← Quay lại trang sách

Chương 19 ĐẠI LỘ KING SAUL, TEL AVIV

CÓ MỘT THỨ nữa không hề thay đổi trong khi Gabriel vắng mặt: Đại lộ King Saul. Tẻ nhạt, chẳng có gì đặc sắc, và hay hơn hết là vô danh. Không có huy hiệu treo trên lối vào, không có chữ đồng công bố danh tính của người cư ngụ bên trong. Trên thực tế, không có gì cho biết đây là trụ sở của một trong những cơ quan tình báo đáng sợ và đáng nể nhất trên thế giới. Tuy nhiên, nếu quan sát kỹ hơn về kiến trúc thì ta có thể thấy sự tồn tại của một tòa nhà bên trong một tòa nhà, với nguồn điện, đường cấp nước, hệ thống thoát nước, và hệ thống liên lạc an ninh riêng. Nhân viên luôn kè kè theo hai chìa khóa. Một chìa để mở cánh cửa không biển hiệu ngay tại sảnh; chìa còn lại để điều khiển thang máy. Người nào phạm phải lỗi không thể tha thứ là đánh mất một hoặc cả hai chìa khóa của mình sẽ bị trục xuất đến hoang mạc Judean và bặt vô âm tín kể từ đấy.

Gabriel chỉ đi qua sảnh có một lần, một ngày sau cuộc gặp đầu tiên với Shamron. Từ thời điểm đó, ông chỉ bước vào tòa nhà bằng lối “đen”, thông qua hầm để xe. Bây giờ ông cũng đi theo lối đó, với Chiara và Eli Lavon sóng bước bên cạnh. Họ đi xuống ba tầng cầu thang, sau đó men theo một hành lang vắng lặng dẫn tới một cánh cửa đề 456C. Căn phòng đằng sau cánh cửa này đã từng là chỗ bỏ máy tính lỗi thời và đồ nội thất cũ, và thường được nhân viên trực đêm biến thành chốn hẹn hò lãng mạn bí mật. Giờ nó được cả Đại lộ King Saul gọi là Hang ổ của Gabriel. Ổ khóa mã hóa không dùng chìa được đặt mật mã là ngày tháng năm sinh của chính ông. Theo lời ví von hóm hỉnh của Văn phòng, đó là bí mật được bảo vệ chặt chẽ trên hết thảy của Israel.

“Sao vậy?” Eli Lavon hỏi khi thấy tay Gabriel lưỡng lự trên bàn phím.

“Già lẩm cẩm rồi.”

“Anh không nhớ nổi ngày sinh nhật của chính mình à?”

“Không,” Gabriel vừa đáp vừa nhập mật mã. “Tôi chỉ không thể tin rằng đã lâu đến vậy.”

Ông bước vào phòng, mở đèn và nhìn quanh. Bốn bức tường gắn chi chít tư liệu và bóng ma của các phi vụ trong quá khứ. Tất cả dẫn tới kết quả là nhiều sinh mạng vô tội được cứu sống, và tất cả đều thấm đẫm máu, phần lớn là máu của Gabriel, ông bước đến tấm bảng viết phấn, cái cuối cùng còn sót lại trong tòa nhà này, và nhìn thấy dấu vết mờ nhạt từ bút tích của mình - những bước chính của một nhiệm vụ được biết đến với bí danh là Kiệt Tác. Nó đã phá hoại thành công các cơ sở làm giàu uranium của Iran, và đã câu thêm cho Israel và phương Tây khoảng thời gian vài năm cực kỳ quan trọng. Bây giờ có vẻ như thời gian sắp hết. Người Iran lại một lần nữa ngấp nghé ngưỡng cửa thành công trong việc biến giấc mơ hạt nhân của họ thành hiện thực. Và dường như họ có ý định trừng phạt bất cứ ai dám ngáng đường mình, sử dụng Hezbollah, đại diện nhiệt tình của họ, làm công cụ trả thù.

“Nếu có một ngày Văn phòng định xây bảo tàng,” Lavon nói, “thì sẽ thật thiếu sót nếu không dựng bản sao của căn phòng này.”

“Thế họ sẽ đặt tên cho cái triển lãm đó là gì?”

“Ngôi làng của những kẻ bị nguyền rủa.”

Câu trả lời không đến từ Lavon mà từ một người cao ráo, vẻ trang trọng và truyền thống, đang đứng ngay cửa, trên tay cầm một bìa hồ sơ mỏng. Yossi Gavish là một nhân viên cấp cao của ban Nghiên cứu, bộ phận phân tích của Văn phòng. Sinh ra tại London và theo học tại trường All Souls, anh vẫn nói tiếng Do Thái với cách nhấn giọng của người Anh và không thể tập trung làm việc nếu không thường xuyên nhâm nhi trà Earl Grey và bánh quy trợ tiêu hóa McVitie.

“Tôi không thể tin mình lại quay về đây một lần nữa,” anh nói.

“Tôi cũng vậy.” Gabriel hất đầu về phía bìa hồ sơ và hỏi, “Trong đó có gì vậy?”

“Tất cả những gì mà Văn phòng hiện biết về Carlo Marchese.” Anh thả bìa hồ sơ lên một trong những chiếc bàn làm việc và nhìn quanh. “Uzi trông đợi chỉ dựa vào bốn người chúng ta mà có thể đấu với Carlo và cả tổ chức Hezbollah ư?”

“Đừng lo,” Gabriel vừa đáp vừa mỉm cười. “Những người khác sẽ đến đây sớm thôi.”

Phải mất non nửa buổi sáng thì bộ phận Nhân sự mới tìm ra các thành viên còn lại trong nhóm Gabriel và tống họ xuống nhà ngục nhỏ bé, bít bùng của ông. Phần lớn thời gian thì công tác điều chuyển diễn ra suôn sẻ, nhưng trong một số ít trường hợp, họ vấp phải sự kháng cự quyết liệt bất ngờ từ nội bộ. Mọi khiếu nại được gửi trực tiếp đến Uzi Navot, người đã tỏ rõ quan điểm rằng ông sẽ không chấp nhận việc bất đồng. “Đây không phải là thế giới Ả Rập,” ông nói với một trưởng bộ phận đang bất mãn. “Đây là Văn phòng. Và chúng ta vẫn theo chế độ chuyên chế.”

Họ lần lượt xuất hiện, giống như các thành viên của một đội xâm nhập trở về căn cứ sau một cuộc đột kích đêm thành công. Đầu tiên là Yaakov Rossman, một cựu sĩ quan chống khủng bố với khuôn mặt rỗ đến từ Shabak, cơ quan an ninh nội bộ của Israel, hiện đang quản lý các đặc vụ ở Syria và Lebanon. Sau đó đến một cặp nhân viên thực địa đa năng tên Oded và Mordecai, tiếp theo là Rimona Stern, một cựu sĩ quan tình báo quân đội hiện đang phụ trách các vấn đề liên quan đến chương trình hạt nhân của Iran. Là một phụ nữ đẫy đà như trong tranh Ruben với mái tóc màu sa thạch, Rimona cũng là cháu gái của Shamron. Gabriel đã biết cô từ khi cô còn là một đứa trẻ. Ký ức trìu mến nhất của ông về Rimona là một cô bé không biết sợ đứng trên một chiếc xe trượt đang lao thẳng xuống con dốc nhà ông chú nổi tiếng của cô.

Tiếp theo đó xuất hiện ở khung cửa là một phụ nữ nhỏ nhắn, tóc sẫm, mang tên Dina Sarid. Một quyển từ điển sống, cô có thể kể vanh vách thời gian, địa điểm, thủ phạm và số thương vong của mỗi hành động khủng bố nhằm vào Israel và phương Tây, bao gồm cả danh sách dài dằng dặc các tội ác được thực hiện bởi những sát thủ có nghề của Hezbollah. Trong nhiều năm, cô đã tập trung kỹ năng phân tích sắc bén của mình vào Imad Mughniyah, chỉ huy quân sự và là vị thượng tế khủng bố của Hezbollah. Thật vậy, nhờ có công lao rất lớn của Dina, Mughniyah đã gặp kết cuộc xứng đáng tại Damascus vào năm 2008, khi một quả bom phát nổ bên dưới chiếc xe của hắn. Dina đánh dấu cái chết của Mughniyah bằng cách đến viếng mộ mẹ và hai em gái của cô. Họ bị giết vào ngày 19 tháng 10 năm 1994, khi một tên đánh bom tự sát từ Hamas, một tổ chức khác của Iran, cho nổ tung chiếc xe buýt số 5 trên đường Dizengoff của Tel Aviv. Dina bị thương nặng trong vụ tấn công và giờ đi đứng vẫn còn hơi tập tễnh.

Như thường lệ, Mikhail Abramov đến cuối cùng. Cao lêu nghêu, nước da trắng với khuôn mặt xương xương và đôi mắt màu băng tuyết, anh đã di cư từ Nga đến Israel từ hồi niên thiếu và gia nhập vào Sayeret Matkal, đơn vị hoạt động đặc biệt tinh nhuệ của IDE Từng được Ari Shamron mô tả là “gã Gabriel không có lương tâm”, anh đã một tay hạ sát vài tên đầu sỏ khủng bố của Hamas và quân Thánh chiến Hồi giáo Palestine. Bây giờ anh đang thực hiện những nhiệm vụ tương tự cho Văn phòng, mặc dù khả năng của anh không chỉ giới hạn ở việc cầm súng.

Trong những hành lang và phòng họp của Đại lộ King Saul, chín con người đang tề tựu tại phòng 456C được biết đến với biệt danh “Barak” - nghĩa là sấm sét trong tiếng Do Thái - vì khả năng tập hợp và tấn công nhanh của họ. Họ đã sát cánh bên nhau, thường trong tình huống căng thẳng bức người, trên những chiến trường bí mật trải dài từ Moscow sang vùng biển Caribe đến hoang mạc Empty Quarter của Ả Rập Saudi. Gabriel đã may mắn sống sót sau nhiệm vụ trước của họ, nhưng giờ đây ông một lần nữa đứng trước mặt họ, lành lặn vô sự như chưa từng có chuyện gì, mê hoặc họ bằng một câu chuyện. Câu chuyện kể về một nữ giám tuyển bảo tàng có người cha từng là trộm mộ, về một linh mục giấu một bí mật nguy hiểm, và một tên cướp hào nhoáng, được trọng vọng tên là Carlo Marchese đang làm ăn với tổ chức khủng bố nguy hiểm nhất thế giới. Mục tiêu của hoạt động này, Gabriel cho biết, khá đơn giản. Họ sẽ tập hợp một bộ hồ sơ nhằm hủy hoại Carlo và nhờ đó khoét một lỗ hổng ngay vị trí trọng yếu của Hezbollah. Nhưng chỉ chứng minh Carlo Marchese là tội phạm thì không đủ. Họ sẽ phải tìm thấy cordata, sợi dây thừng kết nối trực tiếp Carlo với tổ chức Hezbollah. Và sau đó họ sẽ quấn nó quanh cổ hắn.

Chín người họ như một gia đình vậy, và cũng như mọi gia đình khác, họ có những ghen tuông nhỏ mọn, những oán giận chôn giấu trong lòng, và đủ mọi kiểu va chạm giữa anh chị em với nhau. Mặc dù vậy, họ vẫn phân thành tổ và cùng tập trung làm việc, tranh cãi chỉ ở mức tối thiểu. Yossi, Chiara, và Mordecai “chăm sóc” Carlo, trong khi trọng trách điều tra về mạng lưới gây quỹ tội phạm của Hezbollah thuộc về Dina, Rimona, Yaakov và Mikhail. Gabriel và Eli Lavon lửng lơ ở giữa, vì nhiệm vụ của họ là tìm ra mối liên hệ giữa hai tổ chức - hoặc, theo như cách Lavon ví von, chiếc nhẫn cưới đã kết hợp Carlo và Hezbollah trong cuộc hôn nhân tội lỗi này.

Chẳng mấy chốc, bốn bức tường của phòng 456C phản ánh rõ nét nhiệm vụ của họ. Một bên là những phác thảo về đế chế kinh doanh công khai của Carlo Marchese; bên còn lại là các chi tiết đã biết về tập đoàn Hezbollah. Nó chỉ có một nhiệm vụ duy nhất - cung cấp dòng tiền ổn định cho nhóm khủng bố nguy hiểm nhất mà thế giới từng được biết đến. Chính Hezbollah, chứ không phải al-Qaeda, là tổ chức đầu tiên sử dụng con người làm bom liều chết, và Hezbollah cũng là tổ chức đầu tiên có thể bành trướng thành một mạng lưới toàn cầu thực sự. Thật vậy, đã có hai dịp nó vươn vòi bạch tuộc của mình vượt Đại Tây Dương và tấn công các mục tiêu ở Buenos Aires - lần đầu vào năm 1992, khi nó đánh bom Đại sứ quán Israel, giết chết hai mươi chín người, và một lần nữa vào năm 1994, khi nó phá hủy trung tâm cộng đồng người Do Thái AMIA, giết thêm chín mươi lăm người khác. Hàng ngũ Hezbollah có hàng ngàn tên khủng bố được đào tạo chuyên nghiệp, nhiều kẻ trong đó ẩn mình giữa cộng đồng người Do Thái Lebanon lưu lạc trên toàn thế giới, và kho vũ khí khổng lồ bao gồm một số tên lửa Scud, khiến Hezbollah trở thành tổ chức khủng bố duy nhất trên thế giới sở hữu tên lửa đạn đạo. Nói tóm lại, Hezbollah có khả năng triển khai một cuộc tấn công khủng bố hủy diệt nhằm vào địa điểm và thời điểm do nó tùy nghi lựa chọn. Tất cả chỉ cần sự cho phép của các ông thầy đứng đầu nhóm Hồi giáo Shiite tại Tehran.

Thánh Allah truyền cảm hứng cho Hezbollah, nhưng chăm lo cho nhu cầu tài chính của tổ chức là những con người trần tục. Ở góc phòng phía tổ của Dina, mọi người đang cau mày lại. Dina đặt Ngân hàng Lebanon Byzantine ngay trung tâm mạng lưới. Sau đó, nhờ sự trợ giúp của Đơn vị 8200, cô tập hợp được một ma trận thông tin liên lạc và hệ thống điện thoại liên kết trải dài từ Beirut sang London đến tận Ngã ba Biên giới vô pháp, đầy hỗn loạn của Nam Mỹ. Ngân hàng Lebanon Byzantine - hay còn gọi tắt là LBB trong từ điển riêng của tổ - là chất keo kết dính tất cả với nhau. Nhờ các thám tử mạng của Đơn vị 8200, nhóm Dina có thể tùy ý nghiền ngẫm bảng sổ cái của tổ chức. Thật vậy, Yaakov còn đùa rằng anh biết rành về hoạt động và các khoản đầu tư của LBB hơn cả chủ tịch của ngân hàng. Mọi việc nhanh chóng sáng tỏ rằng tổ chức tài chính đó - “Tạm gọi nó là vậy,” Yaakov giễu -không hơn gì một tấm bình phong cho Hezbollah. “Theo dõi các khoản tiền,” Gabriel chỉ thị cho tổ, “và nếu may mắn, nó sẽ dẫn chúng ta đến chỗ người của Hezbollah bên trong hệ thống.”

Phần lớn thời gian, Gabriel dành những ngày này để vùi đầu vào học một khóa cấp tốc về ngành kinh doanh cổ vật bất hợp pháp toàn cầu - cụ thể là con đường đưa những kho báu lấp lánh trong quá khứ từ bàn tay bẩn thỉu của bọn cướp mộ và đạo chích ra thị trường hợp pháp. Công việc chủ yếu là vắt óc xem xét các bản chuyên khảo, danh mục, cơ sở dữ liệu của các bảo tàng, hồ sơ các đơn vị tổ chức đấu giá, và danh sách cổ vật được công bố của các nhà kinh doanh đồ cổ trên toàn thế giới. Nhưng thỉnh thoảng ông sẽ kéo Eli Lavon cùng sang Bảo tàng Rockefeller để thỉnh giáo một chuyên gia về ngành trộm cướp cổ vật của cơ quan cổ vật Israel. Ngoài ra, ông còn gọi điện cho một người bạn cũ trong giới nghệ thuật London, vốn có người quen tham gia “khâu tiêu thụ đen của ngành”, ông thích gọi như thế. Cuối cùng, ông âm thầm liên lạc lại với Tướng Ferrari, và lập tức nhận được bản sao của một số hồ sơ được Đại tướng bảo mật nghiêm cẩn nhất, dù rằng Gabriel đã thẳng thừng từ chối nêu danh tính mục tiêu của mình. Bây giờ cuộc điều tra đã trở thành một điệp vụ, và ông phải tuân thủ các quy tắc hoạt động.

Và thế là mười hai ngày và mười hai đêm dường như vô tận đã trôi qua, trong lúc từng tổ dốc sức ráp các mảnh ghép của câu đố. Lavon, nhà khảo cổ học Kinh Thánh, không thể ngăn mình ví cuộc điều tra như công cuộc xây dựng đường hầm dẫn nước thời cổ đại bên dưới Thành phố của David, nối liền suối Gihon với hồ Siloam. Dài hơn 500 mét, đường hầm đã được đục nên một cách vội vàng trên tầng đá nền vào thế kỷ VIII trước Công nguyên, khi thành phố chuẩn bị trước cho cuộc bao vây sắp tới của quân đội Assyria. Để đẩy nhanh tiến độ, vua Hezekiah ra lệnh cho hai nhóm riêng cùng một lúc đào từ hai đầu đường hầm. Bằng cách nào đó, họ đã gặp được nhau ở giữa đường hầm, và thế là nguồn nước cứu sinh chảy vào thành phố.

Nhóm điều tra cũng có trải nghiệm tương tự ngay sau nửa đêm của ngày thứ mười ba, khi đội của Gabriel nhận gói dữ liệu được Đơn vị 8200 chuyển giao hằng đêm. Nó bao gồm một danh sách liệt kê mọi khoản tiền ra vào từ các tài khoản của Ngân hàng Lebanon Byzantine ngày hôm đó. Tài liệu cho thấy, lúc 4:17 chiều, LBB nhận được số tiền trị giá một triệu rưỡi euro chuyển từ phòng triển lãm Galleria Naxos tại thị trấn nghỉ mát St. Moritz, Thụy Sĩ. Rồi vài phút sau 5:00 chiều theo giờ Beirut, một khoản trị giá 150.000 euro, mười phần trăm của khoản thanh toán ban đầu, được LBB chuyển vào một tài khoản tại Viện nghiên cứu các Công trình Tôn giáo, hay còn gọi là Ngân hàng Vatican. Sau này Eli Lavon mô tả bầu không khí trong phòng lúc ấy hơi giống như thời điểm hai toán thợ của vua Hezekiah lần đầu tiên nghe thấy tiếng đục đẽo của nhóm còn lại ở phía bên kia vách đá. Gabriel ra lệnh cho toàn đội nghiên cứu thêm, và khi bình minh hé rạng họ biết mình đã nắm được thóp con mồi.