Chương 10 QUẢNG TRƯỜNG THÁNH IGNATIUS, ROME
NGAY TRUNG TÂM của Rome, giữa đền Pantheon và Phố del Corso, là Quảng trường Thánh Ignatius nhỏ xinh. Phía bắc quảng trường là một nhà thờ cùng tên, nổi tiếng với bức bích họa vẽ trần rực rỡ của đạo hữu Dòng Tên Andrea Pozzo. Chắn bên sườn phía nam, trải rộng trên khoảng sân lát đá xám, là một cung điện trang trí cầu kỳ, bên ngoài sơn màu vàng kem với đường diềm trắng. Hai lá cờ phấp phới bay trên ban công tầng ba, và trên lối vào trang trọng là con dấu của lực lượng hiến binh quốc gia Ý, Carabinieri. Một tấm biển nhỏ cho biết toàn bộ khu vực đang được sử dụng bởi Đơn vị Bảo vệ Di sản Văn hóa. Nhưng trong giới cảnh sát, đơn vị này được biết đến với cái tên Biệt đội Nghệ thuật.
Vào thời điểm thành lập năm 1969, đây là tổ chức cảnh sát duy nhất trên thế giới đặc trách chiến đấu chống nạn buôn bán cổ vật và tác phẩm nghệ thuật trộm cắp, một ngành kinh doanh siêu lợi nhuận. Chắc chắn nước Ý cần đến một đơn vị như vậy, bởi vì quốc gia này may mắn vừa sở hữu nhiều tác phẩm nghệ thuật phong phú vừa có vô số tên tội phạm chuyên nghiệp rắp tâm vét sạch mớ cổ vật đó. Trong hai thập kỷ tiếp theo, Biệt đội Nghệ thuật đã buộc tội hàng ngàn nghi phạm có dính líu đến tội phạm nghệ thuật và đã thu hồi được rất nhiều tác phẩm đáng giá, trong đó có cả sáng tác của Raphael, Giorgione, và Tintoretto. Nhưng sau đó đơn vị rơi vào tình trạng tê liệt trong nội bộ tổ chức. Nhân sự giảm còn vài chục cảnh sát đã đến tuổi nghỉ hưu - nhiều người trong số đó thậm chí chẳng biết ất giáp gì về nghệ thuật - và bên trong cung điện trang nhã, công việc được tiến hành với tốc độ dứt khoát của người La Mã. Theo lời đám đông những kẻ gièm pha, thời gian để tranh luận về địa điểm ăn trưa còn dài hơn so với thời gian tìm kiếm các bức tranh giá trị bị mất tích ở Ý hằng năm.
Mọi việc đã thay đổi cùng với sự xuất hiện của Tướng Cesare Ferrari. Là con trai của hai nhà giáo xuất thân từ vùng Campania nghèo khó, Ferrari đã dành trọn sự nghiệp của mình để chiến đấu với những vấn nạn nan giải nhất của đất nước. Trong thập niên 1970, giai đoạn có nhiều vụ khủng bố đánh bom liều chết trên nước Ý, ông đã giúp vô hiệu hóa nhóm khủng bố có tên Lữ đoàn Đỏ. Sau đó, trong các cuộc chiến chống Mafia những năm 1980, ông giữ chức vụ chỉ huy tại thủ phủ Naples vốn đang bị bọn xã hội đen Camorra hoành hành. Nhiệm vụ nguy hiểm đến mức vợ và ba cô con gái của Ferrari buộc phải sống dưới sự bảo vệ hai mươi bốn trên hai mươi bốn. Bản thân Ferrari cũng là mục tiêu của nhiều âm mưu ám sát, trong đó có một vụ tấn công bằng bom thư đã cướp đi hai ngón tay và mắt phải của ông. Con mắt giả, với đồng tử đứng yên và ánh mắt không khoan nhượng, khiến một số thuộc hạ của ông có cảm giác lo lắng như đang phải nhìn vào con mắt thấu tỏ tất cả của Chúa. Ferrari tận dụng tối đa con mắt này để thuyết phục bọn tay chân tội phạm phản bội đầu sỏ của chúng. Một trong những tên trùm mà Ferrari tóm được chính là chủ mưu của vụ đánh bom thư định mệnh. Sau khi hắn bị kết án, Ferrari còn đích thân hộ tống hắn đến phòng giam tại nhà tù Poggioreale kinh hoàng xứ Naples, nơi hắn sẽ sống nốt phần đời còn lại.
Việc bổ nhiệm ông vào Biệt đội Nghệ thuật đúng ra là phần thưởng cho một sự nghiệp xuất sắc và lâu dài. “Cứ thong thả ngồi bàn giấy vài năm,” đội trưởng đội Carabinieri bảo ông, “rồi sau đó về vườn và trồng cà chua ở Campania.” Ferrari chấp nhận quyết định bổ nhiệm và đi thực hiện điều hoàn toàn ngược lại. Chỉ trong vài ngày sau khi đến cung điện, ông thông báo cho một nửa nhân viên rằng họ không cần có mặt ở đây nữa. Sau đó, ông bắt đầu hiện đại hóa một tổ chức đã bị để cho rệu rã theo thời gian. Ông bổ sung vào hàng ngũ những cảnh sát trẻ xông xáo, xin phép được nghe lén điện thoại của các tổ chức tội phạm có tiếng, và mở văn phòng ở những khu vực có bọn trộm nghệ thuật tác oai tác quái, đặc biệt tại miền Nam nước Ý. Quan trọng nhất, ông sử dụng nhiều phương pháp trước đây từng dùng để chống bọn Mafia thời ông còn ở Naples. Ferrari không mấy quan tâm đến bọn lưu manh đường phố học đòi trộm đồ nghệ thuật; ông muốn tóm những con cá lớn, những gã trùm tung hàng ăn cắp ra thị trường. Chẳng mấy chốc cách quản lý mới của Ferrari đã phát huy tác dụng. Hơn một chục tên trộm sừng sỏ bị tống giam, và số liệu thống kê các vụ trộm cắp nghệ thuật đã có sự cải thiện, dù vẫn còn cao đến đáng kinh ngạc. Cung điện không còn là một viện dưỡng lão; nó trở thành nơi mà nhiều chiến binh giỏi nhất và sáng giá nhất đã đến và gầy dựng danh tiếng cho mình. Và những kẻ thua kém sẽ bị gọi vào văn phòng của Ferrari, đối diện với con mắt không chút khoan hồng của Chúa.
Sự nghiệp kéo dài gần bốn thập kỷ trong chính quyền Ý đã giúp cho vị Đại tướng miễn nhiễm với bất ngờ. Mặc dù vậy, ông thừa nhận mình khá sửng sốt khi thấy Gabriel Allon huyền thoại bước chân vào văn phòng cuối buổi chiều hôm đó cùng với Chiara, cô vợ gốc Venice xinh đẹp và trẻ hơn chồng nhiều. Sự kiện đưa họ đến với Ferrari đã bắt đầu từ bốn tiếng đồng hồ trước, khi Gabriel nhìn xuống thi thể đã bắt đầu phân hủy của Roberto Falcone, và rầu rĩ nhận ra rằng ông đã đụng phải hiện trường một vụ án mạng không thể bỏ chạy cho qua. Thay vì báo thẳng cho các nhà chức trách, ông lại gọi Donati và Đức ông đã liên lạc với Lorenzo Vitale của lực lượng cảnh sát Vatican. Sau một cuộc đối thoại khó chịu kéo dài chừng mười lăm phút, quyết định đưa ra là Vitale sẽ lấy ý kiến của Ferrari, người mà ông đã từng hợp tác trong rất nhiều vụ án trước đó. Đến cuối buổi chiều, Biệt đội Nghệ thuật đã có mặt ở Cerveteri, cùng với một đội từ đơn vị chống tội phạm bạo lực của Lazio. Và đến hoàng hôn, Gabriel và Chiara, sau khi bị tước sạch vũ khí, bị tống vào sau một chiếc sedan của Hiến binh Quốc gia Ý lao thẳng về hướng cung điện.
Trên tường văn phòng của Ferrari treo đầy tranh - một số bị hư hỏng nặng, một số không có khung - được thu hồi từ những tên trộm nghệ thuật hay mấy tay sưu tầm bất chính. Chúng sẽ được lưu ở đây, đôi khi trong nhiều tuần hoặc nhiều tháng liền, cho đến khi có thể trả lại cho chủ sở hữu hợp pháp. Trên bức tường phía sau bàn làm việc của ông treo bức Chúa giáng sinh với Thánh Francis và Thánh Lawrence của Caravaggio, sáng bừng như thể mới được phục chế. Đó là một bản sao, dĩ nhiên; bức tranh thật đã bị đánh cắp từ Nhà thờ San Lorenzo ở Palermo vào năm 1969 và chưa bao giờ được thấy lại. Truy tìm nó là nỗi ám ảnh của Ferrari.
“Hai năm trước,” ông nói, “tôi nghĩ rằng mình cuối cùng đã lần ra manh mối. Một tên trộm quèn kể với tôi rằng hắn biết ngôi nhà ở Sicily, nơi bức tranh đang được cất giấu. Hắn đề nghị sẽ chỉ đường cho tôi, đổi lại tôi sẽ không tống hắn vào tù vì tội ăn cắp bức trang trí bàn thờ tại một nhà thờ làng gần Florence. Tôi chấp nhận lời đề nghị và đột kích vào ngôi nhà. Bức tranh không có ở đó, nhưng chúng tôi tìm thấy những bức ảnh này.” Ferrari đưa cho Gabriel một xấp ảnh polaroid. “Thật đau lòng.”
Gabriel lướt qua những tấm ảnh polaroid, chúng chụp một bức tranh đã xuống cấp thảm hại sau hơn bốn mươi năm bị cất giấu. Viền tranh đã sờn rách thảm thương - hậu quả của việc bị cắt khỏi khung căng bằng một lưỡi dao cạo - cùng những vết rạn sâu và trầy xước hủy hoại hình ảnh một thời rực rỡ.
“Thế chuyện gì đã xảy ra với tên trộm thông tin cho ông?”
“Tôi đã tống hắn vào tù.”
“Nhưng hắn đã cung cấp tin tức chính xác cho ông mà.”
“Đúng. Nhưng không kịp thời. Và trong ngành này, thời gian là tất cả.” Ferrari nhếch miệng cười, ánh cười không lan đến con mắt giả của ông. “Nếu chúng ta tìm được nó thì công đoạn phục chế rõ ràng sẽ rất khó khăn, ngay cả đối với một người tài năng như anh.”
“Chúng ta có thể thỏa thuận, thưa Đại tướng, rằng nếu ông tìm thấy bức tranh, tôi sẽ phục chế nó.”
“Bây giờ tôi không có tâm trạng mà thỏa thuận này nọ, Allon.”
Ferrari nhận lại mớ ảnh chụp và kẹp chúng lại vào hồ sơ lưu trữ. Sau đó, ông trầm ngâm nhìn ra ngoài cửa sổ với dáng vẻ giống như Tổng đốc Leonardo Loredan trong tranh của Bellini, như thể đang đấu tranh tư tưởng xem có nên cho Gabriel qua cầu Than Thở vào phòng tra tấn trong vài giờ hay không.
“Tôi sẽ bắt đầu cuộc nói chuyện này bằng cách kể với anh tất cả mọi chuyện tôi biết. Như vậy có thể bớt cho anh khoản nghĩ cách nói dối tôi. Tôi biết rằng Đức ông Donati đã thu xếp cho anh được phục chế bức Hạ thi thể Chúa trong Phòng Trưng bày Vatican. Tôi còn biết rằng ông ta đã nhờ anh xem qua thi thể của nữ Tiến sĩ Claudia Andreatti khi nó vẫn còn trong hiện trường Vương cung thánh đường - và rằng, sau đó, anh đã thực hiện một cuộc điều tra riêng về nguyên nhân cái chết bất hạnh của cô ấy. Cuộc điều tra đã dẫn anh đến chỗ Roberto Falcone. Và bây giờ nó đưa anh đến đây,” Ferrari kết lời, “trong cung điện này.”
“Tôi từng ở những nơi còn tồi tệ hơn thế này nhiều.”
“Và anh sẽ được như thế một lần nữa, trừ khi anh hợp tác.” Đại tướng châm một điếu thuốc lá Mỹ. Ông cầm thuốc hút bằng tay trái, có vẻ hơi lóng cóng. Bàn tay phải, vốn thiếu mất hai ngón, được giấu trong lòng.
“Tại sao Đức ông lại bận tâm về người phụ nữ này đến vậy?” ông hỏi.
Gabriel kể với ông về vụ thẩm tra các cổ vật của Vatican.
“Vậy mà người ta khiến tôi tin rằng đó chỉ là công tác kiểm kê thông thường.”
“Có thể khi bắt đầu đúng là vậy. Nhưng có vẻ như trong quá trình đó, Claudia đã phát hiện ra chuyện gì khác.”
“Thế anh có biết là chuyện gì không?”
“Không.”
Ferrari săm soi Gabriel như thể ông không mấy tin lời nhà phục chế. “Vậy tại sao anh lại đánh hơi quanh chỗ gã Falcone này?”
“Tiến sĩ Andreatti đã liên hệ với hắn không lâu trước khi chết.”
“Làm thế nào anh biết chuyện này?”
“Tôi tìm thấy số điện thoại của hắn trong lịch sử các cuộc gọi của cô ấy.”
“Cô ấy gọi cho hắn từ văn phòng tại Vatican ư?”
“Từ di động của cô ấy,” Gabriel đáp.
“Làm cách nào mà anh, một người ngoại quốc tạm trú tại đất nước này, có thể lấy được danh sách cuộc gọi trong điện thoại di động của một công dân Ý?”
Gabriel không trả lời, Ferrari nhìn nhà phục chế qua đầu điếu thuốc cháy dở như một tay thiện xạ đang ngắm một mục tiêu khó nhằn.
“Lời giải thích hợp lý nhất là anh đã viện đến bạn bè trong cơ quan cũ để thu thập danh sách cho anh. Nếu quả thật như thế, anh đã vi phạm thỏa thuận với cơ quan an ninh của chúng tôi. Và tôi e rằng điều đó đẩy anh vào một tình thế hết sức bấp bênh, thật đấy.”
Đó là một lời đe dọa, Gabriel nghĩ thầm, nhưng khá nhẹ nhàng.
“Anh đã bao giờ nói chuyện với gã Falcone chưa?” Đại tướng hỏi.
“Tôi đã cố.”
“Và?”
“Hắn không trả lời điện thoại.”
“Vì vậy anh đã quyết định đột nhập vào nhà hắn?”
“Vì lo lắng cho sự an toàn của hắn.”
“Ồ, phải, tất nhiên,” Ferrari nói một cách mỉa mai. “Và khi đã vào bên trong, anh phát hiện ra rằng nơi đó dường như là kho cất giấu rất nhiều cố vật.”
“Cùng với một tên tombarolo đang sủi tăm trong một bồn axit clohidric.”
“Làm cách nào anh ‘xử lý’ mấy cái ổ khóa?”
“Con chó gay go hơn so với ổ khóa.”
Đại tướng mỉm cười, bốn mươi chín gặp năm mươi, và đăm chiêu gẩy điếu thuốc vào gạt tàn. “Roberto Falcone không phải là một tên tombarolo tầm thường,” ông nói. “Hắn là capo zona, kẻ cầm đầu mạng lưới trộm cướp của khu vực. Những tên đạo chích nhãi nhép mang hàng ăn cắp đến cho hắn. Sau đó, Falcone tuồn hàng lên tuyến trên, vào đường dây của mấy tay buôn lậu và đại lý bất hợp pháp.”
“Ông có vẻ biết rất nhiều về một gã mà thi thể mới được phát hiện cách đây vài giờ.”
“Đó là bởi vì Roberto Falcone còn là người cung cấp thông tin cho tôi,” Đại tướng thừa nhận. “Tay chỉ điểm tốt nhất của tôi. Và bây giờ, nhờ anh, hắn đã chết.”
“Tôi chẳng dính dáng gì đến cái chết của hắn cả.”
“Là anh nói thế thôi.”
Một phụ tá mặc đồng phục thận trọng gõ cửa văn phòng Ferrari. Đại tướng phất tay xua anh ta đi chỗ khác bằng một cử chỉ độc đoán và lấy lại tư thế nghiêm trang, trầm ngâm giống một vị tổng đốc.
“Theo tôi thấy,” cuối cùng ông lên tiếng, “chúng ta có hai lựa chọn trước mắt. Lựa chọn thứ nhất, chúng ta xử lý mọi chuyện theo đúng thủ tục. Tức là ném anh cho lũ sói ở cơ quan an ninh. Có thể sẽ dấy lên chút dư luận tiêu cực, không chỉ đối với chính phủ của anh mà còn với cả Vatican nữa. Mọi việc có thể rối tung lên, Allon. Thực sự rối tinh rối mù.”
“Và lựa chọn thứ hai?”
“Anh bắt đầu bằng cách kể tôi tất cả mọi thứ anh biết về cái chết của Claudia Andreatti.”
“Và sau đó?”
“Tôi sẽ giúp anh tìm ra kẻ đã giết cô ấy.”