Chương 29 THỦ ĐÔ BERLIN
SHAMRON ĐĂNG KÝ phòng tại Khách sạn Adlon dưới tên Rudolf Heller, một trong những bí danh yêu thích của ông tại châu Âu. Gabriel muốn tránh camera an ninh của khách sạn cổ kính trứ danh này, nên cả hai thả bộ men theo bìa công viên Tiergarten. Không khí đột nhiên chuyển lạnh, và gió rít lùa qua các hàng cột ở cổng Brandenburg, Shamron vận một chiếc áo khoác len dài, đội mũ phớt và mang kính màu, trông ông giống kiểu doanh nhân kiếm tiền bằng những cách mờ ám và không bao giờ thua khi chơi bài baccarat, ông dừng lại trước đài tưởng niệm nạn nhân Holocaust mới xây của Berlin, một cảnh tượng ảm đạm với những khối chữ nhật xám ngoét, và cau mày bất mãn.
“Chúng trông giống mấy cái thùng Container đang chờ bốc dỡ lên tàu vậy.”
“Kiến trúc sư muốn tạo cảm giác bối rối và bất an, vì công trình gợi nhớ sự hủy diệt có hệ thống hàng triệu mạng người giữa cái loạn lạc của chiến tranh.”
“Anh thật sự nghĩ vậy sao?”
“Tôi thấy để một đài tưởng niệm như vầy tồn tại ngay đây là cả một phép lạ nhỏ. Họ có thể giấu nhẹm nó trong một cánh đồng ở nông thôn. Nhưng họ đặt nó ở đây, ngay trung tâm của một Berlin hợp nhất, ngay bên cạnh cổng Brandenburg.”
“Anh đánh giá họ quá cao rồi, con trai. Sau chiến tranh, họ đều vờ vịt như đã không nhận ra khi biết bao hàng xóm của mình biến mất trong đêm. Mãi cho đến khi chúng ta bắt cái gã cầm đầu làm việc ở ngay kia thì Đức và cả thế giới mới thực sự hiểu được nỗi kinh hoàng của nạn diệt chủng HolocauSt.”
Ông chỉ tay xuyên qua công viên Tiergarten, về hướng trạm Kurhirstenstrasse. Ở đó, trong một tòa nhà đồ sộ từng là hội tương trợ cộng đồng Do Thái, Adolf Eichmann đã đặt tổng hành dinh của mình. Tuy nhiên, mắt Gabriel vẫn dán chặt trên các phiến đá hình toa xe chở hàng màu xám của đài tưởng niệm.
“Ông nên viết tất cả ra.” ông ngưng lại và nhìn Shamron. “Trước khi quá muộn.”
“Tôi chưa đi xa đâu.”
“Cả ông cũng không thể sống đời, Ari. Ông nên nhìn thời gian để cầm bút.”
“Tôi luôn thấy mấy cuốn hồi ký của điệp viên thật tẻ nhạt. Với lại, làm vậy được ích gì?”
“Nó sẽ nhắc thế giới lý do tại sao chúng ta sống ở Israel thay vì ở Đức hay Ba Lan.”
“Thế giới chẳng quan tâm đâu,” Shamron đáp lời với một cái phất tay gạt bỏ. “Và Holocaust không phải là lý do duy nhất mà chúng ta gọi lãnh thổ Israel là nhà. Chúng ta ở đó bởi vì ngay từ đầu nó là quê hương xứ sở của ta. Chúng ta thuộc về nơi đó.”
“Ngay cả một số người bạn của chúng ta cũng không còn chắc về điều đó nữa.”
“Đó là bởi vì Palestine và đồng minh của họ đã thuyết phục phần lớn thế giới tin rằng chúng ta chính là kẻ xâm lăng vùng đất Ả Rập. Họ thích giả vờ rằng các vương triều cổ đại của Israel là một huyền thoại, rằng Đền Thánh Jerusalem chỉ là một câu chuyện tồn tại trong Kinh Thánh.”
“Ông nói giống hệt Eli.”
Shamron thoáng nở nụ cười. “Anh bạn Eli của anh, bằng cách riêng của mình, đang tiến hành một cuộc chiến giữa những cái hào khai quật bên dưới Bức tường phía Tây. Bạn hữu Hồi giáo của chúng ta đã thuận tiện quên bén rằng Đền thờ Mái vòm của Đá và Đền thờ al-Aqsa của họ được xây dựng trên tàn tích của Đền Thánh đầu tiên và thứ hai của người Do Thái. Cuộc đấu tranh chính trị giành Palestine giờ trở thành một cuộc chiến tôn giáo tranh Jerusalem. Và chúng ta phải chứng minh với thế giới rằng chúng ta là người ở đó trước.”
Một cơn gió luồn giữa các phiến đá trong đài tưởng niệm tạo ra âm thanh như tiếng than van. Shamron kéo cao cổ áo khoác và rẽ ở góc đường vào con phố đặt theo tên của nữ triết gia và nhà lý luận chính trị Hannah Arendt, người đã đưa ra khái niệm “sự tầm thường của cái ác” nhằm mô tả vai trò của Eichmann trong cuộc hủy diệt sáu triệu người Do Thái ở châu Âu. Shamron, người từng ở một mình suốt nhiều giờ với kẻ sát nhân bên trong một ngôi nhà an toàn ở Buenos Aires, đã mô tả tính cách hắn tốt nhất cũng là lầm lạc. Ông bước vào một quán cà phê, rồi, sau khi liếc thấy biển hiệu ghi Không hút thuốc, chọn một bàn ở bên ngoài.
“Những người Đức lành mạnh,” ông nói, châm một điếu thuốc. “Đúng là cái mà thế giới cần.”
“Tôi cứ ngỡ ông đã tha thứ cho họ.”
“Tôi đã tha thứ,” Shamron nói, “nhưng sẽ không quên. Tôi cũng mong chính phủ của họ sẽ giữ khoảng cách với nhà nước Cộng hòa Hồi giáo Iran. Nhưng từ lâu tôi đã thấm thía bài học là đừng phí công cầu nguyện cho những chuyện bất khả thi.”
Shamron rơi vào im lặng khi cô phục vụ bàn xinh xắn, với làn da trắng như sữa, mang cà phê đến cho họ. Khi cô gái quay đi, ông nhìn quanh phố sá đông đúc và tự cho mình một nụ cười.
“Ông cười cái gì?” Gabriel hỏi.
“Khi vừa thoát khỏi nhà tù Ả Rập Saudi, anh tuyên bố với tôi rằng sẽ không bao giờ làm việc cho Văn phòng nữa. Và giờ đây anh đang chuẩn bị thực hiện một trong những nhiệm vụ táo bạo nhất từ trước đến nay của chúng ta, tất cả chỉ vì một cô nàng đã gieo mình trong Vương cung thánh đường Thánh Peter.”
“Cô ấy có một cái tên,” Gabriel trả lời. “Và cô ấy không gieo mình. Cô ấy bị đẩy bởi Carlo Marchese.”
“Chúng ta sẽ đối phó với Carlo khi đã tính sổ xong Massoud.”
“Chắc ông đã rà lại kế hoạch rồi?”
“Từ đầu chí cuối. Và bản năng tôi mách bảo rằng anh chỉ có chưa đến ba mươi giây để túm Massoud lên chiếc xe đầu tiên.”
“Chúng tôi đã tập dượt trong giới hạn hai mươi giây. Nhưng theo kinh nghiệm của tôi, mọi chuyện luôn diễn ra nhanh hơn khi thật sự hành động.”
“Đặc biệt là khi có anh tham gia,” Shamron hóm hỉnh nói. “Nhưng đêm nay anh chỉ là khán giả thôi.”
“Một khán giả rất bồn chồn.”
“Phải vậy thôi. Nếu xảy ra bất trắc, đây sẽ là một thảm họa ngoại giao, chưa kể nó sẽ là một thắng lợi lớn về mặt tuyên truyền cho người Iran. Thế giới dường như không để ý hay quan tâm đến chuyện bọn chúng nhắm vào dân tộc ta bất cứ khi nào có cơ hội. Nhưng nếu ăn miếng trả miếng, chúng ta sẽ bị gắn mác là phường tội phạm vũ trang vô lại.”
“Họ còn có thể gọi chúng ta bằng những từ tệ hại hơn.”
“Chẳng hạn như?”
“Yếu hèn,” Gabriel trả lời.
Shamron gật đầu đồng ý và tư lự khuấy ly cà phê của mình. “Trong lần hành động này, chuyện lôi Massoud ra khỏi xe hắn rồi tống vào xe anh là phần dễ nhất. Thuyết phục hắn khai ra là chuyện khác.”
“Chắn hẳn ông có gợi ý cho chúng tôi. Nếu không ông đã không lặn lội đến tận đây.”
Shamron gật đầu thừa nhận. “Massoud không phải là loại người dễ dọa. Cách duy nhất để thành công là cho hắn thấy một viễn cảnh còn tệ hơn cả cái chết. Sau đó anh ném cho hắn một cái phao cứu sinh và hy vọng hắn sẽ bắt lấy nó.”
“Và nếu hắn bắt lấy?”
“Anh sẽ muốn moi móc đến mẩu thông tin cuối cùng.
Nhưng theo thiển ý của tôi, làm vậy là sai lầm. Vả lại,” ông nói thêm, “cũng không đủ thời gian, chỉ tập trung lấy thông tin tình báo cần thiết để dừng cuộc tấn công này lại. Và sau đó...”
Giọng của Shamron nhỏ dần. Gabriel hoàn thành câu nói dang dở cho ông.
“Thả hắn đi.”
Cau mày, Shamron chậm rãi gật đầu. “Chúng ta không giống kẻ thù của mình. Và điều đó có nghĩa là chúng ta không giết những người mang hộ chiếu ngoại giao, cho dù tay chúng có vấy máu con em chúng ta đi nữa.”
“Và ngay cả khi chúng ta biết hắn sẽ tiếp tục giết chóc trong tương lai?”
“Anh không có lựa chọn nào ngoài việc thỏa thuận giao dịch với con quỷ khát máu đó. Massoud phải tin rằng anh sẽ không phản bội hắn. Và e là sự tin tưởng như thế không thể gầy dựng được bằng cách sử dụng khăn bịt mắt và mũ trùm đầu để tra khảo. Anh sẽ phải trưng cho hắn thấy gương mặt nổi tiếng của anh và nhìn thẳng vào mắt hắn.” Shamron dừng lại, sau đó nói thêm, “Trừ khi anh muốn nhường ghế thẩm vấn cho người khác.”
“Ai cơ?”
Shamron không nói gì.
“Ông ư?”
“Tôi là lựa chọn hợp lý nhất. Nếu Massoud thấy anh ở đầu kia bàn thẩm vấn, hắn sẽ có lý do để lo sợ mình không thể sống sót qua thử thách lần này. Nhưng nếu đổi lại hắn thấy tôi...”
“Hắn sẽ thấy toàn thân ấm áp à?”
“Hắn sẽ biết mình đang giao dịch với lãnh đạo cấp cao của chính phủ Israel,” Shamron trả lời. “Và có thể hắn sẽ sẵn lòng hợp tác hơn.”
“Tôi rất cảm kích tinh thần của lời đề nghị này, Abba”.
“Nhưng anh không định chấp nhận nó.” Shamron dừng lại, sau đó hỏi, “Anh biết rằng hắn sẽ dành phần đời còn lại để truy giết anh.”
“Hắn sẽ phải xếp hàng chờ đến lượt.”
“Israel luôn rộng cửa đón anh trở về.”
“Ông không bao giờ bỏ cuộc, phải không?”
“Từ đó không có trong bản chất của tôi.”
“Lúc đó tôi sẽ làm gì để kiếm sống?”
“Anh có thể giúp tôi viết sách.”
“Chúng ta sẽ giết nhau mất.”
Shamron từ từ dụi tắt điếu thuốc, cho thấy đã đến lúc phải đi. “Anh không thấy nó khá thích hợp sao?”
“Cái gì thích hợp?”
“Rằng nhiệm vụ cuối cùng của anh sẽ diễn ra ở đây, tại thành phố của gián điệp.”
“Đây là thành phố của người chết,” Gabriel nói. “Và tôi muốn rời khỏi đây càng sớm càng tốt.”
“Hãy xem Massoud là món quà lưu niệm, và làm gì thì làm, đừng để bị tóm.”
“Điều răn thứ mười một của Shamron.”
“Amen.”
Hai người chia tay nhau dưới cổng Brandenburg, Shamron quay trở về phòng mình tại Khách sạn Adlon; Gabriel quay lại lối đi bộ quanh công viênTiergarten. Ông loanh quanh ở đó cho đến khi chắc chắn mình không bị theo dõi, sau đó mới trở về ngôi nhà an toàn ở Wannsee. Vừa bước vào, ông thấy cả đội đang kiểm tra lại danh sách công việc lần cuối. Đến hoàng hôn, từng người một lần lượt lẻn ra khỏi nhà, người sau cẩn thận đi cách người trước một khoảng thời gian hợp lý và đúng 6:00 chiều, tất cả đều vào vị trí sẵn sàng hành động. Gabriel sục sạo từng phòng của ngôi nhà cũ, xóa sạch dấu vết của họ. Sau đó, ông ngồi một mình trong bóng tối, máy tính xách tay mở sẵn trên đùi. Trên màn hình là cảnh Đại sứ quán Iran có độ phân giải cao, nhờ một máy quay lén được giấu trong chiếc xe đậu đúng luật ở bên kia đường. Lúc 8:12 tối, cổng an ninh của Đại sứ quán từ từ mở ra, và một chiếc sedan Mercedes màu đen chậm rãi tiến vào khung hình. Nó rẽ trái và đi qua rất gần máy quay - gần đến độ Gabriel cảm thấy như ông có thể giơ tay ra và chộp cổ gã hành khách duy nhất đang ngồi ở ghế sau. Thay vào đó, ông nhấc chiếc bộ đàm lên và thông báo cho cả đội, tên ác quỷ đang tới.