← Quay lại trang sách

- II - Văn tài và võ tài ---

Một buổi chiều mùa đông. Sau một ngày trình diễn mệt mỏi, ba trẻ ngồi quanh ngọn lửa hồng, trước ngôi cổ tự.

Nền trời lấp lánh sao. Vài con chim ăn đêm chớp cánh trên từng không buông ra những tiếng kêu lảnh lót. Gió dìu dịu mơn vờn mái tóc trẻ thơ. Ánh trăng vàng lung linh trên nội cỏ.

Phi Yến mở đầu câu chuyện:

- Hôm nay anh Tử Lệ hãy kể chuyện cho chúng tôi nghe.

Tử Lệ thân mật nhìn bạn:

- Chuyện gì bây giờ?

- Anh là thiên tài về văn chương, anh có biết bao chuyện hay ho, lý thú. Nào, kể đi anh.

Tây Nhạn đề nghị:

- Tôi chắc cuộc đời anh cũng là một câu chuyện lý thú lắm rồi. Vậy hãy kể lại dĩ vãng của anh đi, Tử Lệ!

Đôi mắt Tử Lệ mơ nhìn về chốn xa xăm như đang tìm lại những bóng hình quen thuộc, những kỷ niệm ấu thời. Nó bỗng thở dài nói khẽ:

- Đời tôi thật ra không có gì ly kỳ như các anh, chị tưởng đâu. Tôi không hãnh diện chút nào, và nếu phải kể lại thì thật là một sự não lòng.

Phi Yến nhanh nhẩu nói:

- Càng não lòng, Yến càng thích nghe. Mà chuyện anh chắc không có Vũ khúc Nghê Thường hay tiếng hát Thiên Thai đâu, phải không anh?

Tử Lệ nhoẻn một nụ cười buồn:

- Có chứ, chị. Văn, vũ, nhạc vốn liên quan mật thiết với nhau mà.

- Vậy thì anh kể mau đi.

Tử Lệ bắt đầu kể với giọng thật đầm ấm, dịu dàng:

- “Tôi sinh ra trong một gia đình trung lưu, vốn dòng nho phong lễ giáo. Khi còn bé, tôi đã học tập văn chương kinh sử. Thú thật, tôi say mê văn chương hơn mọi thú trên đời. Chẳng hiểu tôi có chút thiên tư nào không mà khi mới lên bảy, nhiều người đã bắt tôi làm trò tiêu khiển. Mỗi lần có khách đến chơi nhà, cha tôi thường bắt tôi ra để trắc nghiệm. Khách ra câu đối cho tôi đối lại, hoặc ra đề cho tôi làm thơ. Khách thường khen tôi thông minh. Có người còn ca ngợi tôi là thần đồng.

Tôi không hiểu tôi thông minh ở chỗ nào. Và tôi càng hổ thẹn khi người ta ca ngợi mình là thần đồng. Nhưng rồi tiếng đồn cứ vang ra mãi, hết nho sĩ lại đến văn nhân tìm đến thử tài tôi. Họ làm cho tôi mỗi lần đến trường phải ngại ngùng với bạn, bỡ ngỡ với thầy.

Năm tôi lên mười, thầy tôi nghiêm nghị bảo: “Thầy đã hết chữ dạy con rồi. Con nên tìm thầy khác học hỏi thêm. Thầy tin tương lai con sẽ sáng lạng”. Trong làng không còn thầy nào giỏi hơn dạy tôi, nên tôi chỉ còn cách đọc sách để trau dồi thêm năng khiếu của mình.

Trong sách có những câu:

- Thi trung hữu hoa.

- Thi trung hữu nhạc

- Thi trung hữu nữ nhan như ngọc.

Tôi nhận thấy những lời này thật đúng. Nhờ đọc sách, tôi đã hòa mình trong những cảnh sắc lạ lùng của năm châu bốn biển, cả đến những cảnh Tiên giới. Phật giới như Bồng Lai, Cực Lạc. Nhờ đọc sách, tôi tưởng tượng đến những vũ khúc tuyệt vời của Hằng Nga, Ngọc Nữ, và mới nhận thức văn nghệ có tác dụng lớn lao đến tinh thần con người. Nhờ đọc sách, tôi hình dung được những dung nhan diễm lệ của những trang giai nhân trải mấy ngàn năm vẫn ngự trị trong lòng nhân thế. Và cũng nhờ đọc sách mà tôi trở thành một thi sĩ vô danh, ôm hoài bão dùng văn chương để tô điểm cho cuộc đời thêm đẹp, người đời sẽ đùm bọc nhau trong tình thương...

Năm tôi được mười ba tuổi thì một biến cố xảy ra. Chiến tranh đã lan đến làng tôi, gây nên cảnh điêu tàn, tang tóc. Mẹ tôi chết thảm thiết vì bị một toán quân vô loại hãm hiếp. Cha tôi vì muốn bảo vệ cho mẹ tôi mà bị chúng giết chết và bỏ xác xuống vực sâu. Tôi phải trốn chui trốn nhủi trong lùm bụi mới thoát khỏi những bàn tay hung ác.

Nghe đến đây, Phi Yến phẫn uất, đôi mắt sáng lên:

- Bọn giặc thật dã man!

Tử Lệ lắc đầu tiếp:

- Bọn sát hại cha mẹ tôi nào phải là giặc.

- Hay là bọn cường đồ đại đạo?

- Cũng không phải.

- Vậy chớ chúng là ai?

- Chúng là quân của triều đình.

Phi Yến và Tây Nhạn đều trố mắt, ngạc nhiên. Sự thật đó ra ngoài sự tưởng tượng của chúng. Phi Yến cau mày hỏi:

- Quân của triều đình phải bảo vệ dân, sao lại nhẫn tâm sát hại dân lành? Như vậy làm sao được lòng dân?

- Dưới quyền bạo chúa, quân làm sao không bạo tàn. Quân bạo tàn là cái mầm gây ra loạn lạc. Đó là nguyên nhân khiến loạn lạc cứ kéo dài, gieo đau khổ lầm than cho dân tộc.

Phi Yến thở dài:

- Chung qui chúng mình đều là nạn nhân.

Tây Nhạn nãy giờ lặng nghe, không dằn được nữa phải lên tiếng:

- Chiến tranh không buông tha cả những mái đầu xanh vô tội. Cuộc đời tôi có khác gì hai bạn đâu?

Phi Yến chớp mắt nhìn sang Tây Nhạn:

- Kẻ vũ dũng như anh mà cũng biết đau khổ à? Tôi cứ tưởng đời anh chắc phải có nhiều nét hào hùng lắm chứ.

- Hào hùng cũng có, mà bi thảm cũng nhiều.

- Vậy thì anh hơn hẳn chúng tôi rồi. Nào, anh kể lại cho chúng tôi nghe đi, anh Tây Nhạn.

Tây Nhạn ngẩng mặt nhìn trời cao, đôi bàn tay nắm chặt, đôi mắt long lanh. Vẻ mặt nó có vẻ hiên ngang, rắn rỏi lạ thường. Với giọng trầm hùng, nó từ từ đưa hai bạn trở về quá khứ:

- Gia đình tôi ngày xưa nghèo hơn gia đình hai bạn. Cha mẹ tôi là những nông dân lam lũ, khổ cực lắm mới tìm đủ miếng ăn.

Mới sáu tuổi, tôi đã phải ra đồng chăn trâu hoặc vào rừng đốn củi. Cũng may trời phú cho tôi một sức khỏe phi thường mới chịu đựng nổi nắng mưa, sơn lam chướng khí. Hàng ngày ra đồng, tôi cùng bọn mục đồng thường chia phe đánh giặc. Trận nào tôi cũng chiến thắng oanh liệt. Có lần một mình tôi chấp cả bọn trên năm mươi đứa, tôi tả xông hữu đột đánh chúng một trận tơi bời. Từ đó chúng tôn tôi làm Nguyên soái, râm rấp tuân lịnh tôi.

Một hôm, sau một trận chiến, tôi đang vui vẻ tự đắc vì thần lực của mình, bỗng nghe một giọng vang lên chế giễu. Tôi ngảnh lại, thấy một cụ già chống gậy trúc đang đứng nhìn bọn tôi. Cơn giận tôi phút chốc đã dịu xuống vì vẻ mặt quắc thước uy nghi của ông cụ. Tôi kính cẩn thưa:

- Thưa cụ, tại sao cụ cười chúng cháu?

Ông cụ đưa tay vuốt chòm râu bạc, môi vẫn nở nụ cười:

- Lão cười một mình cháu thôi đấy chứ.

- Sao cụ lại cười cháu?

- Lão cười vẻ tự đắc của cháu. Dường như cháu cho mình là vô địch trên đời, cháu có một sức mạnh không ai sánh được. Phải vậy không cháu?

Tôi vẫn cố giữ lễ phép:

- Thưa cụ, vậy cụ có biết một đứa trẻ nào hơn cháu không?

Ông cụ lại cất tiếng cười ha hả:

- Thật ra, lão chưa biết có đứa trẻ nào hiện nay có sức mạnh bằng cháu. Nhưng với sức mạnh đó, cháu sẽ làm gì?

- Hiện nay, cháu giúp đỡ cha mẹ trong việc chăn trâu, đốn củi. Sau này, cháu sẽ làm Nguyên soái cầm quân đánh giặc, trăm trận trăm thắng.

- Hoài bão của cháu to tát thật đấy, nhưng theo lão nghĩ, cháu chỉ có thể làm Nguyên soái của bọn chăn trâu mà thôi.

Tôi đã hơi bất mãn, không còn giữ lễ độ lúc ban đầu:

- Cụ khinh cháu quá! Sao cụ cho là cháu không thể cầm quân đánh giặc?

Ông cụ ôn tồn nói:

- Muốn làm Nguyên soái, người ta cần phải có Trí và Dũng. Hai điều kiện ấy, cháu chưa có được điều kiện nào cả. Cái sức mạnh của cháu chưa phải là Dũng đâu. Sức mạnh của cháu chưa chắc đã thắng nổi một ông già có Trí.

- Cụ đã nói quá đáng chăng?

- Không quá đáng đâu, cháu. Đây lão vui lòng làm người để cháu thí nghiệm. Lão đứng đây, đố cháu làm thế nào thắng được lão bằng sức mạnh.

Ông lão đứng cách tôi chỉ độ năm thước, tay mân mê cây gậy trúc. Tôi ngần ngại nói:

- Cháu không dám đâu. Cụ đã già rồi, nếu rủi cháu lỡ mạnh tay...

Ông cụ thản nhiên:

- Cháu cứ thử rồi biết. Cháu cứ đem hết sức mình ra, đừng e ngại gì cả. Lão nói thật đấy.

- Vậy cháu xin phép cụ.

Dứt lời, tôi nhảy tới đưa tay chụp cụ già. Cụ chỉ nghiêng mình tránh và cất tiếng cười ngạo nghễ. Lúc đầu tôi không dám dùng hết sức mình, nhưng tiếng cười của cụ làm cho tôi đâm cáu. Tôi xoay mình lại, đấm mạnh vào vai cụ. Tiếng cười ròn rã vẫn như xoáy vào tai tôi. Tôi lại đấm hụt vào không khí. Tôi tức mình đấm đá lung tung. Ông cụ chỉ nhẹ nhàng tránh né, bóng cụ thấp thoáng quanh người, tôi không thể nào chạm vào người cụ được. Đến khi đã mệt đừ, tôi mới dừng tay, kinh ngạc:

- Cháu chịu thua cụ rồi.

Ông cụ không cười nữa, giọng cụ thật dịu dàng:

- Bây giờ cháu có nhận rằng lão nói đúng hay không?

- Cụ nhận xét rất đúng.

- Vậy muốn làm Nguyên soái, cháu phải khổ công rèn luyện nhiều hơn nữa. Dầu là thiên tài, cũng phải cần học tập. Cháu nên nhớ lời khuyên này của Gia Cát lượng đời Tam Quốc: “Tài cần phải học; học cần phải tĩnh. Không học, không rộng được tài. Không tĩnh, không thành được học”.

Tôi phục thiện, cúi đầu:

- Cháu xin nghe theo lời dạy của cụ.

Ông lão vui vẻ nói:

- Lão có mấy trò này. Cháu thích trò nào, lão sẽ vui lòng dạy cho.

Cụ già lấy trong mình ra một ống sáo. Cụ đặt lên môi, thổi một khúc nhạc lạ lùng. Bọn trẻ mục đồng như bị chi phối bởi âm thanh huyền bí, đồng loạt nhảy múa tung tăng, múa đến mệt đừ mà không sao ngừng lại được. Đến khi cụ già ngừng thổi, bọn trẻ mới ngừng múa, mặt đứa nào đứa đó nhăn nhó như khỉ đột.

Cụ già hỏi tôi:

- Cháu thích học pháp thuật đó không?

Tôi lắc đầu thưa:

- Theo cháu, đó là tà thuật, không ích lợi gì. Cháu không thích học.

Cụ già tủm tỉm cười:

- Tốt lắm! Còn trò này...

Dứt lời, cụ già tế chiếc gậy trúc lên không. Chiếc gậy biến thành một con rồng vàng giương nanh múa vuốt, uốn mình bay lượn trên không. Cụ già bỗng đưa tay lên, rồng vàng biến mất, chiếc gậy trúc lại rơi vào tay cụ. Bọn trẻ vỗ tay hoan nghênh vang dậy.

Cụ già tươi cười hỏi tôi:

- Cháu có thích học pháp thuật đó không?

Tôi đáp không nghĩ ngợi:

- Cây gậy trúc của cụ giống như gậy Trầm Hương của Tôn Tẩn. Pháp thuật đó rất hay, song cháu không thích học vì nó không ích lợi gì.

Cụ già gật đầu nói:

- Lão chỉ còn trò cuối cùng. Đây không phải là tà thuật mà phải khổ công rèn luyện.

Cụ già lấy trong túi ra những ngọn đoản đao mỏng như lá liễu. Cụ nhìn lên không trung, thấy ba chiếc nhạn đang tung cánh bay ngang. Cụ phóng một ngọn đao đi vừa nói:

- Trúng cánh phải con giữa.

Quả nhiên, con nhạn chính giữa rơi xuống, bọn trẻ chạy đến lượm lên, mũi đoản đao ghim ngay vào cánh phải.

Bọn trẻ lại hoan nghênh nhiệt liệt. Tôi vội vàng nói:

- Xin cụ dạy cho cháu môn này.

Cụ già hiền lành nhìn tôi, tỏ vẻ vừa ý:

- Lão biết tại sao cháu chọn môn này. Chính thì không thích tà, cháu ghét tà thuật là phải. Các môn tà thuật đều không có ích lợi thiết thực cho đời sống con người. Môn phóng đao sẽ giúp ích cho cháu nhiều sau này. Lão vui lòng chỉ dạy cho cháu.

Tôi vội quỳ xuống bái tạ. Cụ già mỉm cười tiếp:

- Tất nhiên môn phóng đao không giúp cháu đoạt được ấn Nguyên Nhung, lão tài sơ trí thiển không thể giúp cháu đạt thành mộng lớn. Cháu hãy tìm người tài ba hơn mà học hỏi.

Từ đó, những lúc nhàn rỗi, cụ già thường đến dạy tôi môn phóng đao. Hai năm sau, tài phóng đao của tôi có thể so sánh với những danh tướng bắn tên giỏi nhất trong sử sách. Khi tôi thành tài rồi, cụ già đi đâu mất, không thấy tăm dạng đâu nữa.

Năm sau nữa thì chiến tranh bùng nổ. Hàng ngàn thanh niên theo tiếng gọi tùng quân cứu nước. Tôi còn quá nhỏ, không thể lên đường cứu nước như người. Trước khi lên đường tùng chinh, cha tôi ân cần dặn tôi ráng phụng dưỡng và bảo vệ mẹ già, rồi người ra đi không hẹn ngày trở lại.

Một hôm, giặc tràn vào làng, vơ vét của cải và hãm hiếp phụ nữ. Tôi một mình đánh tan một toán kỵ mã vài chục đứa, chúng phải bỏ chạy nhưng cướp theo người từ mẫu của tôi. Đứa trẻ cô thế như tôi làm sao bảo vệ được mẹ hiền trước bầy lang sói? Tôi gào thét, uất ức, muốn kêu lên cho thấu trời xanh. Nhưng tiếng gào thét của tôi không cứu được mẹ hiền. Tôi đành bơ vơ lên đường tìm mẹ. Nhờ còn bé, không bị nghi kỵ, tôi len lỏi vào nhiều trại giặc, nhưng mẹ tôi vẫn biệt tăm hơi. Dầu không tìm được mẹ, tôi cũng lén đốt phá kho lương của giặc hoặc ném đao sát địch để trả thù. Trại nào có gót chân tôi đặt đến là có lửa dậy, đao bay. Thét rồi giặc nghi ngờ cả trẻ con, không dám cho đứa nào đến gần trại.

Tôi gia nhập đoàn mãi võ để xê dịch đây đó, mong ngày kia gặp lại mẹ cha. Nhưng đến nay, tôi chưa được tin tức gì của hai người thân yêu ấy. Có lẽ họ đã về lòng đất lạnh, chưa kịp thấy đứa con mình mang được ấn Nguyên Nhung...

Nghe dứt câu chuyện, Phi Yến nhoẻn cười, nói:

- Quá khứ của anh thật xứng đáng là đời một tráng sĩ. Dầu sao, anh vẫn còn nhiều hy vọng...

Tử Lệ cần thấy an ủi bạn:

- Anh đừng lo. Trời đã sanh thiên tài, ắt phải có chỗ dùng.

Tây Nhạn nhìn hai bạn, mỉm cười:

- Anh Tử Lệ nói chí lý. Trời sanh ba chúng ta, ắt phải có chỗ dùng. Chỗ dùng đó là đi tha phương cầu thực.

Cả ba im lặng. Ngọn lửa sắp tàn vẫn lung linh trên ba vẻ mặt ưu tư. Ngọn lửa sắp tàn như đốt tàn bao mộng đẹp...