← Quay lại trang sách

Chương 30 THỦ ĐÔ BERLIN

KẾ SÁCH TAQIYYA bắt đầu hai phút sau đó, lúc 8:14 giờ địa phương, khi cảnh sát Berlin nhận được một cuộc gọi thông báo về một ba-lô khả nghi được tìm thấy trong Europa Center, tòa nhà phức hợp văn phòng và trung tâm mua sắm nằm cạnh tàn tích của Nhà thờ Tưởng niệm Hoàng đế Wilhelm. Đó thật ra là một chiếc ba-lô vải bố te tua tơi tả, loại hay được sử dụng bởi nhóm goth, bọn đầu trọc*, bọn vô chính phủ, các tay bảo vệ môi trường cực đoan, và những đối tượng gây rối khác. Nó được đặt dưới chân một băng ghế, cách chiếc đồng hồ nước nổi tiếng của trung tâm mua sắm vài bước chân. Người dân, đặc biệt là trẻ em, rất thích tụ tập nơi đây. Sau đó, các nhân chứng đều mô tả người bỏ quên chiếc ba-lô là một phụ nữ Hồi giáo tầm hơn ba mươi tuổi. Họ đã đúng về tuổi tác của cô, nhưng sai về sắc tộc. Họ được tha thứ về sai lầm này vì lúc đó cô ta quả có đội khăn trùm đầu hijab.

Goth (ND) : một nhóm văn hóa thích vận trang phục đen. Đầu trọc (BT): nguyên văn là skinhead, một nhóm văn hóa mà hiện nay thường có khuynh hướng bạo lực, theo chủ nghĩa thượng tôn da trắng, thích cắt tóc sát đầu.

Người gọi báo tin về chiếc ba-lô khả nghi mô tả đồ đạc bên trong trông như một thiết bị nổ, và những cảnh sát mặc đồng phục đến hiện trường đầu tiên cũng đồng tình như thế. Họ ngay lập tức ra lệnh sơ tán khu vực quanh đồng hồ nước, rồi nhanh chóng mở rộng phạm vi ra toàn bộ trung tâm mua sắm và các tòa nhà lân cận. Đến 8:25, hàng ngàn người túa chạy ra đường còn các đơn vị cảnh sát từ khắp mọi nơi ở Berlin đổ về hiện trường.

Ngay cả người ở tại Khách sạn Adlon trang nghiêm và thanh bình cũng thấy rõ toàn thành phố Berlin đang chìm trong tình trạng khẩn cấp. Trong quầy bar nổi tiếng ở sảnh khách sạn, từng là nơi tiêu khiển của bọn tay sai cấp cao của Đức Quốc xã, khách khứa lo lắng tìm quản lý để hỏi thăm tình hình, một vài người bước ra vỉa hè dõi theo mấy chiếc xe cảnh sát đang hú còi ầm ĩ trên Đại lộ Unter den Linden. Tuy nhiên có một vị khách tỏ vẻ hững hờ trước sự kiện náo động này. Một quý ông đứng tuổi ăn mặc lịch lãm, điềm tĩnh gọi một ly whisky nhưng gần như chẳng buồn chạm môi mà đi thang máy lên thẳng căn phòng trên tầng cao nhất của khách sạn. Ở đó, bên cửa sổ, ông đứng xem đêm nhạc hội ánh sáng như thể tất cả là màn biểu diễn tổ chức cho riêng ông. Sau một lúc, ông rút ra một chiếc điện thoại di động từ túi áo vest và bấm gọi một số tự động được cài sẵn bởi một cậu chàng sành công nghệ. Ông nghe thấy một tràng tiếng tích tích và nhạc hiệu. Sau đó một giọng nam làu bàu cất tiếng chào ông.

“Tôi đang chứng kiến cảnh gì đây?” Ari Shamron hỏi.

“Khúc dạo đầu,” Uzi Navot trả lời.

“Khi nào màn sân khấu sẽ kéo lên mở ra hồi một?”

“Một phút nữa, hoặc có thể sớm hơn.”

Shamron ngắt điện thoại và phóng tầm mắt nhìn ánh đèn xanh nhấp nháy trên khắp thành phố. Đó là một cảnh tượng đẹp, ông thầm nghĩ. Bằng mánh lới đánh lừa, ngươi sẽ tiến hành chiến tranh.

Cùng lúc đó, cách khán đài độc đáo của Shamron khoảng ba dặm về phía tây, Yossi Gavish và Mikhail Abramov ngồi trên hai chiếc xe mô tô ở bìa một công viên nhỏ trên đường Hagenstrasse. Vào giờ đó, công viên thật vắng lặng, chỉ còn ánh đèn vàng ấm áp từ các ô cửa sổ thủy tinh của mô hình lâu đài Teutonic thu nhỏ rọi ra con đường. Mikhail đang xoa bóp đầu gối còn đau của mình. Yossi ngồi bất động, nhìn như thể được đúc bằng đồng.

“Thả lỏng nào, Yossi,” Mikhail nhẹ nhàng nói. “Anh cần phải thư giãn.”

“Anh đâu phải là người mang theo một quả bom trong túi của mình.”

“Nó sẽ chỉ phát nổ mười giây sau khi anh cài nó vào chiếc xe.”

“Lỡ nó trục trặc gì thì sao?”

“Không có chuyện đó đâu.”

“Chuyện gì mà không có lần đầu tiên.”

Một chiếc xe cảnh sát trắng và xanh lá cây vụt lao qua, tiếng còi hú inh ỏi. Yossi vẫn không nhúc nhích.

“Hít thở chút đi,” Mikhail bảo. “Nếu không, cảnh sát sẽ nghi anh chuẩn bị bắt cóc một nhà ngoại giao Iran đấy.”

“Tôi không hiểu tại sao mình lại được giao nhiệm vụ cài bom.”

“Phải có người lãnh nhiệm vụ đó.”

“Tôi là chuyên viên phân tích,” Yossi nói. “Tôi ôm sổ sách chứ không ôm bom.”

“Vậy anh có muốn hạ tên tài xế thay tôi không?”

“Sao tôi làm được chuyện đó? Làm hắn lóa mắt bằng trí tuệ và sự thông minh của mình hả?”

Trước khi Mikhail có thể trả lời, anh nghe thấy tiếng lách tách trong tai nghe thu nhỏ của mình, tiếp theo là ba tiếng nổ ngắn. Nhìn về phía trước con đường, anh thấy ánh đèn pha của một chiếc Mercedes đang đến gần. Khi nó lướt qua, anh có thể thấy Massoud đang ngồi ở ghế sau, tranh thủ xem qua giấy tờ nhờ ánh sáng từ đèn đọc sách riêng. Vài giây sau xuất hiện một chiếc BMW, Rimona cầm lái, Yaakov và Oded ngồi thẳng người phía sau. Cuối cùng, Eli Lavon rầm rập chạy đến trong một chiếc Passat đuôi dài, tay nắm chặt vô-lăng như thể đang điều khiển tàu dầu qua vùng biển đóng băng. Mikhail và Yossi vẫn giữ nguyên vị trí và chờ tín hiệu tiếp theo.

Họ đã đến địa điểm mà Shamron thích gọi là ngã ba hành động. Đến giờ phút này, họ vẫn chưa vượt qua ranh giới, cũng chưa có hành vi phạm tội, trừ một vụ đe dọa nổ bom nho nhỏ trong trung tâm mua sắm Europa Center. Cả đội vẫn có thể hủy bỏ hành động, tập trung lại, đánh giá lại, và tiến hành vụ bắt cóc vào một đêm khác. Xét theo nhiều khía cạnh, đó là quyết định dễ dàng hơn - quyết định tra gươm vào vỏ thay vì vung gươm, Shamron gọi nó là “cửa thoát hiểm cho kẻ hèn nhát”. Nhưng Shamron thì luôn tin rằng có nhiều nhiệm vụ thất bại vì sự do dự hơn là liều lĩnh.

Tuy nhiên, vào đêm đó, quyết định này không nằm trong tay của Shamron, mà của một chiến binh bí mật đầy thương tích ngồi một mình trong căn nhà trống ở Wannsee. Ông đang nhìn chăm chú vào màn hình máy tính, theo dõi đội hình của mình và đối tượng mục tiêu đang dẫn đến điểm không-có-đường-lui. Đó là đường Königsallee, chạy từ khu công viên cây xanh của Grunewald đến khu Kurfurstendamm đông đúc - và một khi Massoud qua khỏi đó, hắn sẽ thoát khỏi tầm tay của họ. Gabriel mở bộ đàm và hỏi xem có ai phản đối vào phút chót không. Không nghe gì, ông ra lệnh tấn công. Sau đó, ông nhắm mắt lại và lắng nghe tiếng còi hụ.

Sau này, một số người tại Đại lộ King Saul đã phàn nàn tại sao không có băng ghi hình nhiệm vụ. Tuy nhiên, Shamron lại nghĩ ngược lại. Ông tin rằng băng ghi hình các hoạt động, giống như những nhiệm vụ tự sát, nên dành cho kẻ thù của Israel. Bên cạnh đó, ông bảo, không máy quay nào có thể nắm bắt trọn vẹn từng chi tiết hoàn hảo của lần hành động đó. Nó là một bài sử thi, một truyền thuyết sẽ được lưu truyền cho các thế hệ mai sau bên ánh lửa trại bập bùng giữa hoang mạc.

Nó bắt đầu bằng một chuyển động gần như không thể nhận thấy của hai chiếc xe - một do Rimona điều khiển, và một của Eli Lavon. Cùng một lúc, cả hai đều chạy chậm lại và hơi dịch sang phải, mở một khoảng trống thoáng đãng cho Yossi tiếp cận cản sau của chiếc Mercedes. Anh vặn ga lao tới và trong tích tắc đã nhìn qua vai trái của tên ác quỷ. Anh cẩn thận thò tay vào túi áo khoác và bấm kích hoạt quả bom. Sau đó, anh nhìn thẳng phía trước và chờ cô gái bước ra đường.

Cô nàng mặc một chiếc áo khoác màu xanh lá neon với sọc phản quang trên tay áo và đang đẩy một chiếc xe đạp với bóng đèn rực sáng trên ghi-đông. Một tiếng trước đó, chính cô đã mang chiếc ba-lô vải tạo ra cảnh hỗn loạn giữa trung tâm Berlin. Còn bây giờ, khi đặt chân xuống lối qua đường sáng trưng dành cho khách bộ hành, bước đi hơi khập khiễng, cô chẳng mang theo gì ngoài một hộ chiếu giả và nỗi thù hận vô biên đối với gã đàn ông ngồi trên ghế sau của chiếc Mercedes đang đến gần.

Trong một giây, tất cả bọn họ đều sợ rằng tay tài xế của Massoud định sử dụng quyền miễn trừ ngoại giao của hắn để tông thẳng vào cô. Nhưng cuối cùng, hắn đạp mạnh phanh, và chiếc xe màu đen to đùng thắng két lại giữa một đám khói mù xanh xám. Yossi lách sang trái để tránh cản sau của chiếc xe, sau đó hét lên vài lời tục tĩu qua cửa sổ tài xế trước khi bí mật gắn quả bom vào vòm bánh xe phía trước. Khi đó cô gái đã sang đường an toàn. Tài xế của Massoud còn vẫy tay xin lỗi cô khi tiếp tục lái xe đi. Cô chấp nhận lời xin lỗi với một nụ cười trong lúc đi tiếp với vẻ vội vàng quá mức.

Sáu giây sau, thiết bị phát nổ. Với lượng thuốc nổ được tính toán chính xác và nhồi nhét cẩn thận, quả bom hướng toàn bộ lực nổ vào bên trong, không gây bất cứ thiệt hại hoặc thương vong nào ngoài dự kiến. Tiếng nổ của nó chắc chắn lớn hơn lực sát thương, mặc dù sức nổ đã đủ xé nát lốp xe trước bên trái và thổi tung mui xe. Mù mịt và bối rối, tay tài xế theo bản năng ngoặt xe về phía bên phải. Nó lao lên lề đường, phá tan hàng rào sắt trước khi dừng lại trong Hagenplatz, một mảng cỏ xanh hình tam giác mà cả đội trìu mến gọi là Quảng trường Kem.

Nếu kế hoạch có một điểm yếu thì đó chính là trạm dừng xe buýt nằm cách ngã tư vài mét. Vào tối hôm đó, có năm người đang chờ xe buýt - một cặp vợ chồng già người Đức, hai anh chàng gốc Thổ Nhĩ Kỳ, và một thiếu nữ trạc tuổi đôi mươi trông mỏng manh, nhợt nhạt như thể cô vừa thoát khỏi một tòa nhà bị quân Đồng Minh ném bom. Những gì họ chứng kiến tiếp theo có vẻ chỉ là hành động tử tế từ ba người Samaritan tốt bụng tình cờ có mặt tại hiện trường. Một trong ba người, anh chàng đi mô tô dong dỏng cao, ngay lập tức chạy đến giúp đỡ tay tài xế đang hoảng loạn - đấy là các nhân chứng bên trạm xe buýt tưởng vậy. Tuy nhiên, họ không để ý thấy anh chàng đi mô tô nhanh chóng tước lấy khẩu súng lục trong bao da vắt trên vai tay tài xế. Họ cũng không nhìn thấy anh chàng tiêm một liều an thần mạnh vào đùi trái tài xế.

Hai người Samaritan tốt bụng còn lại tập trung sự chú ý vào người đàn ông ngồi trên băng ghế sau của chiếc Mercedes. Do không cài dây an toàn nên ông ta hết sức choáng váng vì chấn động của vụ va chạm. Một mũi thuốc an thần càng khiến tình trạng ông ta tệ hơn, mặc dù các nhân chứng cũng chẳng thấy được điều này. Họ chỉ nhớ cảnh hai người đàn ông đỡ vị hành khách bị thương ra khỏi chiếc xe hỏng và cẩn thận đặt ông ta vào xe của hai người. Ngay lập tức, chiếc xe lao bắn về phía trước, rẽ trái về phía vùng Grunewald hoang vu - kể cũng lạ, vì bệnh viện gần nhất ở hướng bên phải. Chiếc mô tô đua theo sau. Chiếc Passat đuôi dài cũng bám sát, cầm lái là một người trông thật hiền lành và dường như không biết chuyện gì vừa xảy ra. Sau đó, khi cảnh sát thẩm vấn, các nhân chứng chợt nhận ra mọi việc đều được thực hiện gần như trong im lặng. Trong thực tế, chỉ có một trong số ba người Samaritan tốt bụng, người có mái tóc đen và gương mặt rỗ hoa, mở miệng nói chuyện với vị hành khách bị thương. “Đi với chúng tôi nào,” anh nọ đã nói thế. “Chúng tôi sẽ bảo vệ anh khỏi đám Do Thái.”

Quả đúng như Gabriel dự đoán, vụ bắt cóc diễn ra trong thời gian ngắn hơn so với dự liệu, vỏn vẹn mười ba giây từ đầu đến cuối, trong đó việc lôi cổ Massoud ra khỏi xe chỉ mất có tám giây. Ngồi một mình trong ngôi nhà an toàn ở Wannsee, ông lắng nghe khi cả đội cùng đổi xe lần đầu trong đêm và sau đó theo dõi ánh đèn hiệu của họ đổ thành vệt về phía bắc dọc cao tốc Autobahn E51. Bây giờ thời gian rất quý giá. Họ cần tranh thủ từng giây từng phút. Vài tích tắc chênh lệch có thể là khoảng cách giữa thành công và thất bại, giữa sự sống và cái chết. Gabriel không thể làm gì hơn. Ông đã châm lửa đốt thành phố của những cơn ác mộng trong ông. Giờ ông chỉ việc xem nó bừng cháy.

Ông gửi một tin nhắn về tổng bộ King Saul thông báo giai đoạn đầu tiên của nhiệm vụ đã diễn ra trót lọt. Sau đó, ông bước ra ngoài và leo lên một chiếc sedan Audi. Gabriel lái ngang qua ngôi biệt thự ven hồ hắc ám, nơi kế hoạch giết ông bà ngoại của ông đã được vạch ra, rồi phóng về phía đường cao tốc Autobahn. Cảnh sát Berlin vẫn đang đổ về phía Europa Center. Nhưng kế đánh lạc hướng này sẽ che mắt được bao lâu nữa?

Trên tầng cao nhất của Khách sạn Adlon, Ari Shamron đứng lẻ loi bên cửa sổ, nhìn đèn xe cảnh sát màu xanh xoay tròn dưới chân mình. Trong những phút vừa qua, mọi ánh đèn đều dồn về cùng một điểm ở phía tây Berlin. Nhưng lúc 8:36, ông nhận thấy có một sự thay đổi rõ rệt. Ông chẳng buồn yêu cầu Đại lộ King Saul giải thích, màn kịch đã hạ. Và giờ cuộc đua ra biên giới chính thức bắt đầu.