Chương 2 QUẢNG TRƯỜNG TÂY BAN NHA, ROME
NHÀ PHỤC CHẾ lẳng lặng mặc đồ trong bóng tối, cố tránh đánh thức người phụ nữ. Với dáng nằm này, cùng mái tóc màu hạt dẻ xõa tung và khuôn miệng rộng, nàng gợi cho ông liên tưởng đến bức họa Khỏa thân Đỏ của Modigliani, ông đặt một khẩu súng lục Beretta đã nạp đạn lên giường, bên cạnh nàng. Sau đó, ông kéo mạnh tấm chăn bông, để lộ bầu ngực tròn căng của nàng, thế là kiệt tác đã hoàn tất.
Xa xa vẳng lại tiếng chuông nhà thờ. Một bàn tay ấm áp hằn những vết cấn khi nằm ngủ vươn ra từ dưới lớp chăn, khẽ kéo nhà phục chế xuống. Nàng hôn ông, với đôi mắt nhắm nghiền như mọi khi. Tóc nàng thơm mùi vani. Trên môi nàng còn vương vít vị rượu đã uống tối qua tại một nhà hàng trên đồi Aventine.
Nàng buông ông ra, khẽ thì thầm gì đó rồi mơ màng chìm vào giấc ngủ. Nhà phục chế đắp lại chăn cho nàng. Sau đó ông nhét khẩu Beretta thứ hai vào cạp quần jean xanh đã bạc màu và lẻn ra khỏi căn hộ. Dưới lầu, vỉa hè của Phố Gregoriana lấp loáng trong ánh sáng nhập nhoạng như một bức tranh mới được đánh véc-ni. Nhà phục chế dừng trước ngưỡng cửa của tòa nhà một lúc, vờ như đang xem điện thoại di động, chỉ trong tích tắc ông đã phát hiện có một người đàn ông đang quan sát mình từ sau tay lái của chiếc sedan Lancia đang đỗ bên đường. Ông vẫy tay chào hắn thân thiện, một hành động xúc phạm nghề nghiệp ra mặt, và rảo bước về phía Nhà thờ Trinità dei Monti.
Ở trên đỉnh Bậc thang Tây Ban Nha, một bà lão gattara * đang rải mấy mẩu thức ăn vụn xuống một biển mèo thành Rome gầy còm, xoắn xít dưới chân bà. Quấn một chiếc áo khoác và khăn trùm đầu tồi tàn, bà dè dặt nhìn nhà phục chế khi ông bước xuống quảng trường. Ông có chiều cao trung bình - có lẽ tầm một mét bảy, không hơn - và vóc dáng mảnh dẻ của một tay đua xe đạp. Khuôn mặt dài, cằm hẹp, gò má rộng và sống mũi thanh trông như thể được chạm khắc từ gỗ. Mắt ông có màu xanh lục lạ thường; mái tóc sẫm màu, lưa thưa vài sợi bạc ở hai bên thái dương. Đó là khuôn mặt hòa trộn nét đặc trưng của nhiều dòng máu, và nhà phục chế có biệt tài về ngôn ngữ để tận dụng tốt ưu thế này. Trong suốt quá trình hoạt động lâu dài, ông đã làm việc tại Ý và những nơi khác dưới nhiều mật danh và quốc tịch khác nhau. Nghe danh những kỳ tích của ông trong quá khứ, các cơ quan an ninh Ý đã cố ngăn ông đặt chân lên lãnh thổ, nhưng phải nhượng bộ sau khi Tòa Thánh kín đáo can thiệp. Vì những lý do không bao giờ được công bố, nhà phục chế đã có mặt tại Vatican nhiều năm trước, khi nó bị những kẻ khủng bố Hồi giáo tấn công. Hơn bảy trăm người đã thiệt mạng ngày hôm đó, trong đó có bốn hồng y và tám giám mục trong Giáo triều. Đức Giáo hoàng cũng bị thương nhẹ. Ngài rất có thể đã chịu chung số phận với những kẻ xấu số nếu không nhờ nhà phục chế che chắn ngài khỏi một tên lửa vác vai, và sau đó hộ tống ngài đến nơi an toàn.
Gattara (BT): người phụ nữ yêu mèo, thường chăm sóc và cho những chú mèo hoang cái ăn.
Người Ý đã đặt ra hai điều kiện để nhà phục chế được quay về - một là ông phải sống dưới tên thật của mình tại đây, hai là ông phải chịu sự giám sát không thường xuyên. Với điều kiện đầu tiên, ông chấp thuận ngay với một thoáng nhẹ nhõm, vì sau thời gian dài hoạt động bí mật, ông rất nóng lòng muốn rũ bỏ các bí danh và sống một cuộc sống có thể coi là bình thường. Thế nhưng điều kiện thứ hai lại phiền toái hơn. Nhiệm vụ theo dõi ông lúc nào cũng được giao cho mấy chú tay mơ mới vào nghề. Lúc đầu nhà phục chế chỉ cảm thấy hơi bị xúc phạm về mặt nghề nghiệp, cho đến khi ông nhận ra mình đang bị dùng làm đối tượng mục tiêu của một lớp nghiệp vụ hằng ngày về kỹ thuật giám sát đường phố. Ông chiều mấy cậu học trò bằng cách thỉnh thoảng cắt đuôi họ nhưng vẫn luôn chừa lại một vài mánh tinh vi hơn cho riêng mình, phòng trường hợp ông cần tẩu thoát khỏi mạng lưới theo dõi của Ý.
Và do đó, khi len lỏi qua các con phố yên tĩnh của Rome, ông bị theo đuôi bởi không ít hơn ba tập sự của cơ quan an ninh Ý với trình độ kỹ năng khác nhau. Lộ trình di chuyển của ông không có gì bất ngờ, chẳng mấy thử thách đối với họ. Nó dẫn ông về phía tây, qua khu trung tâm cổ kính của thành phố và như thường lệ, kết thúc tại Cổng Thánh Anne, lối vào công vụ của Vatican. Bởi đây cũng là đường biên giới quốc tế nên nhóm giám sát không có lựa chọn nào khác ngoài việc ủy thác nhà phục chế cho Đội Cận vệ Thụy Sĩ, và họ nhanh chóng cho ông qua cửa sau khi nhìn lướt qua giấy tờ tùy thân.
Nhà phục chế ngả chiếc mũ dẹt của mình để tạm biệt mấy tay giám sát, sau đó đi dọc Phố Belvedere, qua Nhà thờ Thánh Anne sơn màu vàng bơ, các cơ sở in ấn của Vatican, và trụ sở chính của Ngân hàng Vatican. Tại Bưu điện Trung tâm, ông rẽ phải và băng qua mấy khoảng sân cho đến khi gặp một cánh cửa không biển không số. Phía sau là một sảnh nhỏ, nơi một cậu hiến binh Vatican đang ngồi trực trong buồng kính.
“Viên sĩ quan thường trực đâu rồi?” nhà phục chế hỏi bằng tiếng Ý lưu loát.
“Đêm qua có trận thi đấu giữa Lazio và Milan,” viên hiến binh đáp với một cái nhún vai thờ ơ.
Cậu quẹt thẻ căn cước của nhà phục chế qua máy từ và ra hiệu cho ông bước qua máy dò kim loại. Khi chiếc máy phát ra một tiếng rít chói tai, nhà phục chế dừng bước và mệt mỏi gật đầu về phía máy tính của viên hiến binh. Trên màn hình, bên cạnh ảnh chân dung nghiêm nghị của nhà phục chế, là một thông báo đặc biệt của Chánh Văn phòng Bộ An ninh Vatican. Viên hiến binh đọc đi đọc lại hai lần để chắc chắn rằng cậu hiểu đúng thông báo, sau đó ngước lên, nhìn thẳng vào đôi mắt xanh biếc lạ thường của nhà phục chế. Có điều gì đó trong vẻ điềm tĩnh của ông - và nụ cười thấp thoáng sự tinh quái -khiến viên hiến binh bỗng dưng thấy rùng mình. Cậu gật đầu về phía những cánh cửa tiếp theo và chăm chú dõi theo nhà phục chế thong dong đi qua chúng mà không có tiếng báo động nào vang lên.
Vậy ra, viên hiến binh thầm nghĩ, tin đốn là sự thật. Gabriel Allon, nhà phục chế trứ danh chuyên trị tranh của những Danh họa Bậc thầy, tay gián điệp và sát thủ đã nghỉ hưu của Israel, cứu tinh của Đức Giáo hoàng, đã trở về Vatican. Bằng một cái gõ phím, nhân viên trực ban xóa văn bản trên màn hình. Sau đó, cậu làm dấu thánh và lần đầu tiên trong nhiều năm, cậu niệm kinh Ăn năn tội. Thật là một hành động kỳ quặc, cậu thầm nghĩ, bởi vì cậu chẳng phạm lỗi gì ngoài tội tò mò. Nhưng chắc chắn lỗi lầm này sẽ được tha thứ. Xét đến cùng thì không phải ngày nào một viên cảnh sát quèn ở Vatican cũng có cơ hội nhìn tận mặt một huyền thoại bằng xương bằng thịt.
Mấy bóng đèn huỳnh quang, được chỉnh mờ theo chế độ ban đêm, tỏa ánh sáng dìu dịu khi Gabriel bước vào phòng phục chế chính của Phòng Trưng bày Tranh Vatican. Như thường lệ, ông là người đến sớm nhất, ông đóng cửa và chờ nghe tiếng bật chốt đáng yên lòng của ổ khóa tự động, rồi bước dọc theo hàng tủ lưu trữ về phía bức rèm đen phù suốt từ trần đến sàn ở cuối căn phòng. Một tấm biển nhỏ cảnh báo sau bức rèm là khu vực cấm ra vào. Sau khi bước qua vạch cấm, Gabriel ngay lập tức đi đến kệ đẩy của mình và cẩn thận kiểm tra vị trí từng món dụng cụ trong đó. Từng hộp màu và dung môi vẫn ở nguyên chỗ cũ. Cả mấy cây cọ lông chồn hiệu Winsor & Newton Series 7, trong đó có một cây đánh dấu chấm màu xanh da trời gần mũi cọ mà ông luôn luôn đặt xéo đúng ba mươi độ so với những cây cọ khác. Nó chứng tỏ nhân viên vệ sinh một lần nữa đã cưỡng lại được sự cám dỗ và không xâm phạm chỗ làm việc của ông. Ông không biết liệu các đồng nghiệp của mình có kiềm chế được như vậy không. Trên thực tế, theo nguồn tin đáng tin cậy, lãnh địa nhỏ bé phủ rèm che của ông đã thế chỗ chiếc máy pha cà phê trong phòng nghỉ, trở thành địa điểm tụ tập ưa thích nhất của nhân viên bảo tàng.
Ông cởi áo khoác da và bật sáng cặp đèn halogen đứng. Bức tranh Hạ thi thể chúa, được nhiều người đánh giá là kiệt tác xuất sắc nhất của Caravaggio, bừng sáng dưới ánh đèn trắng lóa. Trong vài phút, Gabriel đứng bất động trước bức tranh cao vượt người ông, tay chống cằm, đầu nghiêng sang một bên, ánh mắt ghim chặt vào hình ảnh đầy ám ảnh. Nicodemus, người rắn rỏi và đi chân trần, đang từ trong tranh nhìn lại Gabriel chằm chặp khi cẩn thận hạ thi thể nhợt nhạt, không còn sự sống của Chúa xuống phiến đá tang lễ, chuẩn bị để an táng. Bên cạnh Nicodemus là Thánh John Tẩy Giả, đang chạm vào người thầy yêu quý của mình lần cuối cùng trong tuyệt vọng và vô tình làm mở miệng vết thương bên sườn của Đấng Cứu Rỗi. Âm thầm theo dõi mọi người là Đức Mẹ và bà Mary Magdalene, cả hai đang cúi đầu, trong khi bà Mary vợ của Cleophas đưa tay lên trời than khóc. Đây là một tác phẩm dung hợp cả nỗi đau buồn sâu sắc và sự dịu dàng, càng nổi bật hơn bởi cách sử dụng ánh sáng tài tình của Caravaggio. Ngay cả Gabriel, người đã vất vả phục chế bức họa trong nhiều tuần liền, vẫn luôn cảm thấy như thể ông đang can thiệp vào một thời khắc thương tâm của niềm đau riêng.
Bức tranh đã sẫm màu theo thời gian, đặc biệt lối vào ngôi mộ ở lề trái của tranh đã phai nét. Có một số nhà nghệ thuật Ý - bao gồm cả Giacomo Benedetti lừng danh, người theo trường phái Caravaggio đến từ viện Phục chế Trung ương - từng tự hỏi liệu có nên phục hồi chi tiết ngôi mộ trong tranh cho rõ nét hay không. Benedetti buộc phải chia sẻ quan điểm này với một phóng viên của tờ La Repubblica bởi nhà phục chế được lựa chọn cho dự án này, vì những lý do không giải thích được, đã không tham khảo ý kiến tư vấn của ông trước khi bắt tay vào việc. Hơn nữa, Benedetti cũng thấy thật đáng thất vọng khi bảo tàng từ chối không tiết lộ thân phận của nhà phục chế. Trong nhiều ngày liền, khắp các mặt báo đầy rẫy những lời kêu gọi tương tự đòi Vatican vén bức màn bí mật. Điều khiến họ cáu tiết là làm thế nào mà một kho báu quốc gia như bức Hạ thi thể chúa lại có thể giao vào tay một kẻ vô danh? Trận ồn ào chẳng có gì hay ho này cuối cùng cũng kết thúc khi trưởng ban phục chế Vatican, Antonio Calvesi đứng ra công nhận rằng nhân vật bí ẩn đó có thành tích không chê vào đâu được. Thành tích nổi bật của vị này là công tác phục chế tài tình hai bức danh họa cho Tòa Thánh - bức Thánh Peter bị đóng đinh trên thập giá của Reni và bức Thánh Erasmus tuẫn đạo của Poussin - được thực hiện tại một biệt thự ở vùng Umbria xa xôi. Calvesi lờ tịt chuyện cả hai dự án đều bị trì hoãn do nhà phục chế bận thực hiện những nhiệm vụ bí mật cho cơ quan tình báo của Nhà nước Israel.
Gabriel đã hy vọng cũng có thể phục chế tranh của Caravaggio ở một nơi hẻo lánh, nhưng lệnh của Calvesi cấm đem bức họa rời khỏi Vatican đã khiến ông không còn lựa chọn nào khác và buộc phải làm việc trong xưởng phục chế, vây quanh là các nhân viên thường trực ở đó. Ông là đối tượng thu hút sự tò mò mãnh liệt, nhưng mà cũng phải thôi. Trong nhiều năm, họ đã tin rằng ông là một nhà phục chế tài năng xuất chúng nhưng tâm tính có phần thất thường tên Mario Delvecchio, để rồi sau đó mới vỡ lẽ về thân phận rất khác của ông. Thế mà cho dù cảm thấy bị phản bội, họ chẳng tỏ thái độ gì. Thật vậy, phần lớn thời gian họ đối đãi với ông rất hòa nhã, một thái độ tự nhiên vốn có của những người biết nâng niu chăm chút đồ hỏng vật hư. Họ yên lặng mỗi khi có mặt ông, để ý rằng ông cần sự riêng tư, và cẩn thận không nhìn quá lâu vào mắt ông, cứ như thể họ sợ những gì mình có thể tìm thấy trong đó. Đôi lần trò chuyện hiếm hoi với ông, họ chủ yếu chuyên phiếm xã giao và nhận xét loanh quanh vấn đề nghệ thuật, và khi câu chuyện trong văn phòng chuyển sang đề tài chính trị vùng Trung Đông, họ tôn trọng không thốt ra lời chỉ trích nào về nơi chôn nhau cắt rốn của ông. Chỉ có Enrico Bacci, người đã vận động hành lang mạnh mẽ để được nhận dự án phục chế tranh Caravaggio, phản đối sự hiện diện của Gabriel với lý do đạo đức. Ông gọi bức màn đen là “Hàng rào phân cách” và dán một áp phích “Giải phóng Palestine” trên bức tường văn phòng nhỏ bé của mình.
Gabriel đổ một chút keo PVA Mowilith 20 lên bảng màu, thêm một vài hạt màu khô và hòa loãng hỗn hợp với dung môi Arcosolve cho đến khi nó đạt đến sắc độ và độ đặc mong muốn. Sau đó, ông kéo kính phóng đại lưỡi trai trên trán xuống và chăm chú săm soi cánh tay phải của Chúa. Nó buông thõng như trong bức tượng Đức Mẹ Sầu Bi của Michelangelo, các ngón tay hướng về góc phiến đá tang lễ đầy ngụ ý. Mấy ngày qua, Gabriel đã cố tu chỉnh hàng loạt vệt trầy xước dọc theo các đốt ngón tay. Ông không phải là nghệ sĩ đầu tiên vật lộn với tác phẩm này; bản thân Caravaggio đã vẽ năm phiên bản khác trước khi hoàn thành bức tranh vào năm 1604. Không như nhiệm vụ trước đó của ông - bức họa cái chết của Đức Mẹ đồng trinh gây quá nhiều tranh cãi đến mức cuối cùng nó đã được gỡ bỏ khỏi Nhà thờ Đức Mẹ cầu Thang - bức Hạ thi thể Chúa ngay lập tức được ca ngợi là một kiệt tác, và danh tiếng của nó nhanh chóng lan rộng khắp châu Âu. Năm 1797, bức tranh đã lọt vào mắt xanh của Napoléon Bonaparte, một trong những kẻ cướp tranh và đồ cổ vĩ đại nhất lịch sử, và ông đã cho vận chuyển nó bằng xe ngựa qua dãy Alps để đến Paris. Bức tranh ở đó mãi đến năm 1817 mới được trao trả lại cho giáo hoàng trông nom và được treo tại Vatican.
Trong vài giờ liền, chỉ có mỗi Gabriel trong phòng vẽ. Đến mười giờ sáng, ông nghe thấy tiếng lách cách của ổ khóa tự động, theo sau là tiếng bước đi nặng nề của Enrico Bacci. Tiếp đến là Donatella Ricci, một chuyên gia về thời kỳ Tiền Phục hưng, người luôn dịu dàng thì thầm với những bức tranh do cô chăm sóc. Sau đó là Tommaso Antonelli, một trong những ngôi sao góp mặt trong chiến dịch phục chế Nhà nguyện Sistine, người luôn rón ra rón rén đi quanh xưởng phục chế trong đôi giày đế kếp với sự lén lút của một kẻ trộm đêm.
Cuối cùng, vào lúc mười giờ rưỡi, Gabriel nghe tiếng gõ không lẫn vào đâu được từ đôi giày may thủ công của Antonio Calvesi trên sàn vải sơn. Vài giây sau, Calvesi đi xộc qua bức màn đen giống như một đấu sĩ bò tót. Với mớ tóc mái rối bời cùng chiếc cà vạt lúc nào cũng xộc xệch, ông trông như người sắp trễ một cuộc hẹn mà bản thân chẳng mấy mặn mà. Ông ngồi lên một chiếc ghế cao, đăm chiêu gặm gọng kính trong khi săm soi tác phẩm của Gabriel.
“Không tệ chút nào,” Calvesi nói với sự ngưỡng mộ thật lòng. “Có phải anh tự làm không đó, hay chính ngài Caravaggio đã ghé qua để phục chế bức tranh vậy?”
“Tôi có nhờ ông ấy giúp đỡ,” Gabriel trả lời, “nhưng ông ấy không rảnh.”
“Thật ư? Ông ấy ở đâu?”
“Bị tống trở lại nhà tù ở Tor di Nona. Nghe như là ông ấy đã lang thang khắp vùng Campo Marzio với một thanh kiếm.”
“Lại nữa hả?” Calvesi nghiêng người đến gần bức tranh hơn. “Nếu tôi là anh, tôi sẽ nghĩ đến chuyện sửa những vết rạn dọc theo ngón trỏ.”
Gabriel nâng kính lưỡi trai lên và đưa cho Calvesi bảng màu. Ông người Ý này đáp lại bằng một nụ cười cầu hòa. Ông cũng là một nhà phục chế có thực lực - sự thật là khi còn trẻ, hai người là đối thủ của nhau - nhưng cũng đã nhiều năm ông không động đến cọ vẽ. Ngày nay, Calvesi dành phần lớn thời gian của mình chạy theo đồng tiền. Với mớ tài sản trần thế kếch sù là thế, vậy mà Vatican phải dựa dẫm vào lòng tốt của những người xa lạ để chăm sóc bộ sưu tập nghệ thuật và đồ cổ khổng lồ này. Thù lao ít ỏi của Gabriel thật chẳng thấm vào đâu so với số tiền ông kiếm được từ một vụ phục chế tư nhân. Tuy nhiên, đó là cái giá quá nhỏ so với cơ hội ngàn năm có một khi được phục chế một kiệt tác như bức Hạ thi thể chúa.
“Anh nghĩ có thể hoàn thành công việc sớm hơn không?” Calvesi hỏi. “Tôi muốn bức tranh được trở lại trưng bày trong Tuần Thánh.”
“Là ngày nào trong năm nay?”
“Tôi sẽ giả vờ như chưa nghe thấy câu hỏi vừa rồi.” Calvesi lơ đãng nghịch mớ dụng cụ trên kệ của Gabriel.
“Anh đang nghĩ gì thế, Antonio?”
“Một trong những nhà bảo trợ quan trọng nhất của chúng tôi sẽ ghé thăm bảo tàng vào ngày mai. Người Mỹ. Giàu sụ. Kiểu đại gia có thể giúp duy trì cho nơi này hoạt động bình thường.”
“Và?”
“Ông ta muốn xem tranh của Caravaggio. Thật ra ông ta đang muốn biết liệu có ai đó sẵn sàng giảng giải ngắn gọn cho ông nghe về công tác phục chế bức tranh không.”
“Anh lại hít phải quá nhiều acetone à, Antonio?”
“Ít ra anh sẽ cho ông ta xem nó chứ?”
“Không.”
“Sao vậy?”
Gabriel im lặng nhìn đăm đăm vào bức tranh trong một lúc. “Bởi vì như vậy sẽ không công bằng với ông ấy,” cuối cùng ông nói.
“Nhà bảo trợ hử?”
“Caravaggio. Phục chế phải là bí mật nhỏ của chúng ta, Antonio. Công việc của chúng ta là đến và đi trong âm thầm lặng lẽ. Và nó phải được thực hiện một cách kín đáo.”
“Thế nếu tôi được sự cho phép của Caravaggio thì sao?”
“Chớ nên hỏi khi ông ấy có một thanh gươm trong tay.” Gabriel hạ kính xuống và tiếp tục công việc của mình.
“Anh biết không, Gabriel, anh cũng giống như ông ấy vậy. Ngoan cố, kiêu ngạo và quá tài năng, vậy không có lợi cho anh đâu.”
“Tôi còn giúp được gì cho anh không, Antonio?” vừa hỏi Gabriel vừa mất kiên nhẫn gõ cọ vào bảng màu.
“Không phải tôi,” Calvesi đáp, “nhưng có người đang chờ anh ở nhà nguyện.”
“Nhà nguyện nào?”
“Cái quan trọng nhất.”
Gabriel lau cọ của mình và cẩn thận đặt nó lên kệ. Calvesi mỉm cười.
“Anh lại có một điểm nữa giống với ông bạn Caravaggio rồi.”
“Điểm gì?”
“Cảnh giác quá mức đến hoang tưởng.”
“Caravaggio có lý do chính đáng để hoang tưởng. Tôi cũng vậy.”