Chương 18 JERUSALEM
NGÀY HÔM SAU là thứ sáu, đồng nghĩa với việc Jerusalem, thành lũy đổ nát của Chúa ngự trên đồi, chộn rộn hơn so với ngày thường. Dọc theo mé phía đông của Thành Cổ, từ Cổng Damascus đến Vườn Gethsemane, rào chắn kim loại lấp lánh trong ánh nắng mùa đông gay gắt, được canh gác bởi hàng trăm cảnh sát Israel mặc đồng phục xanh lam. Bên trong những bức tường, các tín đồ Hồi giáo tụ tập chen chúc trước các cổng dẫn vào khu đền Haram al-Sharif, địa điểm linh thiêng thứ ba của Hồi giáo, chờ xem liệu họ có được phép vào cầu nguyện tại Đền thờ al-Aqsa hay không. Do gần đây có một loạt các vụ tấn công bằng tên lửa của Hamas nên quy định hạn chế được siết chặt hơn bình thường. Phụ nữ và đàn ông trung niên được phép vào, nhưng al-shabaab, các thanh niên, đều bị đuổi đi. Họ sục sôi giận dữ trong các khoảng sân nhỏ dọc theo Phố Cổng Sư Tử hoặc bên ngoài các bức tường trên đường Jericho. Có một imam hướng dẫn cầu nguyện thuộc nhánh Salafi với bộ râu quai nón đang trấn an đám đông rằng tháng ngày nhục nhã của họ sắp đến hồi kết thúc, rằng người Do Thái, các lãnh chúa trước đây và hiện tại của miền đất đã-hai-lần-hứa, lại một lần nữa chỉ còn sống trong khoảng thời gian vay mượn.
Gabriel dừng lại và lắng nghe bài giảng. Sau đó ông đi men theo con đường mòn dẫn vào lòng chảo thung lũng Kidron. Khi đi ngang qua Lăng mộ của Absalom, ông thấy một gia đình nhiều thế hệ người Ả Rập đang đi về phía mình, họ đến từ silwan thuộc vùng lân cận Đông Jerusalem. Phụ nữ trong gia đình đều che mạng kín mít, còn cậu con cả lại có bề ngoài tương đồng đáng kinh ngạc với một tên khủng bố người Palestine mà Gabriel đã giết chết nhiều năm trước trên một con phố yên tĩnh ngay trung tâm của Zurich. Cả gia đình đi dàn hàng bốn và không chừa chỗ cho Gabriel. Thay vì kích động xung đột tôn giáo, ông đứng nép bên lề đường nhường lối cho gia đình nọ đi qua, một hành động lịch sự mà đáp lại chẳng có lấy một ánh mắt hay cái gật đầu thay lời cảm ơn. Nhóm phụ nữ che kín mặt và vị trưởng tộc leo lên đồi, đi về hướng các bức tường của Thành Cổ. Các chàng trai nán lại phía sau, trong đền thờ dựng tạm trên đường Jericho.
Lúc này, tiếng cầu nguyện rì rầm từ Đền thờ al-Aqsa đang vang vọng khắp thung lũng, hòa lẫn với tiếng chuông nhà thờ trên núi ô Liu. Trong khi hai trong số ba tôn giáo khởi nguồn từ Abraham của thành phố đang hăng say tranh cãi về vẻ đẹp sâu sắc, Gabriel nhìn lên hàng bia mộ kéo dài vô tận của nghĩa trang người Do Thái và thầm đấu tranh tư tưởng xem liệu mình có đủ can đảm ghé thăm mộ con trai, bé Daniel, hay không. Hai mươi năm trước, vào một đêm tháng Một đầy tuyết ở Vienna, Gabriel đã giằng lấy cơ thể không còn sự sống của con trai từ biển lửa của chiếc xe bị đánh bom. Người vợ đầu tiên của ông, Leah, đã sống sót một cách thần kỳ sau cuộc tấn công mặc dù toàn thân bị bỏng nghiêm trọng. Bây giờ bà sống trong một bệnh viện tâm thần trên đỉnh núi Herzl, bị giam cầm trong nhà tù của ký ức và một cơ thể bị lửa hủy hoại. Rối loạn căng thẳng sau sang chấn và trầm cảm, bà không ngừng sống lại thời khắc xảy ra vụ đánh bom. Tuy nhiên, thỉnh thoảng bà cũng có vài phút giây chợt tỉnh táo. Trong một lần tâm trí sáng suốt như vậy, tại khu vườn của bệnh viện, bà đã cho phép Gabriel kết hôn với Chiara. Hãy nhìn em, anh Gabriel. Không còn gì là em của ngày xưa. Không còn gì ngoại trừ ký ức. Đó chỉ là một trong những hình ảnh ám ảnh Gabriel mỗi lần ông rảo bước trên đường phố của Jerusalem. Ở đây, tại thành phố ông hằng yêu dấu, ông không thể tìm thấy bình yên. Ông chỉ thấy sự xung đột bất tận giữa người Ả Rập và người Do Thái trong từng lời nói và cử chỉ, nghe thấy nó trong từng lời nhắc nhở cầu nguyện của mỗi giáo sĩ muezzin. Trên khuôn mặt của trẻ em, ông thoáng thấy bóng ma của những kẻ đã chết dưới tay ông. Và từ dãy bia mộ trên núi ô Liu, ông nghe thấy tiếng gào khóc cuối cùng của một đứa con phải gánh tội thay cho cha mình.
Chính ký ức đó, ký ức bé Daniel tắt thở trong vòng tay ông, đã buộc Gabriel bước vào nghĩa trang. Ông nán lại bên ngôi mộ trong gần một tiếng đồng hồ, miên man suy nghĩ xem con trai mình nếu lớn lên sẽ là người đàn ông như thế nào, liệu cậu sẽ trở thành một họa sĩ như ông cha hay sẽ tìm một nghề thực tế hơn. Cuối cùng, khi chuông nhà thờ điểm một giờ, ông đặt vài hòn đá lên mộ con và băng qua thung lũng Kidron đến Cửa Mughrabi. Một nhóm học sinh người Israel đến từ vùng sa mạc Negev đang chờ ở trạm kiểm soát an ninh, mấy chiếc ba-lô màu sắc rực rỡ của chúng đang được vạch ra để kiểm tra. Gabriel nhập vào hàng trong một lúc. Thế rồi, sau khi thì thào vài lời vào tai của một viên cảnh sát, ông đi vòng qua cửa quét từ và bước vào Khu Do Thái.
Ngay trước mặt ông, vươn cao từ phía bên kia quảng trường rộng lớn, là những phiến đá Herod màu mật ong của Bức tường phía Tây, tàn tích bị tranh chấp dữ dội của bờ tường đã từng bao quanh Đền Thánh Jerusalem thời cổ đại. Vào năm 70 sau Công nguyên, sau một cuộc bao vây kéo dài nhiều tháng ròng, Hoàng đế La Mã Titus ra lệnh phá hủy đền thờ và giết sạch người Do Thái nổi loạn tại thuộc địa Palestine của La Mã. Hàng trăm ngàn người thiệt mạng trong vụ tắm máu sau đó, và bảo vật ở nơi Cực Thánh, trong đó có giá nến lớn menorah bằng vàng, bị vơ vét đưa về thành Rome, trở thành một trong những vụ cướp bóc của cải chiến tranh nổi tiếng nhất trong lịch sử. Sáu thế kỷ sau, khi người Ả Rập đánh chiếm Jerusalem thì tàn tích của Đền Thánh không còn thấy nữa - và Núi Thánh, nơi người Do Thái coi là chốn cư ngụ của Thiên Chúa trên trần thế, thì chẳng khác gì một bãi rác cao ngất. Người Ả Rập cho xây dựng Đền thờ Mái vòm của Đá và Đền thờ al-Aqsa vĩ đại, từ đó thiết lập chủ quyền Hồi giáo trên thánh địa thiêng liêng nhất thế giới. Quân Thập Tự Chinh giành lấy Núi Đền từ tay người Hồi giáo vào năm 1099 và biến các ngôi đền thành nhà thờ, một sai lầm chiến thuật mà người Israel đã quyết không để lặp lại sau khi chiếm được khu Đông Jerusalem vào năm 1967. Chính quyền Israel ngày nay kiểm soát chặt chẽ việc ra vào Núi Đền, nhưng việc quản lý các di tích của người Hồi giáo và vùng đất thiêng liêng dưới mỗi di tích vẫn thuộc về một tổ chức Hồi giáo có tên là Waqf.
Từ quảng trường chỉ nhìn thấy một phần của Bức tường phía Tây, dài 57 mét và cao 20 mét. Tuy nhiên, bờ tường thực tế chắn phía tây của cao nguyên Núi Đền lớn hơn nhiều, đâm xuống 13 mét bên dưới quảng trường và kéo dài hơn 400 mét vào tận Khu Hồi giáo, nơi nó bị khuất đằng sau dãy công trình nhà ở. Sau nhiều năm căng thẳng cả về chính trị lẫn tôn giáo xoay quanh hoạt động khai quật khảo cổ, giờ đây ta có thể đi bộ gần hết chiều dài của bức tường thông qua Đường hầm phía Tây, một lối đi ngầm chạy từ quảng trường đến Phố Dolorosa. Chờ Gabriel ở lối vào là một phụ nữ trẻ mặc bộ váy và khăn trùm đầu giản dị của người Do Thái chính thống. “Ông ấy làm việc không ngừng tại một điểm gần Hang động,” cô nói, giọng như gửi gắm tâm sự. “Rõ ràng, ông ấy đã tìm thấy một cái gì đó quan trọng, bởi vì ông ấy trông tàn tạ lắm.”
“Sao cô dám chắc điều đó?”
Người phụ nữ bật cười và sau đó dẫn Gabriel đến đầu chiếc cầu thang hẹp bằng nhôm. Nó đưa ông xuống bên dưới Thành cổ và ngược dòng lịch sử. Ông dừng lại một chút bên dưới Vòm Wilson, cây cầu đã liên kết Núi Đền và Khu Thượng của Thành Cổ Jerusalem vào thời Chúa Jesus, và sau đó đi dọc theo một lối đi mới lát đá bên dưới bờ tường. Những phiến đá to rực sáng dưới ánh đèn và mát lạnh khi chạm vào. Chỉ cách chừng vài tấc phía trên là phố chợ huyên náo của Khu Hồi giáo hiện đại, nhưng dưới đây trong tầng hầm của thời gian, không gian hoàn toàn tĩnh lặng.
Khúc hầm được gọi là Hang động thật ra là một hội đường Do Thái nhỏ bé trông giống hang động, nằm ở đoạn tường được cho là điểm gần nhất với vị trí nơi Cực Thánh cổ xưa. Như thường lệ, một nhóm vài phụ nữ Do Thái chính thống đang cầu nguyện trong hội đường, bàn tay họ cung kính áp lên mặt tường đá. Gabriel lặng lẽ bước qua và đi về phía tấm màn vải bạt treo cách đó vài thước. Có một tấm biển viết tay nhỏ cảnh báo nguy hiểm và yêu cầu du khách tránh xa. Gabriel vạch tấm bạt ra và nhìn xuống một hố khai quật sâu khoảng sáu mét. Dưới đáy hầm, tắm trong ánh sáng chói lòa của bóng đèn trắng, chỉ có một nhà khảo cổ đang dùng xẻng tay nhẹ nhàng đào lớp đất màu đen.
“Cái gì vậy?” Gabriel hỏi, giọng ông vang vọng trong hố đào.
“Đây không phải là cái gì,” Eli Lavon trả lời. Ông này bước sang một bên để Gabriel thấy mục tiêu lao động của mình - phần vai, cánh tay, và bàn tay của một bộ xương người. “Chúng tôi gọi cô ấy là Rivka,” ông nói. “Và trừ phi tôi nhầm lẫn, mà chuyện đó rất khó xảy ra, cô đã qua đời cùng cái đêm Đền Thánh bị phá hủy.”
“Bằng chứng, thưa ngài Giáo sư Lavon,” Gabriel nói, vui vẻ thách thức bạn. “Bằng chứng đâu?”
“Bằng chứng đấy quanh chỗ cô nằm,” Lavon đáp, chỉ vào những viên đá hình chữ nhật cắm trong đất. “Mấy viên đá này từ chính Đền Thánh mà ra, và chúng nằm đây vì người La Mã đã ném chúng qua bức tường vào cái đêm họ phá hủy Ngôi nhà của Chúa. Việc xác Rivka nằm giữa những viên đá chứ không phải bên dưới chúng chứng tỏ cô đã bị họ ném qua tường cùng lúc đó. Mấy chỗ xương nứt gãy trên khắp người cô cũng chứng tỏ điều này.”
Lavon kính trọng nhìn thi thể một lúc lâu mà không lên tiếng. “Theo Josephus, nguồn tài liệu duy nhất của chúng tôi về chuyện xảy ra đêm đó, vài ngàn người Do Thái đã ùa vào ngôi đền sau khi người La Mã châm lửa đốt đền. Tôi ngờ rằng Rivka là một trong số họ. Ai biết được?” ông nói thêm với tiếng thở dài. “Có thể cô đã nhìn thấy Titus đang xông vào nơi Cực Thánh để cướp số bảo vật thiêng liêng. Sau đó... là địa ngục trần gian.”
“Titus không phải là kẻ cướp đầu tiên trên thế giới,” Gabriel nói. “Và, thật không may, ông ta cũng không phải là người cuối cùng.”
“Tôi cũng nghe nói vậy.” Lavon nhìn lên. “Tôi còn nghe có người cố bắn anh vào tối hôm trước ở Rome.”
“Thực ra, tôi nghĩ hắn nhắm đến vợ tôi.”
“Thật là dại dột. Hắn vẫn còn sống chứ?”
“Tạm thời thì vậy.”
“Có biết ai đã phái hắn đến không?”
Gabriel thả mảnh gốm Hy Lạp xuống hố khai quật. Lavon khéo léo chụp lấy mảnh gốm trong không khí trước khi nó rơi vỡ tan tành trên mấy viên đá từ Đền Thánh và xem xét nó dưới ánh sáng đèn.
“Gốm Hy Lạp đỏ, thế kỷ V trước Công nguyên, có thể là tác phẩm của Họa sĩ thời Vua Menelaus.”
“Rất ấn tượng.”
“Anh quá khen,” Lavon đáp. “Nhưng đừng bao giờ thả rơi nó một lần nữa.”
Thành Cổ của Jerusalem nay lại được kết nối với khu mới bằng một cây cầu bộ hành. Cầu bắc từ cổng Jaffa đến Trung tâm thương mại Mamilla rực rỡ, một trong vài địa điểm hiếm hoi trong quốc gia này mà người Ả Rập với người Do Thái chung sống khá hòa bình. Như thường lệ, Gabriel và Lavon cãi nhau xem ăn ở đâu và cuối cùng chọn một nhà hàng nhỏ sang trọng mang phong cách châu Âu. Nước Israel thời thanh niên của hai người là một vùng đất không có truyền hình. Bây giờ nó đã có đủ đầy các tiện nghi của phương Tây, tất cả mọi thứ trừ hòa bình.
Tiếng nhạc techno-pop quá ồn, không thể trò chuyện gì bên trong, nên họ ngồi ngoài sân thượng ngập nắng ở một chiếc bàn nhìn ra các bức tường Thành Cổ. Mái tóc lưa thưa của Lavon bay phất phơ trong gió. Ông uống một viên thuốc trung hòa axit dạ dày trước khi chạm nĩa vào thức ăn.
“Vẫn phải uống thuốc à?” Gabriel hỏi.
“Ừ, vĩnh viễn, giống như Jerusalem vậy.”
Gabriel mỉm cười. Nhiều khi ngay cả ông cũng thấy khó tưởng tượng rằng cái người mọt sách, bị bệnh tưởng đang ngồi trước mặt ông lại là chuyên gia giám sát đường phố tài ba nhất mà Văn phòng từng đào tạo ra. Gabriel cộng tác với Lavon lần đầu tiên trong chiến dịch cơn Thịnh nộ của Chúa. Trong ba năm liền, họ là bạn đồng hành gần như hình với bóng, giết chóc cả trong đêm lẫn ban ngày, sống trong nỗi lo nơm nớp rằng lúc nào cũng có thể bị cảnh sát châu Âu tóm gáy. Khi đơn vị này giải tán, Lavon mắc nhiều chứng bệnh rối loạn căng thẳng, trong đó có cái dạ dày nổi tiếng là hay trở chứng. Ông về định cư ở Vienna, mở một văn phòng điều tra nhỏ có tên Điều tra và Bồi thường Thời chiến. Hoạt động với ngân sách eo hẹp, ông đã truy ra tung tích hàng triệu đô-la tài sản bị cướp đoạt trong vụ thảm sát Holocaust thời Đức quốc xã và đóng vai trò quan trọng trong việc lấy được một khoản dàn xếp nhiều tỉ đô-la từ các ngân hàng Thụy Sĩ. Nhưng khi một quả bom phá hủy văn phòng của ông và giết chết hai nhân viên, Lavon trở về Israel theo đuổi tình yêu đầu tiên của mình, khảo cổ học. Hiện nay, ông là giáo sư thỉnh giảng môn khảo cổ học Kinh Thánh tại Đại học Hebrew ở Jerusalem và thường xuyên tham gia các chuyến khai quật trên khắp cả nước, chẳng hạn như Đường hầm phía Tây này.
“Thật khó mà nhớ được nơi này trông như thế nào trước cuộc Chiến tranh sáu Ngày,” Lavon nói, chỉ về phía thung lũng bên dưới hiên nhà hàng. “Cha mẹ tôi từng dắt tôi ra đây xem hàng rào thép gai và các ụ súng của quân Jordan dọc giới tuyến đình chiến thành lập theo thỏa thuận năm 1949. Người Do Thái không được phép cầu nguyện tại Bức tường phía Tây hoặc đến viếng nghĩa trang trên núi Ô Liu. Ngay cả Kitô hữu cũng phải xuất trình giấy chứng nhận rửa tội mới được phép đến thăm các thánh địa của họ. Và giờ đây những người bạn phương Tây muốn chúng ta nhượng chủ quyền Bức tường cho người Palestine.” Lavon chậm rãi lắc đầu. “Vì hòa bình, tất nhiên.”
“Đó chỉ là một đống đá, Eli.”
“Những viên đá đó thấm đẫm máu tổ tiên anh. Và vì đống đá đó mà chúng ta có quyền có một quê hương ở đây. Người Palestine hiểu điều đó, đó là lý do tại sao họ thích vờ vịt rằng Đền Thánh chưa bao giờ tồn tại.”
“Chối bỏ Đền Thánh,” Gabriel nói.
Lavon gật đầu vẻ suy tư. “Đó là người anh em họ đầu tiên của trò chối bỏ Nạn diệt chủng Holocaust, và giờ nó cũng lan rộng không kém trong thế giới Ả Rập và Hồi giáo. Mối liên hệ khá đơn giản. Không có Holocaust, không có Đền Thánh...”
“Không có người Do Thái ở Palestine.”
“Chính xác. Nhưng không chỉ là nói suông. Sử dụng chủ quyền tôn giáo của Waqf, người Palestine đang hành động một cách có hệ thống nhằm xóa hết bằng chứng cho thấy từng có một ngôi đền thực sự tồn tại trên Núi Đền. Chúng tôi đang chiến đấu trên mặt trận khảo cổ ngay tại Jerusalem này hằng ngày. Một phe đang cố gắng để bảo vệ quá khứ, và phe kia đang cố gắng để tiêu hủy nó, chủ yếu dưới chiêu bài dự án xây dựng như Đền thờ Hồi giáo Marwani.”
Với sức chứa hơn bảy ngàn tín đồ, đền thờ nằm ở góc đông nam của Núi Đền, trong một gian phòng ngầm cổ xưa được gọi là chuồng ngựa của Solomon. Công trình xây dựng khổng lồ này đã làm mất sự ổn định của vùng cao nguyên linh thiêng và tạo ra một đoạn phình bấp bênh ở bức tường phía nam. Theo một thỏa thuận đàm phán giữa chính phù Israel và Waqf, một công ty kỹ thuật đến từ Jordan đã thực hiện việc tu sửa, để lại một mảnh vá chướng mắt màu trắng mà từ bên kia thành phố cũng trông rõ mồn một.
“Đương nhiên,” Lavon tiếp tục, “một dự án xây dựng quy mô cỡ Đền thờ Hồi giáo Marwani đã đào lên hàng tấn gạch vụn và đất đá. Và theo anh bọn Waqf đã làm gì với số đất đá đó?” Lavon nhanh chóng trả lời câu hỏi của chính mình. “Họ tống chúng vào bãi rác của thành phố hoặc đơn giản là ném qua bức tường xuống thung lũng Kidron. Tôi là thành viên đội đã soát lại chỗ đất đó. Chúng tôi tìm thấy hàng trăm hiện vật có từ thời Đền Thánh đầu tiên và thứ hai. Tất nhiên chúng thiếu bối cảnh khảo cổ đầy đủ bởi vì chúng đã bị tách khỏi môi trường ban đầu của mình.” Ông dừng lại, sau đó bổ sung, “Cũng giống như mảnh gốm Hy Lạp mà anh đang cầm đi dọ hỏi loanh quanh vậy.”
“Một người như anh thường có thể biết được rất nhiều điều từ một mảnh vỡ cỏn con.”
“Từ đâu anh có nó?”
“Từ nhà của một tên trộm mộ ở Cerveteri.”
“Roberto Falcone hử?”
Gabriel gật đầu.
“Đừng nói với tôi anh chính là người đã đẩy hắn vào thùng axit clohidric đó.”
“Nhúng axit không phải là phong cách của tôi, Eli. Cách đó quá tốn thời gian.”
“Và rất bầy hầy,” Lavon gật đầu đế thêm. “Tôi đoán tiếp theo anh sẽ nói là có mối liên hệ giữa Falcone và người phụ nữ bị rơi xuống từ mái vòm của Vương cung thánh đường.”
“Tên hắn là Carlo Marchese,” Gabriel nói. “Carlo kiểm soát đường dây buôn bán cổ vật ăn cắp toàn cầu. Hắn cũng đồng hội đồng thuyền với bọn Hezbollah, chúng ta sẽ triệt phá đường dây của hắn.”
“Chúng ta?”
“Tôi không thể làm điều đó một mình, Eli. Tôi cần một nhà khảo cổ có thể đọc bảng cân đối tài chính và biết cách dò ra các khoản tiền bẩn. Càng tốt nếu anh ta biết chút nghề theo dõi đường phố.”
“Tôi tưởng anh đang nghỉ hưu.”
“Tôi cũng tưởng thế,” Gabriel đáp, “nhưng vì lý do nào đó, có vẻ như tôi không bao giờ nghỉ được lâu.”
Lavon nhìn ra các bức tường của Thành Cổ.
“Anh đang nghĩ về cái gì vậy, Eli?”
“Không phải là cái gì. Mà là ai.”
“Rivka ư?”
Lavon gật đầu.
“Cô ấy đã đợi suốt hai ngàn năm,” Gabriel nói. “Vậy cô ấy có chờ thêm tí nữa cũng chẳng sao.”