lễ phải trả lời dứt khoát.

Cố nhiên là khi người ta có uy quyền, có tiền bạc trong tay thì muốn gì mà chẳng dễ, dầu sao lần này hắn cũng thích thú hơn tất cả mọi lần khác vì hắn tự hào rằng đã thắng hai trận, thắng kháng chiến là một chuyện đáng kiêu hãnh, còn thắng luôn cả con bé mất dạy ấy cho nó biết rằng hắn muốn gì là phải được.

Hắn phải lấy Thiên Nga và sẽ bỏ ngay sau đó, điều cần nhất là nàng phải có một đứa con với hắn, để cho mọi người cùng biết rằng không ai có thể làm gì được hắn, hắn muốn là trời muốn, là Chúa muốn, là Phật muốn.

Có ai trách hắn sao lại ác, sao lại bỏ con, hắn sẽ trả lời rằng có bao giờ những con chó đực, con sư tử đực biết đến con nó không. Điểm ưu tiên của trời dành cho người đàn ông, cho giống đực là chỗ ấy, những thằng nào không biết lợi dụng là đồ ngốc

Quả thật hắn muốn là trời phải muốn, tất cả đều xảy ra như ý hắn định trước, đứa bé sinh ra đã chết ngay sau đó, hẳn trời còn thương hại Thiên Nga vì để đứa bé sống ở đời cũng không đưa lại một an ủi gì mà chỉ nhắc nhở đến những ngày tháng u uất.

Để bênh vực cho cái lập luận của hắn, hắn thường tuyên bố rằng «Đối phương phải quý trọng tôi vì nếu ai cũng tốt, cũng gương mẫu cả thì dân chúng nó bỏ chiến khu nó trở về thành hết rồi. Và biết đâu diệt tôi rồi Pháp nó lại chẳng tìm được một đứa khác tàn ác hơn tôi». Để kết luận rằng chỉ mình hắn mới chính là người «anh hùng của dân tộc ».

Bỏ Thiên Nga rồi hắn tiếp tục đi tìm những cuộc chơi khác, thỉnh thoảng gặp bạn bè, lúc vui chuyện hắn không quên khoe cái thành tích vẻ vang của mình bằng một câu: «Các ông xem đấy, có ai gan dạ bằng tôi, cán bộ Việt Minh về đây cũng phải thua ».

Thế là chấm dứt một màn, bao nhiêu người trong lúc chán nản đã tìm đến cái chết nhưng chết cũng không phải dễ, chết rồi đi đâu, làm gì. Em chỉ sợ chết rồi cũng còn phải lang thang, linh hồn cũng còn vất vưởng. Đọc Enéide, Paradis Perdu anh có thấy tác giả cũng băn khoăn cũng thắc mắc cũng muốn tìm kiếm một cái gì nhưng kiếm ở đâu.

Từ nãy đến giờ Georges lắng nghe không hề cắt lời Thiên Nga, đợi cho nàng nói hết vì chàng biết rằng có những lúc cần phải nói ra thì sẽ bớt khổ bớt hận, cũng như có những vết thương cần phải được mổ xẻ, phải cắt bỏ đi mới mong lành bệnh. Khi Thiên Nga ngừng rồi chàng mới hỏi:

– Thế bây giờ người ấy ở đâu?

– Em không cần biết, có thể đã chết, có thể đang còn sống ở một phương trời nào, hay cũng có thể đang sống ở ngay trong nước… Nhưng từ lâu lắm tất cả mọi sự đều giải quyết dứt khoát, em không còn gì phải thắc mắc nữa cả. Ngay đối với cha mẹ em, hiện giờ các cụ cũng sống yên ổn ở thôn quê với số tiền bồi thường chiến tranh đủ để các cụ kéo cuộc đời đến mãn…

– Thế là em hoàn toàn tự do?

– Vâng thế là em hoàn toàn tự do…

– Sao em không cởi bỏ những xiềng xích cũ để cho tâm hồn được thư thả có hơn không?

– Em vẫn tự do, nhưng tự do vẫn có biên giới, những xiềng xích nào phải tự em buộc vào, nhưng vì xã hội không cho cởi ra. Cái xã hội từ bao nhiêu đời bị đô hộ, hết người Trung Hoa đến người Pháp, khi đô hộ thì ai cũng muốn ngăn chặn hết những nẻo có chân trời muốn dân phải cổ hủ, phải u tối để cho dễ cai trị, dễ bắt nạt. Vì thế người dân Việt còn đang bị trói mình vào trong những vòng giây thắt chặt, chưa có cách gì mở ra,

– Tại sao Thiên Nga không dọn về đây, nếu em muốn, chúng ta sẽ đến nhà thờ xin Chúa, đến chùa xin Phật. Anh tin rằng Chúa và Phật đều bằng lòng cho chúng ta gặp nhau, cho chúng ta yêu nhau.

Nghe Georges nói Thiên Nga lắc đầu, mắt nàng không giấu được một vẻ thất vọng chán nản, nàng nhìn vào chiếc nhẫn Georges đang mang trong ngón tay.

– Anh còn có gia đình, anh quên sao, tay anh còn mang nhẫn.

Nghe Thiên Nga nói Georges chỉ muốn lột cái nhẫn ở tay vứt đi ngay. Chiếc nhẫn mà ngày xưa chàng đã kiêu hãnh lúc mang vào ngỡ rằng chiếc nhẫn sẽ ở mãi trong ngón tay cho đến lúc già, lúc chết. Thì ra tất cả mọi sự sung sướng hay đau khổ đều do ở trí tưởng tượng của con người mà ra. Georges cũng không hiểu tại sao hôm gặp Thiên Nga, chàng lại mang chiếc nhẫn vào tay, có lẽ chàng muốn dứt khoát với mình, chàng muốn ngăn một bức thành ở giữa mình và người thiếu nữ chưa quen, không ngờ, chỉ có mấy phút, sau khi gặp, sau khi trao đổi vài câu chuyện, người thiếu nữ đã phá vỡ được bức thành một cách dễ dàng.

– Em thấy chiếc nhẫn có nghĩa lý lắm sao? Tại hôm đầu tiên anh không muốn lừa dối em nên anh mang nó vào tay, vả lại đó là một ý nghĩ của anh muốn trả lời lại cho Maurice, vì nó ca tụng em nhiều quá, nhưng anh không bao giờ tin lời nó nên trước khi đi anh mở ngăn kéo lấy chiếc nhẫn mang vào. Sự thực từ khi về Việt Nam anh không động đến, nó vẫn nằm ở ngăn kéo, nhưng trong suốt mấy tuần qua vì muốn tranh đấu với bản thân, anh cố giữ, bây giờ nó chẳng còn có nghĩa lý gì cả.

– Đối với xã hội nó vẫn có nghĩa lý, với pháp luật cũng thế, anh quên sao, nhất là ở xã hội Việt Nam. Cái xã hội mà có những kẻ yêu nhau không biết cách gì hơn là buộc hai cổ tay sát nhau rồi cùng chết. Ngờ rằng chỉ có cái chết mới làm cho họ được gần nhau, nhưng cũng chỉ một thời gian ngắn rồi sau đấy lại vẫn chôn riêng, thế cũng vẫn xa.

Thiên Nga bớt buồn, hình như trong lúc cãi nhau với Georges là chính nàng đang tự cãi nhau với mình đang muốn thanh toán với mình tự dỗ dành an ủi mình.

– Tại sao con người cứ phải lệ thuộc với xã hội? – Nói xong Georges bỗng giật mình, không ngờ chàng đã thay đổi, có thể thốt ra những ý nghĩ phóng túng như thế. Nếu gia đình chàng nếu gặp lại chắc sẽ rất ngạc nhiên, còn đâu chú bé Corse mỗi chủ nhật cầm quyển kinh đến nhà thờ dù mưa hay nắng. Còn đâu hình ảnh người quân nhân trẻ tuổi nghiêm nghị cả với người, cả với mình.

Tình hình căng thẳng mấy hôm nay giữa quân Bình Xuyên và chính phủ Ngô Đình Diệm, những người dân ở mấy vùng chung quanh tầm súng của hai bên đều lo tính chuyện bồng bế nhau đi tản cư. Chính phủ Việt Nam nghi ngờ cho quân đội Pháp đã giúp đỡ quân Bình Xuyên để lật đổ chính phủ. Georges biết trước rằng thế nào rồi người Pháp cũng phải đi khỏi nước Việt Nam, con bài họ Ngô nếu được đưa ra cũng nhờ cái tiếng chống Pháp và chống Cộng sản. Trận Điện Biên Phủ đã làm cho nhiều người chán nản thấy rằng cuộc chiến tranh vô lý này sẽ không đi đến đâu. Một người bạn đã kể lại rằng trước khi Ngô Đình Diệm về nước có đến Pháp để yết kiến Bảo Đại.

Cựu hoàng đế đã đưa con người ấy đến trước tượng Đức Chúa và bảo rằng:« Đây là Chúa của ông, trước mặt Chúa ông hãy thề với tôi rằng, một là ông đuổi Cộng sản ra khỏi nước, hai là ông chết tại chỗ nếu ông phản lại với đất nước, » và ông Ngô Đình Diệm đã thề.

Có phải vì lời thề quá quan trọng đó mà ông Ngô Đình Diệm trở về phải lo tìm đủ mọi cách để giữ cho trọn, hay vì lòng dân đã ngao ngán, thất vọng. Giận chánh phủ Pháp bất lực, không giữ lời hứa, hay còn có nhiều uẩn khúc khác nên mới có sự thay đổi ấy. Đường lối chính trị của nước Pháp đã càng ngày càng lầm lạc như cuộn chỉ càng gỡ càng rối. Giận nhất là những kẻ nắm guồng máy đều mù quáng, hay vì địa vị danh vọng đã làm cho mụ người, những kẻ đứng ngoài trông thấy rõ nhưng không làm gì được. Georges cũng thuộc về những kẻ đứng ngoài, bực tức mà chẳng nói lên vì nói cho ai nghe, ai mà thèm nghe.

Biết rằng tình thế còn có thể cứu vãn được nhưng không phải bằng cái đường lối chính trị của mấy ông Tây thuộc địa. Ngày trước Von Manstein một sĩ quan Đức sau buổi họp ở bộ Tổng Tham Mưu còn dám chặn Hitler để đưa cái Plan Manstein rất táo bạo của mình về sự mở mặt trận đánh sang nước Pháp năm 1940. Ý kiến được chấp thuận mặc dầu các tướng lãnh đã hết sức chống đối cho rằng đấy là một sự đưa quân lính vào chỗ chết, kết quả đã ngược lại, quân Đức đã chiếm nước Pháp…

Còn bây giờ, ở cái xứ Việt Nam xa xôi này, Georges phải đương đầu với tất cả mọi người, và tất cả mọi người đều đi một lối khác hẳn với sự suy luận hiểu biết của chàng, không có buổi họp nào là không cãi nhau, Georges cũng biết mình rất bị để ý. Chàng còn biết hơn nữa là rồi đây chàng sẽ đứng mãi ở cái chức thiếu tá này để nhìn người khác thăng chức. Ở đời thông minh quá cũng là một cái vạ, học thức nhiều cũng là một cái vạ, cứ ngu đi, ai chỉ đâu vâng dạ đó thế là lên chức nhanh nhất.

Rồi đây chàng sẽ gặp những sự bực mình mà trong quân đội người ta thường gặp, là thấy những người tài sức kém mình, trước kia vẫn ở dưới quyền chỉ huy của mình nhưng rồi vì mềm dẻo hơn nên đã dần dần bằng mình và có thể vượt mình, chỉ huy lại mình. Mà có gì đâu: chỉ nhờ có mỗi một điều là chúng nó ngu hơn. Đã ngu hơn thì còn biết gì mà cãi lại với cấp trên, vì thế nên cấp trên bằng lòng và dễ thăng thưởng. Chưa hết, khi lên được cấp trên rồi, chúng quay lại nhìn những người vì cứng đầu nên thăng thưởng chậm, chúng nhìn bằng đôi mắt tự hào như là chúng rất xứng đáng với cái vạch vừa mang thêm trên vai của chúng.,

Nếu không có một triết lý cho thật vững thì lắm khi Georges đã muốn bỏ hết tất cả, hét lên một câu: « Chúng bay là đồ trẻ con » rồi đánh sầm cái cửa đi ra khỏi phòng họp. Ý nghĩ đi tìm một nghề khác để sống cứ lảng vảng trong đầu óc Georges từ mấy tháng nay.

Ngày xưa chinh chiến là một công việc cao quý, giới quý tộc vì đã có điều kiện để sinh sản nhiều hơn giới bần dân nên mới dành đặt ra như thế để cho con cháu mình được quyền ưu tiên, được ăn trên ngồi trước, khỏi thất nghiệp, khỏi bị khinh khi. Chính Napoléon cũng phải làm giấy giả để được theo và học trường Ecole militaire đe Brienne, trường này chỉ dành riêng cho con cháu của phái quý tộc.

Ngày nay nghề quân nhân chỉ còn là một cái nghề máy ; chiến tranh có thể xảy ra bất cứ vào lúc nào và chỉ trong vài tiếng đồng hồ cả thế giới có thể tiêu diệt. Ngày nay khi nhìn thấy một ông tướng ngực đầy huy chương, lắm khi nào phải vì ngài đã từng vào sinh ra tử, lăn lóc ở nhiều mặt trận, mang về nhiều chiến thắng mà chỉ vì ngài khéo nịnh bợ, khéo luồn cúi, khéo trở tráo.

Georges thở dài chán nản đưa tay lên tắt máy phát thanh, chưa biết phải làm gì cho qua ngày chủ nhật. Dậy mặc quần áo đi ra câu lạc bộ đổi sách ư? hay là lang thang một vòng ngoài phố? Cả hai ý nghĩ đều làm Georges ngần ngại. Suốt tuần lễ chỉ có mỗi một ngày chủ nhật, trời bên ngoài đẹp như ngọc, thế mà còn thấy ngày ấy vô nghĩa lý, trống trải thì có thể bảo rằng Georges là một kẻ cô đơn nhất rồi chăng?

Cả tuần lễ mỗi ngày hai buổi đến phòng tham mưu chỉ để chạm trán với những sự bực tức, những ý mâu thuẫn với những con ngựa của người Picador trong những buổi đấu bò tức là mấy ông bạn đồng nghiệp. Georges gọi họ như thế, vì thấy họ làm việc như con ngựa bị bịt mắt không biết đường lối nào, cứ nhảy chồm lên, mặc cho con bò mộng tha hồ húc vào mình.

Nằm nhà nghe tiếng đồng hồ gõ mỗi lần mười lăm phút, thấy thời gian dài dằng dặc không chịu qua, sách đọc hết mà đi ra câu lạc bộ đổi sách thì sợ gặp mấy con ngựa bịt mắt ấy, rồi lại cãi cọ để mang thêm về một mớ bực dọc, ý kiến bất đồng thì chỉ càng thêm tội.

Thế mà lang thang đi ra ngoài phố để làm gì, còn gì nữa đâu, hay chỉ còn những cái nhìn lạnh lùng xa lạ của người đi qua đường. Những cái nhìn như có kèm theo một câu hỏi: Sao chúng mầy chưa chịu rút về? Còn ở đây làm gì nữa? Georges đâm ngờ vực luôn cả câu nói của Victor Hugo: « vì dân chúng ở trên cao mà đám đông ở dưới thấp »… Có thật là dân chúng ở trên cao không hay đám đông là cũng do dân chúng họp lại?

Nằm suy nghĩ vẩn vơ không đưa đến một kết quả gì thiết thực, và ngày chủ nhật không phải là một ngày vứt đi là gì. Trước kia còn Maurice, những hôm buồn như thế này chắc Georges đã tìm đến bạn mặc dầu bạn và mình không đồng ý trong lý tưởng của cuộc chiến tranh ở Việt Nam. Tuy vậy Maurice không đến nỗi là một con ngựa bị bịt mắt và chàng chỉ thích nói đến chuyện ăn chơi, cãi nhau về một bức tranh của Rembrandt hay Delacroix, về mối tình của Schiller đối với Goethe, v.v…

Nhờ vậy có những ngày chủ nhật đã trôi qua không bực dọc.

Hôm nay, Georges có cảm tưởng ngày chủ nhật bước nhẹ như bước chân của con mèo cứ từ từ tiến về phía mình, chực vồ lấy mình mà mình thì giống con chuột yếu đuối đang muốn đi tìm chỗ trốn. Georges buột miệng: Giá có ai đến thăm. Nhưng chàng chợt nghĩ lại, không thể được, nếu người khách là một ông bạn cùng sở thì ngấy chết. Ai bây giờ? Georges có còn ai nữa? Nghĩ đến gia đình thì hình ảnh người vợ trong bộ áo đỏ lộng lẫy trở về, đang bước xuống xe, chiếc xe đồng màu với bộ áo. Georges cau mặt không muốn nhớ đến những kỷ niệm ấy, bỗng nhiên hình ảnh của Thiên Nga hiện đến, Georges mừng rỡ như ngày bé đi tìm nấm với lũ trẻ bạn, đi mãi không gặp cái nấm nào, bỗng nhiên có cả một đám đất ở dưới chân đầy nấm. Georges cũng muốn hét lên để khoe với mọi người, Thiên Nga hiện đến lúc này cũng hệt như những cái nấm ấy. Georges vùng dậy mặc quần áo đến thăm Thiên Nga, chỉ có cô bạn gái này mới giúp Georges trốn thoát được những cái vuốt của con mèo là ngày chủ nhật này.

Một ý nghĩ lo ngại thoáng qua, liệu Thiên Nga có nhà không? Nàng có đang nằm một mình, đang buồn như Georges, hay quanh nàng đang ríu rít những bà con bạn bè? Vô lý, Thiên Nga chỉ là một đứa con mồ côi thì nàng làm gì có bà con để đến chiếm ngày chủ nhật. Georges vẫn nghe nói đến những đại gia đình của xứ Á đông, không phải như dân Âu châu, trái lại nó giống hệt như dân xứ Corse của chàng. Cả làng kéo đến thăm nhau, vì họ bà con với nhau cả và ai cũng có thể xem nhà người làng như nhà mình. Đã thế xứ Á đông còn hơn nữa là nền móng luân lý đặt vào gia đình, tổ tiên, người sống, người chết, nên mỗi năm ngày kỵ chính kỵ phó hay ngày kỵ tổng hợp cũng là những cơ hội để họ hàng gặp nhau, ăn uống và cãi cọ. May quá xứ Corse của chàng không có cái nạn ấy và có lẽ như thế tiện hơn, kỵ giỗ thì đến nhà thờ xin lễ cho người chết thế là đủ lắm. rồi. Ai thương người chết thì cứ theo đến đấy mà cầu nguyện giùm, dễ dàng biết mấy.

Thiên Nga cũng đồng hoàn cảnh với Sémiramis, với Oedipe, đấy là một điều may. Georges vui vẻ với những ý nghĩ cầu kỳ méo mó vì sự gặm sách của mình. Tí nữa phải đến đố cô bạn gái xem nàng có hiểu ý mình không?

– Gió nào đưa anh đến đây?

Gió ngày chủ nhật, hay là con mèo của ngày chủ nhật.

– Sao lại con mèo?

– Vì tôi có cảm tưởng mình là con chuột yếu bị con mèo là ngày chủ nhật nó đang lừ lừ tiến đến để vồ lấy mình.

Thiên Nga chế giễu ý nghĩ lạ lùng của Georges, với nàng ngày chủ nhật hiền lành như một bà mẹ, ngày chủ nhật để cho con ngủ trưa, mẹ cho đi chơi, mẹ cho làm gì tùy thích, thế không là một bà mẹ hiền đó sao. Nói ý nghĩ của mình cho Georges nghe và chàng đã ngạc nhiên, tại sao Thiên Nga có thể tự đầy đủ với mình như thế không cần đến ngoại giới. Hay là người đàn bà vẫn nhiều ý chí hơn người đàn ông chăng?

– Tôi chỉ sợ Thiên Nga có khách hay là đi vắng…

– Rất ít khi đi vắng, mà cũng ít khi có khách, trừ những kẻ bị gió lạ thổi đến như anh?

– Anh cũng hy vọng như thế, anh nghĩ rằng Thiên Nga không có bà con và anh định gọi Thiên Nga là Sémiramis?

– Sao anh không gọi là Moise, hay Cyrus hay Romulus có hơn không? Các ông ấy cũng toàn là con bỏ rơi cả.

– Tài thật, tôi xin chịu, nhưng anh tưởng đàn bà đều thích được làm hoàng hậu chứ.

– Anh lầm, em thích được làm đàn ông, nếu em là con trai thì cuộc đời sẽ khác hẳn, dầu có là một đứa con ở viện mồ côi, chưa chắc những kẻ sinh ra em đã nở đem đi vứt bỏ để cho viện mồ côi phải nhặt về nuôi như thế.

Georges không tin, chàng vẫn giữ cái quan niệm nhan sắc trên tất cả, nếu Thiên Nga là con trai chưa chắc cha mẹ nuôi của nàng đã chịu xin về nuôi. Sống trong viện mồ côi thì cuộc đời sẽ có những gì, chàng rất bằng lòng vì Thiên Nga không là con trai.

– Em bảo thế chứ có bao nhiêu đứa con trai vẫn bị bố mẹ bỏ cả đấy thì sao, chúng ta không nói đến Moise vì đấy là người mẹ Do Thái ấy bị bắt buộc theo lệnh của Pharaon…

– Thôi anh ơi, em xin. Chúng ta đổi đề tài khác đi. Hôm nay em đang vui vì ngày chủ nhật khỏi phải đi dạy học, lại có anh đến chơi, từ sáng em có ý chờ một sự gì, linh tính như mách trước thế mà anh định đưa cái vấn đề u tối ấy ra nói thì còn gì là ngày chủ nhật quý hóa của em.

Nhìn thấy trong nhà và cả ngoài đường đều vắng lặng, Georges quên mất lý do. Chàng ngơ ngác không hiểu vì sao.

– Tản cư gần hết, chắc em cũng sắp phải đi mà chưa biết đi đâu. Nhà này ở cạnh sở Cảnh Sát Trung Ương, nhỡ có chuyện gì thì mất mạng, mà mất một cách vô duyên.

– Thiên Nga lì lắm, anh bảo đến anh dọn căn bên cạnh cho mà ở, em còn cứng đầu hơn con lừa…

– Con lừa cứng đầu sao, thế mà vẫn bị sai khiến khổ sở hơn những loài vật khác? Thôi không đùa, nhưng mới có hai hôm nay là em được yên ổn, tai khỏi nghe chửi rủa «Xe hơi nhà binh cán mày » vì thế em muốn tận hưởng cái sung sướng này ít hôm rồi đi đâu mới đi.

– Gàn, chờ cho bao giờ đánh nhau rồi mới chạy.

– Biết đâu rồi người ta chẳng điều đình, nhường nhịn nhau, lúc ấy có phải đỡ mất công chạy đi chạy về không?,

– Anh bảo trước nếu có gì anh đến đây bắt em bỏ lên xe cho em biết, đừng tưởng trốn thoát được với tôi.

Thiên Nga cản động nhìn Georges, trong lúc không một người nào nghĩ đến nàng thì có Georges tìm đến săn sóc, ai cũng lo chạy lấy thân mình, của cải mình.

Nhìn Thiên Nga trong bộ quần áo ngủ Việt Nam, bộ quần áo mà ở đây mọi người đều mặc để ra đường một cách rất tự nhiên, ai mới thấy đều khó chịu, cho rằng đấy là một sự khiêu khích nhưng nhìn lâu quen mắt và rồi chịu được cả. Vì Georges đến bất ngờ Thiên Nga đang nằm trong giường đọc sách nên không kịp vào thay áo. Nàng không đợi ai đến thăm vào giờ này và Georges muốn nàng cứ mặc như thế.

Lần này là lần thứ nhất Georges đến nhà Thiên Nga, mấy lần trước chàng chỉ đưa về đến cổng, lần thứ nhất chàng được nhìn cô gái Việt trong bộ quần áo ngủ, giản dị để lộ hai cánh tay trần với một chút cổ hở cắt theo hình tim. Nhan sắc của người đàn bà khi vừa ra khỏi giường thì hoặc là thô bỉ, môi thưỡn ra, mặt láng nhẫy lên vì mồ hôi nhờn và đôi mắt húp vì ngủ nhiều, hoặc là mộc mạc giản dị nom trong sạch như một cô gái thời mà loài người chưa biết dùng những phấn son giả tạo, phải trở về với thời đệ tứ kỷ, lúc nhân loại mới có mặt chắc thế.

Hôm nay tóc Thiên Nga không búi cao như mấy lần Georges gặp trước; trông nàng hết cả vẻ văn minh thành thị, chân nàng lại không mang dép nên nhỏ hơn ngày thường. Cái vẻ đẹp «femme enfant» đang được thịnh hành ở Âu châu. Thiên Nga vừa soạn làm cà phê vừa tiếp Georges.

– Ai đến thăm em vào giờ này chắc em sẽ bị nghi..

– Nghi gì, nghi rằng em là người yêu của anh phải không?

– Nếu chỉ có thế thì chẳng sao, nhưng họ sẽ nghi rằng em vừa tiếp anh đêm nay.

– Oan quá nhỉ, không chịu đâu, mà chúng ta cũng ngu, bị nghi thì đã sao…

– Thì đã sao.

Thiên Nga rùng mình nhắc lại ba chữ cuối cùng của Georges vừa nói, một cảm giác kỳ lạ truyền khắp người, cảm giác như khi nghe ai nói truyện ma mặc dầu câu chuyện của Georges không có gì đáng sợ. Nàng ngước lên nhìn Georges bắt gặp ngay Georges cũng đang nhìn mình rất chăm chú. Nàng định hỏi đùa sao chàng có cái nhìn giống như con rắn nhưng lại thôi.

– Thiên Nga đẹp hơn cả hôm đầu tiên anh gặp ở nhà Maurice, tại sao thế?

– Chắc tại anh không thích phấn son chứ gì?

Nhưng Georges chắc là không hẳn đã như thế, chàng tin rằng vì có chàng, vì Thiên Nga yêu mình và tình yêu thường tăng thêm nhan sắc của người đàn bà cũng như tình yêu đã giúp cho nhà văn thêm phong phú. Chàng cảm thấy mang ơn người thiếu nữ. Georges rất ngạc nhiên không hiểu tại sao chàng vẫn từ chối không chịu xem Thiên Nga là một thiếu phụ, đối với chàng Thiên Nga chưa đáng được gọi chữ ấy. Chàng biết mình mang ơn Thiên Nga vì lần đầu tiên chàng cảm thấy đã có nhận trong khi cho, và từ trước đến nay, hình như chàng chỉ cho mà không được nhận lại một chút gì. Hơn nữa, nếu không có Thiên Nga thì sáng nay chàng sẽ cô đơn đến thế nào. Chưa có một lần nào mà Georges nghe cô đơn như ở đây, cả thời kỳ phải sống chung với dân Canaques, hay với mấy ông bà Papous. Có lẽ vì chàng cảm thấy như có một cái gì đã hết, một sợi dây đã đứt, người Pháp không có quyền dẫm chân lên đất Việt Nam, thở không khí của người Việt, uống nước của xứ Việt.

– Độ này mỗi khi ra đường anh hay cảm thấy lạc loài…

– Tại sao?

Hỏi xong, Thiên Nga cắn môi suy nghĩ, nàng cũng hiểu tại sao, nàng muốn nói một câu gì để an ủi Georges, nhưng chàng đã lên tiếng tiếp theo.

– Rồi đây quân đội Pháp sẽ rút về người nào xin phép mới được ở lại, từ ngày chính phủ Diệm thay thế cho chính phủ Bảo Đại thì mọi công việc đều tiến hành rất nhanh, tất cả các cơ quan đang lo tính chuyện bàn giao công việc.

Tương lai rồi sẽ ra sao, có ai xem lén được quyển sách của định mệnh. Hôm nay chàng cũng nhân tiện kể những chuyện bực mình cho Thiên Nga nghe, may ra có vơi bớt một phần nào. Georges thầm ao ước giá mỗi ngày đi làm việc về mà có một người bạn hay người vợ lo lắng cho mình, chia sẻ với mình những bực tức, giúp mình giải quyết những vấn đề nhỏ nhặt hằng ngày thì sung sướng biết mấy. Câu nói của các bạn ngày xưa ở trường vẫn thỉnh thoảng trở về trong tâm trí như muốn mỉa mai chàng. Đời thằng đàn ông có ba cái hận. Ngày gặp Monique, Georges mới chỉ là một thanh niên còn hăng hái, đầy tin tưởng nhìn tương lai đẹp như nhìn vào cảnh thiên đường của Mohamed vẽ trong kinh Coran. Vì thế Georges vẫn ngờ rằng mình là kẻ may mắn nhất, chọn đúng nghề, gặp đúng vợ và lý tưởng là phụng thờ tổ quốc.

Mới có mấy năm qua mà mọi sự đều thay đổi như bức tranh lật ngược nhìn ra đằng sau. Lần đầu tiên Georges có ý định ly dị với vợ vì chàng muốn tránh bớt một cái hận mà chàng đang chịu. Thà không có vợ, thà sống một mình, cô độc thì cô độc cho luôn đi, chàng mang tiếng có gia đình mà rồi cũng như không. Nhìn bên ngoài, nhìn vào tờ khai đóng thuế, quả thật chàng là một kẻ quá đầy đủ. Có xe hơi, có nhà, lại thêm có bà vợ đẹp và cậu con trai, riêng mình còn mang được bốn cái gạch vàng chóe trên vai, nghĩa là danh vọng tiền tài hạnh phúc cái gì cũng không thiếu.

– Thiên Nga, anh định sẽ xin ly dị..

– Để làm gì, anh có chắc rằng anh sẽ quên được…

– Anh vẫn nhớ, nhưng lạ nhất là mỗi khi nhớ, chỉ nhớ đến những kỷ niệm buồn chán, còn những kỷ niệm vui thì mình phải tìm kiếm mãi.

– Người ta chóng quên những cái gì vui.

Thiên Nga cố lấy giọng thản nhiên để nói chuyện với Georges, biết Georges yêu mình, nếu chàng có ý định ly dị cũng vì muốn sống với mình cho trọn vẹn. Nhưng cảm tình của cả hai người còn tinh khiết quá, Georges không hề có một ý nghĩ chiếm đoạt khi biết chắc chàng chưa có thể đưa lại hạnh phúc cho Thiên Nga. Nếu chỉ như những cuộc gặp gỡ khác để rồi mỗi người mỗi đường chia tay nhau ngay sau đấy thì chẳng có gì đáng ân hận. Georges thấy Thiên Nga đã khổ nhiều và nàng không đáng bị khổ thêm một lần nữa, vả lại ở giữa hai người còn có một thứ tình bạn tinh thần bắc chiếc cầu ngang qua hai tâm hồn. Hôm đầu tiên Maurice chẳng bảo một câu rất đúng và câu ấy đã theo đuổi Georges mãi « Hai người làm như đã cùng học một trường với nhau, chung một thầy, chung một sách ». Tuy đó chỉ là một câu nói bất chợt không suy nghĩ nhưng rất đúng, Thiên Nga và chàng hiểu nhau như đôi bạn cùng học một trường.

Thiên Nga rất hoang mang đối với tương lai, nàng yêu Georges nhưng biết trước rằng đây chỉ là một mối tình không có ngày mai, không bao giờ nàng chịu để cho Georges bỏ vợ vì mình, vì thương hại người đàn bà cũng có, mà vì sợ rằng rồi đây nếu có gì không êm đẹp thì lại thêm một dang dở. Thiên Nga phân vân chưa biết phải xử trí thế nào, hoặc là cứ nhắm mắt liều không cần biết tương lai, sau đó dầu có mỗi người mỗi ngả cũng không có gì hối tiếc, hoặc là bỏ tất cả đi sang môt xứ khác, sang Hồng Kông hay sang Nhật bản để tìm cách lãng quên…

Pha hai tách cà-phê, Thiên Nga mang đến để ở bàn ăn mời Georges:

– Sáng anh ăn gì chưa?

– Sáng nay chẳng thấy muốn ăn nên anh không ăn gì cả.

Nghe nói Georges chưa ăn, Thiên Nga vội đi lấy thêm trứng định làm, nàng bảo cho Georges biết rằng vì sợ tình hình không yên nên nàng cũng gửi bà già vẫn giúp việc trong nhà về quê với các cháu. Nàng không muốn nhỡ xảy ra chuyện gì sợ lũ con cháu của bà ấy sẽ oán trách suốt đời.

– Biết cho người ta đi tản cư còn mình thì cứ nhất định ở lì không chịu nghe lời ai cả.

Thiên Nga nghe Georges mắng chỉ mỉm cười đi xuống nhà dưới. Nhìn Thiên Nga đi lại trong nhà, Georges yên lặng theo đuổi từng cử chỉ từng bước chân, Georges có cảm tưởng như đã quen biết Thiên Nga từ lâu lắm. Tất cả mỗi cử chỉ gì của nàng, mặc dầu mới lần thứ nhất trông thấy mà Georges vẫn tưởng rằng