← Quay lại trang sách

Chương 16 PHỐ VENETO, ROME

GIA ĐÌNH MARCHESE sống gần Quảng trường Tây Ban Nha, trên một con phố yên tĩnh nối liền với Phố Veneto. Nơi đây dòng chảy thời gian dường như ngưng đọng, dù chỉ trong phút chốc, trong thời đại huy hoàng. Đây là thành Rome mà các du khách hằng mơ ước nhưng hiếm khi được thấy, thành Rome của thi sĩ, họa sĩ và những người giàu nứt đố đổ vách. Trong cái góc nhỏ nhắn riêng tư của Carlo tại Thành phố Vĩnh cửu, la dolce vita (cuộc sống tươi đẹp) vẫn đang tiếp diễn, dù chỉ tạm thời.

Nơi Marchese cư ngụ không phải một ngôi nhà mà chính xác là một dinh thự bề thế màu vàng nâu, bao quanh là một công viên rộng mênh mông. Cả dinh thự được bảo vệ bởi một hàng rào sắt, phía trên gắn rất nhiều máy quay an ninh - nhiều đến độ trên thực tế, dinh thự thường bị nhầm lẫn là một đại sứ quán hoặc một tòa nhà chính phủ. Ở sân trước có một đài phun nước khổng lồ theo phong cách Baroque cầu kỳ, và ở lối vào đại sảnh lờ mờ hiện ra một bức tượng cụt tay của Pluto, chúa tể thế giới ngầm. Đứng bên cạnh đó là Veronica Marchese, trong chiếc váy dài thướt tha bằng lụa nhăn màu xanh lục. Bà nồng nhiệt chào Gabriel và Chiara, sau đó dẫn họ đi dọc theo một hành lang rộng treo đầy những bức tranh thời Phục hưng của Ý lồng trong khung trang trí hoa mỹ. Giữa mấy bức tranh có các bệ xẻ rãnh cao ngang vai, bên trên đặt những bức tượng tạc và tượng bán thân La Mã. Tranh và cổ vật đều đạt chất lượng bảo tàng.

“Dòng họ Marchese đã và đang sưu tập cổ vật qua nhiều thế hệ,” bà giải thích, giọng bà thoáng lộ vẻ bất bình. “Tôi không lo ngại về mấy bức tranh, nhưng các cổ vật khiến tôi có chút xấu hổ, vì tôi từng phát ngôn chính thức cho rằng các nhà sưu tập là những kẻ cướp thực sự. Đơn giản thôi. Nếu cánh nhà giàu không mua cổ vật nữa thì bọn tombarolo sẽ thôi đào bới chúng lên.”

“Chồng cô thật có khiếu thẩm mỹ,” Chiara nói.

“Anh ấy có hẳn một chuyên gia cố vấn riêng,” Veronica tinh nghịch đáp. “Nhưng chúng tôi không chịu trách nhiệm chuyện thu mua. Tổ tiên của anh Carlo đã mua chúng từ lâu trước khi có bất kỳ luật nào hạn chế buôn bán cổ vật. Mặc dù vậy, tôi đang cố gắng thuyết phục anh ấy hiến tặng ít nhất một phần của bộ sưu tập để công chúng có thể chiêm ngưỡng chúng. Xin thứ lỗi, tôi có chút việc phải đi.”

Ở cuối hành lang là một cánh cửa đôi rộng dẫn vào một phòng khách lớn với những bức tường trang trí bằng thảm. Nội thất trong phòng vừa trang nghiêm vừa thanh lịch, cũng như các vị khách đang đứng rải rác trong đó. Gabriel đã mong đợi một bữa ăn tối yên tĩnh chỉ sáu người, nhưng giờ có đến không dưới hai mươi người, trong đó có cả Bộ trưởng Bộ Tài chính của Ý, người dẫn một chương trình truyền hình tọa đàm có sức ảnh hưởng lớn, và một trong những giọng nữ cao nổi tiếng nhất nước. Donati đang rúc vào góc ở một đầu của chiếc sofa bọc gấm thêu kim tuyến, ông mặc một bộ com-lê tu sĩ hai hàng nút và đang thuật lại một vài chuyện phiếm đã chuẩn bị trước về Giáo triều cho hai người phụ nữ đeo đầy nữ trang, cả hai dường như đang nín thở nuốt từng lời ông thốt ra.

Bên kia phòng khách, được vây quanh bởi một nhóm các doanh nhân trông có vẻ giàu có, là Carlo Marchese. Hắn có khung vai vuông của một người từng là vận động viên ngôi sao ở trường học, và ăn vận cứ như thể đang chuẩn bị chụp ảnh thời trang vậy. Cặp kính nhỏ không gọng của hắn làm cho khuôn mặt hài hòa có vẻ nghiêm trang như linh mục, và hắn phác một cử chỉ tư lự với bàn tay chưa từng cầm qua công cụ nào khác ngoài bút Montblanc hay nĩa bạc. Sự tương đồng giữa hắn với Donati thật rõ ràng. Cứ như thể Veronica, sau khi đánh mất Donati vào tay Giáo hội, đã lấy một phiên bản khác của ông, chỉ thiếu mỗi cái cổ áo trắng dành cho tu sĩ và lương tâm.

Khi Gabriel và Chiara bước vào phòng, một vài người đồng loạt ngoái đầu nhìn và cuộc trò chuyện rơi vào thinh lặng vài giây trước khi tiếp tục trong tiếng thì thầm khe khẽ. Gabriel nhận lấy hai ly rượu Prosecco từ một người bồi bàn mặc áo khoác trắng và đưa một ly cho Chiara. Sau đó, vừa xoay người, ông thấy Carlo đã đứng ngay trước mặt.

“Cuối cùng cũng có cơ hội gặp anh, tôi rất vui mừng, anh Allon.” Một bàn tay choàng qua người Gabriel trong khi tay kia nắm ngay trên khuỷu tay ông. “Tôi đã có mặt ở Quảng trường Thánh Peter khi bọn khủng bố tấn công vào Vatican. Những người gần gũi với Đức Giáo hoàng như chúng tôi sẽ không bao giờ quên việc anh đã làm ngày hôm đó.” Hắn buông tay Gabriel ra và tự giới thiệu mình với Chiara. “Cô có phiền không khi tôi mượn chồng cô một lúc? Tôi có một vấn đề nhỏ cần thảo luận với anh ấy.”

“Tôi e rằng còn tùy thuộc vào bản chất của vấn đề.”

“Tôi có thể đảm bảo với cô rằng về bản chất, nó hoàn toàn mang tính nghệ thuật.”

Không chờ câu trả lời, Carlo Marchese dẫn Gabriel theo lối cầu thang trung tâm uốn cong, lên tầng hai của lâu đài. Trước mặt hai người mở ra một gian trưng bày vô số các báu vật của tổ tiên: tranh vẽ và thảm trang trí, tượng điêu khắc và đồng hồ, đồ cổ các loại. Carlo đóng vai trò hướng dẫn viên, cách vài bước lại đi chậm lại để giới thiệu một hoặc hai hiện vật đáng chú ý nào đó. Hắn ta giảng giải với sự uyên bác của một người sành nghệ thuật, nhưng thấp thoáng trong đó còn có sự khó chịu, như thể khối tài sản này là một gánh nặng đối với hắn. Ngay cả Gabriel cũng thấy choáng ngợp trước sự hiện diện của quá nhiều tuyệt tác nghệ thuật trong cùng một chỗ; cảm giác giống như đang dạo quanh các nhà kho chứa đầy chiến lợi phẩm của một cuộc chiến trong quá khứ xa xôi. Ông dừng lại trước một bức của danh họa Canaletto. Bức tranh, mô tả Quảng trường Thánh Marco huy hoàng, trông rất quen. Rồi Gabriel nhớ ra nơi ông đã từng thấy nó. Cách đây vài năm, tác phẩm đã bị đánh cắp. Và chiến công thu hồi nó, do Tướng Ferrari gióng trống khua chiêng công bố, được coi là một trong những thành tựu vĩ đại của Biệt đội Nghệ thuật.

“Bây giờ tôi đã biết lý do tại sao Đại tướng từ chối nêu tên chủ sở hữu,” Gabriel nói.

“Ông ấy làm thế theo yêu cầu của tôi. Chúng tôi sợ mình sẽ trở thành mục tiêu một lần nữa nếu bọn trộm biết đến chất lượng các tác phẩm trong bộ sưu tập của chúng tôi.”

“Có một dạo còn nổi lên tin đồn là người chủ sở hữu góp một vai trò quan trọng trong việc thu hồi bức tranh.”

“Anh có một trí nhớ tốt, anh Allon à. Tôi đích thân tiến hành các cuộc đàm phán về tiền chuộc. Trên thực tế, tôi thậm chí không nói cho Tướng Ferrari biết bức tranh đã bị đánh cắp cho đến khi đạt được thỏa thuận, ông ấy tóm bọn trộm khi chúng cố gắng lấy tiền chuộc, chúng không phải những tay quá chuyên nghiệp.”

“Tôi nhớ,” Gabriel đáp. “Tôi còn nhớ rằng chúng bị giết chết sau khi đến Nhà tù Regina Coeli không lâu.”

“Hình như do ẩu đả tranh giành địa bàn trong tù gì đó.”

Hoặc có lẽ ngươi đã khử chúng vì tội dám ăn cắp đồ của chủ, Gabriel nghĩ thầm trong bụng. “Có thứ gì đặc biệt mà anh muốn cho tôi xem à?” ông lên tiếng hỏi.

“Đây,” Carlo nói, nghiêng đầu về phía bức tranh lớn ở cuối gian trưng bày. Tranh vẽ mô tả cảnh những người chăn cừu chiêm bái Chúa giáng sinh, hầu như không thể nhìn thấy được bên dưới lớp bụi dày đặc và lớp véc-ni đã đổi màu nghiêm trọng. Carlo bật công tắc đèn, chiếu sáng bức tranh. “Tôi cho rằng anh nhận ra danh họa đã vẽ bức tranh này.”

“Guido Reni,” Gabriel trả lời, “với sự trợ giúp đắc lực từ một hoặc hai trợ lý giỏi của ông, nếu tôi không nhầm.”

“Anh không nhầm đâu. Bức họa đã nằm trong bộ sưu tập của gia đình tôi hơn hai thế kỷ. Thật không may, đã nhiều năm trôi qua kể từ lần phục chế cuối. Tôi đang tự hỏi liệu anh có cân nhắc đến việc sẽ phục chế nó sau khi đã hoàn thành bức Caravaggio.”

“Tiếc là tôi đã có việc khác phải làm rồi.”

“Tôi cũng nghe phong thanh.” Carlo nhìn Gabriel. “Tôi biết rằng Đức ông Donati đã yêu cầu anh điều tra cái chết của Claudia.” Hạ thấp giọng, hắn nói thêm, “Vatican không khác gì một ngôi làng, anh Allon. Và dân làng thích ngồi lê đôi mách.”

“Chuyện ngồi lê đôi mách có thể gây nguy hiểm.”

“Các cuộc điều tra nhạy cảm tại Vatican cũng vậy.”

Carlo hạ cằm và nhìn chăm chú Gabriel, không chớp mắt. Hầu hết mọi người thường tránh nhìn thẳng vào mắt Gabriel, nhưng Carlo thì không. Hắn sở hữu một sự tự tin điềm tĩnh và quý tộc, gần như kiêu ngạo. Hắn cũng là, Gabriel kết luận, một người không biết sợ là gì.

“Vatican giống như một mê cung,” Carlo tiếp tục nói. “Anh nên biết có những lực lượng trong Giáo triều tin rằng Đức ông Donati đã vô tình mở chiếc hộp tai ương Pandora, và hành động đó sẽ tiếp tục làm tổn hại danh tiếng của Giáo hội trong thời điểm họ không thể gánh thêm thị phi nữa. Họ cũng phẫn nộ khi ông ấy chọn giao vấn đề này vào tay của một người ngoài.”

“Tôi đoán anh cũng đồng quan điểm với họ.”

“Tôi chính thức không nói chắc điều gì trong vấn đề này. Nhưng tôi đã rút được một bài học là khi dính đến Vatican, tốt hơn hãy để những chuyện không hay ngủ yên.”

“Thế còn người phụ nữ đã chết?”

Đây là một hành động khiêu khích có chủ ý. Carlo có vẻ ấn tượng bởi lá gan của Gabriel. “Phụ nữ chết giống như két ngân hàng,” hắn trả lời với sự thẳng thắn đáng ngạc nhiên. “Hầu như lúc nào họ cũng cất giữ những bí mật khó chịu.” Hắn rút ra một danh thiếp từ chiếc hộp bạc. “Tôi hy vọng anh sẽ xem xét lại lời đề nghị của tôi về bức họa Reni. Tôi có thể đảm bảo sẽ trả công xứng đáng cho anh.”

Khi Gabriel cất tấm danh thiếp vào túi thì tiếng chuông triệu tập khách khứa đến ăn tối vang lên. Carlo đặt tay lên lưng Gabriel và dẫn ông về phía cầu thang. Một lúc sau, ông ngồi xuống bên cạnh Chiara. “Hắn ta muốn gì?” nàng khẽ hỏi bằng tiếng Do Thái.

“Anh nghĩ hắn đang cố gắng đưa anh vào danh sách người nhận tiền công của gia đình Marchese.”

“Chỉ vậy thôi sao?”

“Không,” Gabriel đáp. “Hắn muốn chắc chắn rằng anh không mang theo súng.”

Họ rời khỏi lâu đài ngay sau nửa đêm và thấy không gian giăng đầy những bông tuyết mềm mại to như bánh thánh. Một chiếc ô tô của Tòa Thánh chờ sẵn bên vệ đường; nó tà tà chạy theo sau Donati, Gabriel, và Chiara khi cả ba rảo bộ dọc vỉa hè vắng vẻ của Phố Veneto. Chiara nắm chặt cánh tay của Gabriel khi tuyết điểm trắng mái tóc nàng.

Donati im lặng đi bên cạnh nàng. Một phút trước đó, khi ông chia tay Veronica với một nụ hôn trang trọng đặt lên má bà, ông đã mỉm cười. Bây giờ, phải đối mặt với viễn cảnh một đêm dài lạnh lẽo trên chiếc giường trống vắng, tâm trạng của ông rõ ràng thật ảm đạm.

“Có phải tôi tưởng tượng,” Gabriel cất tiếng hỏi, “hay là Cha thực sự vui vì buổi tối nay?”

“Tôi luôn vui như vậy mỗi khi ở bên cô ấy. Và đó là phần khó khăn nhất.”

“Vậy tại sao Cha còn làm?”

“Veronica tin rằng đó là một cách thử nghiệm đức tin ít được biết đến của Dòng Tên, rằng tôi cố tình đặt mình trong phạm vi gần sự cám dỗ để xem liệu Chúa có vươn tay xuống đỡ tôi nếu tôi sa ngã.”

“Cha có làm vậy không?”

“Tôi không cố ý thử thách mình kiểu Thánh Ignatius như thế. Tôi chỉ đơn giản là thích ở bên cạnh cô ấy. Hầu hết mọi người chẳng thấy cái gì khác ngoài cổ áo trắng tu sĩ, nhưng Veronica không hề thấy nó. Cô ấy khiến tôi quên mình là một linh mục.”

“Chuyện gì xảy ra nếu Cha trượt thử thách của mình?”

“Tôi sẽ không bao giờ cho phép điều đó xảy ra. Và Veronica cũng vậy.” Donati ra hiệu cho chiếc xe của mình. Sau đó, ông quay sang Gabriel và hỏi, “Thế còn buổi gặp gỡ của anh với Carlo sao rồi?”

“Rất chuyên nghiệp.”

“Hắn có đề cập đến tên tôi không?”

“Hắn toàn nói về Cha bằng những lời bay bổng.”

“Hắn muốn gì?”

“Hắn nghĩ sẽ là một ý hay nếu tôi bỏ cuộc điều tra.”

“Tôi đoán là hắn không thú nhận đã giết chết Claudia Andreatti.”

“Không, Luigi, hắn đã không làm thế.”

“Giờ anh tính sao?”

“Tôi sẽ tìm một cái gì đó có sức hút không thể cưỡng lại,” Gabriel trả lời. “Và sau đó tôi sẽ đập nó ra từng mảnh.”

“Chỉ cần đảm bảo đó không phải là Giáo hội - hay là tôi.”

Donati trang trọng làm dấu thánh, cánh tay dài của ông di chuyển dọc và ngang trước ngực, sau đó ông biến mất vào ghế sau của chiếc ô tô.

Lúc Gabriel và Chiara đến Phố Gregoriana, tuyết đã ngừng rơi. Gabriel dừng lại ở chân dốc và nhìn lên đồi, về phía Nhà thờ Trinità dei Monti. Các ngọn đèn đường đều tắt, lại thêm một nỗ lực của chính phủ nhằm bảo vệ nguồn tài nguyên quý giá. Dường như Rome đang lui vào quá khứ. Gabriel chắc chắn sẽ không quá ngạc nhiên nếu thấy một chiếc xe ngựa lao ra từ trong bóng tối.

Xe ô tô đậu san sát dọc theo vỉa hè hẹp, thế nên họ đi bộ, giống như hầu hết người dân ở Rome, ngay giữa lòng đường. Khối xilanh của một chiếc Fiat tàn tạ kêu răng rắc như tiếng đá nứt, nhưng ngoài ra thì không gian rất tĩnh lặng, chỉ có tiếng gõ nhịp nhàng từ đôi giày cao gót của Chiara. Gabriel có thể cảm nhận hơi ấm từ ngực nàng đang áp vào tay ông. Ông tưởng tượng nàng đang nằm khỏa thân trên giường của họ, nàng tranh Modigliani của riêng ông. Một phần trong ông muốn giữ rịt nàng trên giường cho đến khi một đứa trẻ được hoài thai trong bụng nàng, nhưng điều đó là không thể; vụ án giữ chặt ông. Từ bỏ vụ án mạng cũng giống với phục chế dở dang một kiệt tác vậy. Ông sẽ theo đuổi sự thật đến cùng, không phải cho Tướng Ferrari, hay thậm chí là cho ông bạn Luigi Donati, mà là vì Claudia Andreatti. Hình ảnh cô nằm chết trên mặt sàn Vương cung thánh đường đến giờ vẫn treo lơ lửng trong phòng trưng bày ký ức kinh hoàng của ông - Cái chết của nàng trinh nữ, tranh sơn dầu, của danh họa Carlo Marchese.

Phụ nữ chết giống như két ngân hàng. Hầu như lúc nào họ cũng cất giữ những bí mật khó chịu....

Tiếng gầm rú ngày càng gần của một chiếc mô tô xóa tan hình ảnh trong tâm trí của Gabriel. Nó đang tăng tốc lao thẳng về phía họ, ánh đèn pha rung rung trên con đường lát đá mấp mô. Gabriel đẩy nhẹ Chiara lại gần mấy chiếc ô tô đang đậu và đưa mắt nhìn chăm chú bóng người đội mũ bảo hiểm trên xe mô tô. Hắn đang điều khiển chiếc xe bằng một tay. Bàn tay còn lại, tay phải, đút trong áo khoác da. Khi hắn rút tay ra, Gabriel nhìn thấy hình dạng không thể nhầm lẫn của một khẩu súng với ống giảm thanh lắp trước nòng. Đầu tiên khẩu súng chĩa về phía ngực của Gabriel. Sau đó, nó dịch đi vài độ và nhắm vào Chiara.

Gabriel đột nhiên thấy trống rỗng sau lưng, nơi ông thường giấu khẩu Beretta của mình. Là một võ sinh Krav Maga, môn võ cận chiến của Israel, ông đã được huấn luyện nhiều kỹ thuật vô hiệu hóa đối thủ có vũ trang. Nhưng gần như tất cả các đòn thế đều chỉ có tác dụng với đối thủ đứng gần, chứ không phải một gã đang cưỡi xe máy phóng đi ở tốc độ cao như vầy. Gabriel không còn lựa chọn nào khác mà phải dựa vào một trong những nguyên tắc hoạt động chủ yếu của Văn phòng - khi không có nhiều lựa chọn tốt, phải ứng biến, và phải hành động nhanh.

Tay trái ông đè Chiara xuống con đường lát đá. Tay phải ông thụi một chỏ cực mạnh, đánh gãy cái gương chiếu hậu của chiếc ô tô đậu gần nhất và ném nó đi. Cú ném, mặc dù thiếu tốc độ, nhưng khá chính xác. Tay sát thủ theo bản năng lạng người để né và do đó họng súng chệch mục tiêu trong một hai tích tắc sống còn. Gabriel ngay lập tức thụp xuống. Sau đó, mặc chiếc mô tô lao thẳng tới, ông huých vai vào kính mũ bảo hiểm của tay sát thủ, làm gã buông chiếc xe và khẩu súng. Tay sát thủ ngã xuống con đường đá, khẩu súng rơi ngoài tầm tay hắn vài phân. Gabriel đánh gãy cổ tay của gã, để đảm bảo an toàn, và đá cái mũ bảo hiểm khỏi đầu gã. Kẻ giết thuê có nước da của người vùng Calabria nước Ý. Hơi thở hắn nồng nặc mùi thuốc lá và sự sợ hãi.

“Mày có biết tao là ai không?” Gabriel hỏi một cách bình tĩnh.

“Không,” tên sát thủ thở hổn hển, ôm chặt cái tay bị gãy của mình.

“Vậy mày là kẻ giết thuê ngu ngốc nhất trần đời.” Gabriel nhặt súng lên, một khẩu Heckler & Koch nòng 11 ly, và chĩa vào mặt gã sát thủ. “Ai phái mày đến đây?”

“Tôi không biết,” tên sát thủ đáp, thở hổn hển. “Tôi chưa bao giờ được biết.”

“Trả lời sai rồi.”

Gabriel chĩa khẩu súng giảm thanh vào xương bánh chè của hắn.

“Hãy thử lại lần nữa. Ai phái mày đến?”