← Quay lại trang sách

Chương 3 NHÀ NGUYỆN SISTINE

MẢNH ĐẤT RỘNG gần 550 mét vuông của Nhà nguyện Sistine có lẽ là địa điểm được nhiều người viếng thăm nhất tại Rome. Mỗi ngày, hàng ngàn du khách đổ qua cánh cổng trông khá tầm thường của nó để nghển cổ chiêm ngưỡng những bức bích họa rực rỡ tô điểm trên tường và trần cao, dưới ánh mắt giám sát của các hiến binh trong bộ đồng phục màu lam, những kẻ dường như không có chuyện gì khác để làm ngoài việc liên tục nhắc nhở mọi người silenzio (im lặng). Thế nhưng, khi đứng một mình trong đây, ta mới có thể cảm nhận được không khí giáo đường đúng như ý nguyện của Đức Giáo hoàng Sixtus IV, người mà tên đã được lấy đặt cho nhà nguyện. Trong ánh đèn mờ ảo và khi không còn đám đông vây quanh, ta gần như nghe thấy tiếng tranh cãi lao xao của các buổi mật nghị hồng y đã qua, hay nhìn thấy Michelangelo trên giàn giáo, đang đặt những nét chấm phá cuối cùng cho tác phẩm Chúa tạo ra Adam.

Trên bức tường phía tây Nhà nguyện Sistine là một kiệt tác khác, cũng của Michelangelo, bức Sự phán xét cuối cùng. Bức tranh được vẽ ba mươi năm sau khi mái vòm hoàn thành. Nó miêu tả ngày tận thế và sự trở lại lần hai của Chúa Jesus, với cảnh mọi linh hồn của nhân loại bay lên nhận phần thưởng hoặc hình phạt vĩnh viễn của họ trong một vòng xoáy sắc màu và nỗi thống khổ. Bức bích họa là cái đầu tiên các vị hồng y nhìn thấy khi họ bước vào nhà nguyện để bầu chọn giáo hoàng mới. Và buổi sáng hôm đó, nó dường như là mối bận tâm chính của riêng một linh mục. Cao ráo, mảnh khảnh, và tuấn tú rạng ngời, ông khoác chiếc áo chùng màu đen với đai lưng và đường diềm áo màu hồng tím, được một thợ may của Giáo hội ở gần đền Pantheon may tay. Đôi mắt đen ngời sáng nét thông minh sắc sảo và không khoan nhượng, quai hàm bạnh cho thấy đây là một người đàn ông nguy hiểm, không nên đối đầu, và đó là sự thật. Đức ông Luigi Donati, viên thư ký riêng của Đức Giáo hoàng Paul VII, hầu như không có bạn bè trong Tòa Thánh, chỉ có những đồng minh thỉnh thoảng hợp tác và đối thủ không đội trời chung. Họ thường gọi ông là giáo sĩ Rasputin* , thế lực thực sự đằng sau ngôi Giáo hoàng, hay “Giáo hoàng Đen” - một cách gọi không mấy tốt đẹp ám chỉ quá khứ Dòng Tên của ông. Donati chẳng mảy may quan tâm. Tuy là một học trò tận tâm của Thánh Ignatius và Thánh Augustine, ông lại thường hành động theo lời khuyên của một nhà triết học thế tục người Ý tên Machiavelli, rằng làm một hoàng tử được kính sợ thì tốt hơn là được thương yêu.

Grigori Rasputin (BT): sinh năm 1869, một nhân vật lịch sử của Nga có cuộc đời đầy huyền bí. Hắn tự phong mình là tu sĩ có thần lực, được Nga hoàng trọng dụng vì tin rằng hắn chữa khỏi bệnh cho hoàng tử. Hắn đã thao túng cả hoàng gia Nga trước khi bị ám sát năm 1916.

Trong rất nhiều tội lỗi của Donati, ít nhất là dưới con mắt một số thành viên thích ngồi lê đôi mách thuộc nhóm chức sắc hỗ trợ Giáo hoàng tại Vatican, có cả mối quan hệ thân thiết khác thường giữa ông với tay điệp viên kiêm sát thủ tai tiếng Gabriel Allon. Sự cộng tác giữa họ bất chấp lịch sử và tín ngưỡng - Donati, người lính trung thành của Chúa; và Gabriel, con người của nghệ thuật mà số phận run rủi đã đẩy ông vào một cuộc sống bí mật đầy bạo lực. Tuy khác nhau một trời một vực, họ vẫn có nhiều điểm chung. Cả hai đều là những người đạo đức và có nguyên tắc, cả hai đều chung quan điểm là các vấn đề trọng đại tốt nhất nên giải quyết âm thầm. Trong tình bạn lâu bền của họ, Gabriel vừa là người bảo vệ Vatican vừa là kẻ vạch trần một số bí mật đen tối nhất của nó -còn “Giáo hoàng Đen” Donati luôn sẵn lòng sắm vai kẻ đồng lõa. Kết quả là, hai người đã góp phần âm thầm cải thiện mối quan hệ giằng xé giữa những người theo đạo Công giáo và mười hai triệu anh em xa của họ, cộng đồng người Do Thái.

Gabriel đứng im bên cạnh Donati và nhìn chằm chằm vào bức bích họa Sự phán xét cuối cùng. Khoảng giữa bức tranh, cạnh chân trái của Chúa là một trong hai chân dung tự họa mà Michelangelo đã lồng giấu trong tác phẩm của mình, ở đây, ông tự họa mặt mình trong lớp da đã bị lột trên tay của Thánh Bartholomew. Đây có lẽ là một lời phản biện không-quá-khó-nhận-ra chống lại những người phê bình tác phẩm của ông đương thời.

“Tôi đồ rằng anh từng đến nơi này trước đây,” Donati nói, giọng ông vang vọng trong nhà nguyện vắng vẻ.

“Chỉ một lần,” Gabriel đáp sau một lúc. “Đó là vào mùa thu năm 1972, trước kỳ phục chế nhà nguyện rất lâu. Lúc đó tôi đóng vai một sinh viên Đức du lịch khắp châu Âu. Tôi đến đây vào buổi chiều và ở lại cho đến khi bị bảo vệ đuổi đi. Ngày hôm sau...”

Giọng ông nhỏ dần. Ngày hôm sau, khi hình dung về tận thế của Michelangelo còn rõ mồn một trong tâm trí, Gabriel bước vào tiền sảnh của một tòa chung cư xám xịt tại Quảng trường Annibaliano. Đứng trước thang máy, một tay xách chai rượu trái vả còn tay kia cầm quyển Nghìn lẻ một đêm, là một người trí thức Palestine mảnh khảnh tên Wadal Zwaiter. Tay Palestine này là thành viên trong nhóm khủng bố Tháng chín Đen, thủ phạm của vụ thảm sát Thế vận hội Munich, và vì lẽ đó hắn đã bí mật bị kết án tử hình. Gabriel đã điềm tĩnh bảo Zwaiter nói to tên của hắn. Sau đó, ông bắn mười một phát đạn, mỗi phát đại diện cho một người Israel đã bị sát hại tại Munich. Trong những tháng sau đó, Gabriel đã ám sát năm thành viên khác trong nhóm Tháng chín Đen, hành động mở màn cho một sự nghiệp lừng lẫy kéo dài lâu hơn hẳn so với dự định của ông. Làm việc theo chỉ thị của trùm gián điệp huyền thoại Ari shamron, người dẫn dắt ông vào nghề, Gabriel đã thực hiện một số phi vụ hoang đường nhất trong lịch sử tình báo Israel. Bây giờ, trải qua bao sóng gió, ông quay trở về Rome, về nơi khởi nguồn của mọi chuyện. Và một trong rất ít người mà ông có thể tin tưởng trên thế giới này là vị linh mục Công giáo mang tên Luigi Donati.

Gabriel rời mắt khỏi bức Sự phán xét cuối cùng, xoay lại nhìn dọc theo chiều dài nhà nguyện hình chữ nhật, lướt qua những bức bích họa của Botticelli và Perugino, về phía lò than nhỏ dùng để đốt mấy lá phiếu bầu mỗi dịp chọn giáo hoàng mới. Sau đó ông lẩm nhẩm, “Ngôi nhà mà Vua Solomon kiến thiết cho Thiên chúa dài sáu mươi cubit, rộng hai mươi cubit, và cao ba mươi cubit.”*

Cubit (BT): đơn vị đo chiều dài thời cổ đại, một cubit bằng chiều dài từ cùi chỏ đến đầu ngón tay giữa, khoảng 45 - 50 centimet.

“Sách Các Vua,” Donati tiếp lời. “Chương sáu, câu hai.”

Gabriel ngẩng mặt nhìn lên trần. “Tổ tiên của cha xây dựng nhà nguyện này khá đơn giản, chiếu theo đúng kích thước của Đền thờ Solomon, ắt phải có nguyên do. Tại sao vậy? Phải chăng họ muốn vinh danh những người anh họ xa, người Do Thái? Hay họ đang tuyên bố rằng luật cũ đã được thay thế bằng luật mới, rằng ngôi đền cổ cùng những gì thiêng liêng nhất của nơi Cực Thánh đã được đưa tới Rome?”

“Có lẽ cả hai lý do, mỗi thứ một chút,” Donati điềm đạm đáp.

“Đức ông thật khéo nói.”

“Tôi từng được đào tạo thành linh mục Dòng Tên. Phát biểu mập mờ khó hiểu là sở trường của chúng tôi.”

Gabriel trầm ngâm nhìn đồng hồ đeo tay. “Cũng khá trưa rồi mà nơi này còn vắng vẻ.”

“Ừ,” Donati lơ đãng đáp.

“Thế du khách đâu hết rồi, cha Luigi?”

"Hiện tại chỉ có các bảo tàng mở cửa cho tham quan.”

“Sao lại vậy?”

“Chúng ta có một sự cố.”

“Ở đâu?”

Donati cau mày và nghiêng đầu về bên trái.

Chiếc cầu thang dẫn từ Nhà nguyện Sistine huy hoàng đến nhà thờ cơ Đốc giáo tráng lệ nhất lại xấu không thể tả. Nó là một cái ống màu xanh xám với những bức tường xi-măng trơn bóng, đưa Gabriel và Donati vào Vương cung thánh đường cách không xa Nhà nguyện Đức Mẹ Sầu Bi. Ở trung tâm chính điện có một tấm bạt màu vàng phủ lên hình dạng không thể nhầm lẫn của một thi thể. Cạnh đó có hai người đàn ông đang đứng. Gabriel quen biết cả hai. Một là Đại tá Alois Metzler, chỉ huy Đội Cận vệ Thụy Sĩ tháp tùng Giáo hoàng. Người kia là Lorenzo Vitale, cảnh sát trưởng Corpo della Gendarmeria, lực lượng cảnh sát gồm 130 người của Vatican. Trước đây, Vitale từng tham gia điều tra các vụ tham nhũng của quan chức chính phủ cho đội Cảnh sát Tài chính (Guardia di Finanza) quyền lực của Ý. Metzler trước thuộc Quân đội Thụy Sĩ, giờ đã nghỉ hưu. Người tiền nhiệm của ông, Karl Brunner, bị giết chết trong cuộc tấn công Vatican của bọn khủng bố al-Qaeda.

Hai người đồng loạt nhìn lên và dõi theo Gabriel đang băng qua chính điện, theo cạnh là người đàn ông quyền lực thứ hai trong Giáo hội Công giáo La Mã. Metzler tỏ vẻ không ưa ra mặt. Ông chìa tay về phía Gabriel với sự chuẩn xác lạnh lùng của một chiếc đồng hồ Thụy Sĩ, và gật đầu thay lời chào. Vóc người ông cũng tầm tầm Donati nhưng bù lại, Đấng Toàn Năng đã ban cho ông một khuôn mặt góc cạnh với chiếc cằm nhô ra như loài chó săn. Ông vận một bộ com-lê xám đậm, áo sơ mi trắng, và cà vạt màu bạc của nhân viên ngân hàng. Mái tóc đã thưa cắt ngắn húi cua; cặp kính nhỏ không vành làm nổi bật đôi mắt xanh phán xét. Metzler có bạn làm trong cơ quan an ninh Thụy Sĩ, nên ông ta thừa biết các chiến công trong quá khứ của Gabriel trên mảnh đất quê hương ông. Sự hiện diện của Metzler trong Vương cung thánh đường là điều kỳ lạ. Nói đúng ra, thi thể được tìm thấy tại Vatican thuộc thẩm quyền của hiến binh, chứ không phải của Đội Cận vệ Thụy Sĩ - trừ khi nó có liên quan đến an ninh giáo hoàng. Trong trường hợp đó, Metzler sẽ được tự do chõ mũi vào bất cứ chỗ nào ông muốn. Gần như bất cứ chỗ nào, Gabriel thầm nghĩ, bởi lẽ có những chỗ bí mật mà ngay các viên chỉ huy của Đội Cận vệ cũng bị cấm bén mảng đến.

Donati trao đổi ánh mắt với Vitale, sau đó chỉ thị cho viên cảnh sát trưởng nhấc tấm bạt lên. Rõ ràng thi thể đã rơi từ nơi rất cao. Những gì còn lại ở hiện trường là một mớ da rách bươm bọc các mảnh xương và nội tạng vỡ nát. Một điều đặc biệt là khuôn mặt xinh đẹp gần như còn nguyên vẹn. Thẻ nhân viên đeo trên cổ cũng thế. Tấm thẻ cho biết cô là một nhân viên của Bảo tàng Vatican. Gabriel thậm chí chẳng cần đọc cái tên in trên đó. Người phụ nữ đã chết là Claudia Andreatti, nữ giám tuyển phòng cổ vật.

Đã quá quen tiếp xúc với xác người mới chết, Gabriel thản nhiên cúi xuống cạnh thi thể. Ông xem xét cái xác như thể đó là một bức tranh cần được phục chế. Giống như tất cả các nữ nhân viên của Vatican, cô ăn vận chuyên nghiệp mà kín đáo: quần dài đen, áo len xám mỏng khoác ngoài chiếc áo cánh màu trắng. Áo khoác len dài mặc ngoài cùng đã bị mở cúc và trải rộng trên sàn như một tấm áo choàng, cánh tay phải ôm ngang bụng. Tay trái duỗi ra, tạo thành một đường thẳng từ vai, cổ tay hơi cong. Gabriel cẩn thận vén một vài sợi tóc dài ngang vai che khuất mặt cô, để lộ ra một đôi mắt mở to với ánh nhìn thoáng cảnh giác. Lần cuối cùng ông nhìn thấy đôi mắt này là khi chúng đang dò xét ông trên cầu thang của bảo tàng. Cuộc gặp gỡ diễn ra vài phút trước chín giờ tối hôm trước. Lúc ấy Gabriel đang chuẩn bị ra về sau một ngày dài làm việc trước bức tranh của Caravaggio; còn Claudia, với một tập hồ sơ ôm chặt trước ngực, đang trên đường quay trở lại văn phòng của mình. Mặc dù trông cô hơi lo lắng, nhưng tuyệt nhiên không hề giống một kẻ sắp tự tử trong Vương cung thánh đường. Thật ra, Gabriel thầm nghĩ, thái độ đó có chút tán tỉnh.

“Anh quen cô ấy à?” Vitale hỏi.

“Không, nhưng tôi biết cô ấy là ai.” Đó là bệnh nghề nghiệp. Ngay cả khi đã nghỉ hưu, Gabriel vẫn không ngừng thu nhặt các chi tiết và lắp ghép trong đầu hồ sơ cá nhân về những người xung quanh.

“Tôi thấy đêm qua hai người đều ở lại làm việc muộn.” Viên cảnh sát người Ý cố gắng giữ cho lời nhận xét nghe có vẻ tự nhiên, nhưng vẫn không thể che giấu được sự nghi ngờ ẩn trong đó. “Theo nhật ký ghi chép tại bàn an ninh, anh đã rời bảo tàng lúc 8:47. Nữ Tiến sĩ Andreatti rời đi chỉ sau một lúc vào 8:56.”

“Thời điểm đó thì tôi đã rời khỏi lãnh thổ Vatican qua Cổng Thánh Anne rồi.”

“Tôi biết.” Vitale trưng ra một nụ cười không chút hài hước. “Tôi cũng đã kiểm tra sổ sách bên đó.”

“Vậy thì tôi không còn là kẻ tình nghi trong cái chết của đồng nghiệp mình nữa chứ?” Gabriel hỏi mỉa.

“Hãy thứ lỗi cho tôi, Ngài Allon, nhưng cứ hễ anh xuất hiện tại Vatican thì lại có người chết.”

Gabriel rời mắt khỏi thi thể và nhìn lên Vitale. Mặc dù đã bước qua tuổi sáu mươi, viên cảnh sát trưởng vẫn còn những nét điển trai và làn da rám nắng như của một thần tượng điện ảnh Ý tuổi xế chiều, kiểu tài tử lái xe mui trần dọc Phố Veneto với cô đào trẻ trung bên cạnh. Tại đội Cảnh sát Tài chính, ông bị xem là kẻ cuồng tín cứng nhắc, một chiến binh đã tự gánh lấy sứ mệnh xóa bỏ nạn tham nhũng - vốn là thảm họa của nền chính trị và thương mại Ý qua nhiều thế hệ. Chuốc lấy thất bại, ông lánh về ẩn náu đằng sau các bức tường của Vatican, bảo vệ Đức Giáo hoàng và Giáo hội. Cũng như Gabriel, ông đã quen tiếp xúc với thi thể của người chết. Mặc dù vậy, có vẻ như ông không thể nhìn thẳng vào người phụ nữ đang nằm bất động trên sàn Vương cung thánh đường yêu quý của ông.

“Ai đã phát hiện ra cô ấy?” Gabriel hỏi.

Vitale hất đầu về phía toán thợ sampietrini đang đứng giữa lối dẫn xuống chính điện.

“Họ có chạm vào bất cứ thứ gì không?”

“Sao anh hỏi vậy?”

“Cô ấy đi chân trần.”

“Chúng tôi tìm thấy một chiếc giày của nạn nhân gần đình đồng. Chiếc còn lại được tìm thấy ở phía trước Bàn thờ Thánh Joseph, chúng tôi cho rằng chúng bị văng ra khi cô ấy rơi xuống. Hoặc giả...”

“Hoặc sao?”

“Hoặc giả chính cô ấy đã tháo giày và ném chúng từ trên ban công trước khi nhảy.”

“Sao cô ấy phải làm vậy?”

“Có lẽ cô ấy muốn xem mình có gan tự tử không,” Metzler đưa ra suy đoán. “Một khoảnh khắc dao động tâm lý”

Gabriel ngước nhìn lên trần. Ngay trên dòng chữ Latin khắc dưới chân mái vòm là ban công quan sát dành cho khách tham quan, với lan can kim loại cao ngang thắt lưng. Như vậy đã đủ khiến việc tự tử gian nan, nhưng không hẳn là không thực hiện được. Thực tế là, cứ vài tháng các viên hiến binh của Vitale lại phải ngăn một số linh hồn tội nghiệp lên trên đó ném mình vào vực thẳm hạnh phúc. Có điều vào buổi tối muộn, khi Vương cung thánh đường không còn khách tham quan và đã đóng cửa, thì Claudia Andreatti sẽ có trọn vẹn ban công này cho riêng cô.

“Thời gian tử vong?” Gabriel khẽ nói, như thể ông đang đặt câu hỏi với chính cái xác.

“Không xác định được,” Vitale trả lời.

Gabriel nhìn quanh Vương cung thánh đường, như để nhắc hai vị chức sắc người Ý nhớ họ đang ở đâu. Sau đó, ông hỏi sao lại không xác định được thời gian tử vong.

“Mỗi tuần một lần,” Vitale đáp, “Văn phòng An ninh

Trung ương tắt hết máy quay để cài đặt lại hệ thống định kỳ. Chúng tôi thường làm vào buổi tối khi Vương cung thánh đường đã đóng cửa. Thường thì không thành vấn đề.”

“Các anh tắt máy trong bao lâu?”

“Chín giờ tối đến nửa đêm.”

“Đúng là trùng hợp.” Gabriel nhìn thi thể một lần nữa. “Anh cho rằng có bao nhiêu khả năng cô ấy quyết định tự tử vào đúng khoảng thời gian hệ thống máy quay bị tắt?”

“Có lẽ đó không phải là một sự trùng hợp ngẫu nhiên,” Metzler lên tiếng. “Có lẽ cô ấy đã cố ý canh đúng thời điểm để cái chết của mình không bị ghi hình.”

“Làm sao cô ấy biết chuyện máy quay bị tắt?”

“Chuyện này quanh đây ai cũng biết cả.”

Gabriel khẽ lắc đầu. Mặc dù có rất nhiều mối đe dọa từ bên ngoài, khủng bố và ti tỉ vấn để khác, nhưng an ninh bên trong quốc gia nhỏ nhất thế giới này vẫn lỏng lẻo đến bất ngờ. Hơn nữa, những người làm việc phía sau các bức tường Vatican được quyền đi lại hết sức tự do. Họ biết tỏng những cánh cửa nào không bao giờ khóa, nhà nguyện nào không bao giờ được sử dụng, và những nhà kho hoàn toàn kín đáo nơi người ta có thể âm thầm bày mưu tính kế hay các cặp tình nhân tha hồ vuốt ve nhau. Họ còn biết cả các lối đi bí mật dẫn vào Vương cung thánh đường. Ngay đến Gabriel cũng biết một hai lối.

“Còn ai khác trong Vương cung thánh đường vào thời điểm đó không?”

“Theo chúng tôi biết là không,” Vitale trả lời.

“Nhưng anh không thể loại trừ khả năng này.”

“Đúng. Nhưng không ai báo cáo bất cứ điều gì bất thường.”

“Túi xách của cô ấy đâu?”

“Cô ấy bỏ nó lại trên ban công trước khi nhảy.”

“Có mất mát gì không?”

“Theo chúng tôi biết là không.”

Nhưng đã có thứ gì đó bị mất; Gabriel chắc chắn thế. Ông nhắm mắt lại và ngay lập tức hình dung thấy Claudia của tối hôm qua - với nụ cười ấm áp, ánh nhìn tán tỉnh từ đôi mắt nâu của cô, một tập hồ sơ ghì chặt vào ngực.

Và dây thập tự giá bằng vàng trên cổ.

“Tôi muốn kiểm tra ban công bên trên,” ông nói.

“Để tôi đưa anh lên đó,” Vitale bảo.

“Không cần đâu.” Gabriel đứng dậy. “Tôi chắc rằng Đức ông đây có thể dẫn đường cho tôi.”