← Quay lại trang sách

Chương 50 THÀNH VATICAN

DONATI GỌI CHO Carlo Marchese vào buổi chiều muộn hôm sau và nói rằng Đấng đại diện Chúa Jesus có lời muốn nói với hắn ta.

“Khi nào vậy?” Carlo hỏi.

“Tối nay.”

“Tôi có việc rồi.”

“Vậy hãy hủy nó đi.”

“Mấy giờ?”

“Chín giờ,” Donati nói. “Tại Cổng Đổng.”

Giờ hẹn không hề được chọn ngẫu nhiên, nhưng Carlo dường như chẳng để ý. Hắn chừng như không nhận ra có gì lạ khi thấy cha Mark đang đứng chờ mình. Carlo thuộc cấp bậc không cần phải dừng tại bàn kiểm soát trên đường đi đến Vương cung thánh đường. Hắn có thể tự tìm đường đi từ Cổng Đồng đến căn hộ riêng của Đức Giáo hoàng.

“Lối này,” cha Mark nói, nắm lấy khuỷu tay của Carlo với một cái siết chặt, có thể thấy rằng anh đã nâng nhiều thứ hơn ngoài chén thánh, cha dẫn hắn lên cầu thang Scala Regia và tiến vào Nhà nguyện Sistine, ở đó họ băng qua dưới bức Sự phán xét cuối cùng của Michelangelo, một viễn cảnh về ngày tận thế và sự trở lại của Chúa Jesus, trước khi trèo xuống một đường ống màu xanh xám dẫn tới Vương cung thánh đường. Khi họ đi đến phía bên kia của khoảng sân rộng lớn, Carlo bắt đầu có những biểu hiện bồn chồn. Cảm giác này càng tăng thêm khi Cha Mark báo rằng họ sẽ đi thang bộ thay vì thang máy để lên mái vòm. Sử dụng cầu thang là ý tưởng của Tướng Ferrari, ông muốn Carlo phải chịu khổ, dù nhỏ nhặt, trên đường đi đến lễ xá tội.

Họ mất khoảng hơn năm phút leo cầu thang. Khi họ đặt chân đến đầu cầu thang, Carlo muốn ngừng lại lấy hơi, nhưng cha Mark thúc hắn bước tiếp vào ban công tham quan dưới mái vòm. Có một người mặc áo mưa đang đứng ở lan can, nhìn xuống sàn nhà bên dưới của Vương cung thánh đường. Khi Carlo tiến vào, người đó quay lại nhìn hắn mà không nói một lời. Carlo lạnh cứng người và giật lùi ra sau.

“Có chuyện gì không ổn sao, Carlo? Như thể anh vừa trông thấy ma vậy.”

Carlo quay lại và trông thấy Gabriel đứng ngay vị trí mà Cha Mark vừa đứng.

“Chuyện gì đây, Allon?”

“Ngày phán xét, Carlo.”

Gabriel bước đến bên Paola. Cô chăm chăm nhìn xuống sảnh lần nữa, như thể không biết gì về sự hiện diện của Gabriel.

“Đây chính là nơi mà Claudia đang đứng khi bị sát hại. Hung thủ đã tiến đến từ phía sau và bẻ gãy cổ của cô trước khi ném cô qua lan can để ngụy tạo hiện trường tự sát. Đó là phần dễ. Phần khó là lúc đầu, làm sao dẫn dụ cô ấy leo lên ban công này.” Gabriel dừng lại. “Nhưng anh đã xoay xở làm được điều đó, phải không, Carlo?”

“Tôi không có liên quan gì tới cái chết của cô ấy, Allon.”

Tiếng Carlo tuyên bố vô tội vang vọng trong mái vòm trước khi lãnh nhận cái chết im lìm xứng đáng. Ánh mắt hắn giờ đây dán chặt vào cổ của Paola. Gabriel đặt nhẹ tay mình lên vai cô.

“Claudia đã lên lịch hẹn gặp Donati đêm đó để nói với Cha rằng anh đang điều hành một đế chế tội ác ngay từ Ngân hàng Vatican. Nhưng giữa chừng cô ấy lại hủy bỏ cuộc hẹn không lý do. Cô ấy đã hủy hẹn," Gabriel nhấn mạnh, “bởi vì có ai đó đã bảo cô ấy đến mái vòm của Vương cung thánh đường, và người đó sẽ cho cô biết thông tin cần thiết để hủy hoại ông. Đó là người mà cô ấy tin tưởng, người mà cô ấy đã từng làm việc chung.” Gabriel dừng lại lần nữa. “Một người giống như vợ của ông.”

Carlo dường như đang cố trấn tĩnh, nhưng sự hiện diện của Paola đã ngăn cản điều đó. Hắn vẫn nhìn đăm đăm vào cổ của cô. Vì vậy, hắn không nhận ra rằng Tướng Ferrari đang đứng sau hắn một vài bước.

“Vào buổi tối hôm đó,” Gabriel tiếp tục, “Claudia nhận được tin nhắn từ Veronica yêu cầu cô ấy đến đây. Cô ấy gọi cho Veronica trước chín giờ vài phút, nhưng không ai nhấc máy. Đó là vì Veronica không giữ điện thoại. Mà là anh, Carlo.”

“Anh không thể chứng minh được gì hết, Allon.”

“Hãy nhớ xem mình đang đứng ở đâu, Carlo.”

Paola trao cho Carlo một cái nhìn buộc tội trước khi cô chầm chậm cất bước dọc ban công.

“Nhưng ai có đủ khả năng lãnh nhận việc sát hại bạn thân của vợ anh?” Gabriel hỏi. “Đó phải là người có thể dễ dàng ra vào Tòa Thánh, một người không cần dừng lại tại bàn kiểm soát trước khi vào thánh đường.” Gabriel mỉm cười. “Có biết ai giống như thế không, Carlo?”

“Anh không thực sự tin rằng tôi đã tự tay giết chết cô gái đáng thương ấy chứ.”

“Tôi biết anh là hung thủ. Và cô ấy cũng vậy,” Gabriel vừa nói thêm vừa đưa mắt nhìn sang Paola. “Hãy giúp linh hồn cô ấy được bình an, Carlo. Hãy thú nhận rằng anh đã sát hại em gái cô ấy hòng bảo toàn địa vị của mình trong Ngân hàng Vatican. Hãy thú tội đi.”

Sự hiện diện của Paola rõ ràng đã mất tác dụng và không còn chế ngự được Carlo. Giờ đây hắn đăm đăm nhìn vào Gabriel với nụ cười ngạo nghễ mà hắn từng mang trên gương mặt vào cái đêm hắn cố sát hại Gabriel và Chiara. Hắn lại là một Carlo bất khả xâm phạm, là Carlo không biết sợ hãi.

“Anh là thành viên trong một câu lạc bộ rất nhỏ,” Gabriel nói. “Anh là người duy nhất còn đi lại trên mặt đất này khi từng cố gắng giết chết vợ tôi. Nếu như anh còn muốn sống ở đây với chúng tôi, thì tôi khuyên anh hãy lập tức từ chức ở Ngân hàng Vatican. Nhưng đầu tiên,” Gabriel nói, nhìn sang Paola lần nữa, “tôi muốn anh nói cho cô ấy biết lý do vì sao anh lại sát hại em gái cô ấy.”

“Anh có thể buộc tôi từ chức nhưng...”

“Vợ của anh đã biết mọi chuyện,” Gabriel nói, ngắt lời hắn. “Tôi đã kể cô ấy nghe tất cả trước lúc Đức Thánh Cha đến Jerusalem. Cô ấy tin lời tôi, bởi vì cô ấy nhớ rằng vào cái đêm Claudia bị sát hại, cô đã không thể tìm thấy điện thoại của mình.”

Việc lôi vợ của kẻ thù vào cuộc chơi là hành động vi phạm quan niệm đạo đức cá nhân của Gabriel, nhưng chiến thuật này hiệu quả như dự đoán. Khuôn mặt Carlo giờ đây đỏ gay vì giận dữ. Gabriel dấn tới.

“Cô ấy sẽ rời bỏ anh, Carlo. Thực tế, nếu phải đoán, tôi cho là cô ấy có thể đã nghĩ đến điều đó được một thời gian rồi. Suy cho cùng thì, cô ấy không bao giờ yêu anh như cách mà cô ấy đã yêu Donati.”

Chừng đó đã đủ đẩy cơn tức giận của Carlo vượt mức kiểm soát. Hắn lao vào Gabriel trong cơn cuồng nộ mù quáng, gương mặt hắn biến dạng vì giận dữ, cánh tay hắn vươn tới trước. Nhanh như chớp Gabriel né sang một bên, khiến Carlo ngã nhào khỏi lan can. Một tay hắn vươn lên, vung vẩy. Quá muộn, Gabriel cố bắt lấy tay hắn. Sau đó ông ôm ghì Paola, bịt tai cô thật chặt để cô không thể nghe thấy âm thanh khi cơ thể của Carlo va vào nền đá cẩm thạch ở bên dưới, chỉ khi Tướng Ferrari đưa cô ra khỏi tầng áp mái, Gabriel mới nhìn xuống, ở đó ông trông thấy ngài thư ký riêng của Đức Giáo hoàng đang quỳ gối giữa sảnh Vương cung thánh đường, ngón tay lướt nhẹ trên trán của Carlo, cha tha tội cho con (Ego te absolvo). Và thế là mọi chuyện kết thúc.

Hai ngày sau đó, Gabriel vẫn là tù nhân trong chính mộ phần nhỏ bé buông rèm của mình ở cuối căn phòng phục chế. Những thành viên khác của nhóm hiếm khi gặp mặt ông. Ông đã ở đó khi họ tới vào buổi sáng, và rất lâu sau khi mọi người rời khỏi vào buổi tối, ông vẫn ở đó, được bao bọc trong quầng sáng trắng lóa phát ra từ đèn halogen. Có nhiều lời đồn về một thảm họa ẩn sau tấm rèm - tác phẩm gốc của Caravaggio bất ngờ bị mất, hoặc có một sai sót trong việc tút lại bức họa. Enrico Bacci, vẫn sôi sục vì không được giao trọng trách này, yêu cầu nhân viên của viện can thiệp, nhưng Antonio Calvesi đã từ chối. Calvesi đã nghe được nhiều chuyện về những giờ bất tận trước bức tranh, khi nó đang gần hoàn tất. Trên thực tế, bản thân Calvesi đã từng chứng kiến một giai đoạn làm việc khó nhọc như vậy ở Florence nhiều năm về trước, khi Gabriel, dưới một danh tính khác, đã lao động suốt hai mươi tiếng đồng hồ không ngơi nghỉ để hoàn thành một bức tranh của Masaccio trước thời hạn. “Không sao đâu,” Calvesi cam đoan với nhóm nhân viên thiếu niềm tin. “Anh ấy sắp đến gần mục tiêu của mình rồi. Phải cảm ơn vì đó là một bức tranh chứ không phải một người nào đó.”

Qua đến buổi sáng của ngày thứ ba, khi các nhân viên tràn vào phòng phục chế, họ nhìn thấy tấm rèm cửa đã được kéo lên và bức tranh được gác trên giá vẽ, nhìn như thể vừa được vẽ xong bởi chính danh họa Caravaggio. Cái duy nhất vắng mặt chính là người đã phục chế nó. Calvesi đã mất một giờ đồng hồ tìm kiếm trong vô vọng trước khi đến Vương cung thánh đường để báo tin cho Đức Ông Donati. Bức Caravaggio cuối cùng đã hoàn tất, ông báo cáo. Và Gabriel Allon, nhà phục chế trứ danh chuyên trị tranh của những Danh họa Bậc thầy, gián điệp và sát thủ đã nghỉ hưu của Israel, và là cứu tinh của Đức Giáo hoàng, đã biến mất tăm không một dấu vết.

GHI CHÚ CỦA TÁC GIẢ

THIÊN THẦN SA NGÃ là một tác phẩm hư cấu. Tên, nhân vật, địa điểm, và các sự kiện được mô tả trong câu chuyện là sản phẩm tưởng tượng của tác giả hoặc đã được sử dụng một cách hư cấu. Bất kỳ sự trùng hợp nào với nhân vật có thật, dù còn sống hay đã chết, các doanh nghiệp, công ty, sự kiện, hoặc địa điểm có thật đều hoàn toàn ngẫu nhiên.

Những ai đã từng leo lên mái vòm của Vương cung thánh đường Thánh Peter chắc chắn sẽ nhớ rằng dọc bên rìa ban công quan sát có chăng dây ngăn tự tử. Trong truyện, tôi đã bỏ sợi dây đó để một vụ giết người hoặc té ngã có thể xảy ra. Phòng phục chế của phòng trưng bày tranh ở Vatican được mô tả chính xác, nhưng tôi không hề có ý ám chỉ rằng kho cổ vật đồ sộ của Vatican có vấn đề gì về nguồn gốc, ngay cả theo tiêu chuẩn giám tuyển nghiêm ngặt ngày nay. Thế nhưng Ngân hàng Vatican lại có lịch sử vi phạm tài chính khá dài, được chứng minh đầy đủ bằng nhiều tài liệu. Vụ việc gần nhất xảy ra vào tháng Mười năm 2010, khi chính quyền Italy tiến hành một cuộc điều tra rửa tiền, thu 30 triệu đô la Mỹ từ ngân hàng và khiến hai lãnh đạo cấp cao của nó phải bị điều tra. Trong tháng tiếp theo, cảnh sát Sicily thông báo họ phát hiện một đường dây rửa tiền lợi dụng tài khoản Ngân hàng Vatican của một linh mục có ông cậu từng bị buộc tội dính líu tới Mafia.

Trụ sở Biệt đội Nghệ thuật của lực lượng hiến binh Ý Carabinieri quả thực được đặt tại Quảng trường Thánh Ignatius của Rome, và vai trò của đơn vị trong việc điều tra tên buôn lậu cổ vật đã bị buộc tội, Giacomo Medici - cả việc thu hồi chiếc bình Euphronios từ Bảo tàng Nghệ thuật Metropolitan ở New York - cũng được miêu tả trung thực. Quả thực có một phòng trưng bày cổ vật ở trấn St. Moritz đẹp như tranh vẽ, mặc dù tôi khá chắc rằng nó không hề có liên hệ gì với nhóm quân sự Hồi giáo Shiite Hezbollah. Ngân hàng Byzantine Lebanon không có thật, nhưng Ngân hàng Canada Lebanon thì có - và ở đó, theo các quan chức Mỹ, bọn Hezbollah đã rửa một phần tiền chúng kiếm được qua các hoạt động gây quỹ tội phạm toàn cầu. Một mật vụ liên bang Hoa Kỳ giấu tên, khi phỏng vấn với tờ New York Times vào tháng Mười Hai năm 2011, là người đầu tiên mô tả Hezbollah là “phiên bản lớn mạnh hơn của gia đình Gambino”, chứ không phải Uzi Navot, vị lãnh đạo hư cấu của cơ quan tình báo Israel.

Massoud Rahimi, nhân viên tình báo Iran xuất hiện trong Thiên thần sa ngã, là sáng tạo của tác giả, nhưng mối quan hệ gắn bó giữa hắn với Hezbollah, tổ chức thường được gọi là “biệt đội khủng bố tinh nhuệ”, được mô tả dựa trên sự thật. Hezbollah đã tiến hành nhiều vụ khủng bố theo chỉ thị của Iran và chắc chắn sẽ có vai trò quan trọng trong phản ứng của Iran trước các vụ tấn công vào cơ sở vũ khí hạt nhân của họ. Thực ra, có khá nhiều bằng chứng cho thấy Israel đã trở thành mục tiêu tấn công của Hezbollah vì có hành động phá hoại và ám sát ngăn trở chương trình hạt nhân Iran. Vào tháng Một năm 2012, cơ quan chức năng ở Azerbaijan đã đánh tan một đơn vị khủng bố Hezbollah được cho là đã tấn công một vị đại sứ Israel ở đó và thầy đạo rabbi của một trường Do Thái địa phương, vào tháng Hai, các nhà ngoại giao Israel ở Georgia và Ấn Độ cũng bị tấn công tương tự. Ngày hôm sau, một quả bom phát nổ trong một căn hộ ở Bangkok, làm lộ ra một đơn vị Iran-Hezbollah đang chuẩn bị giết chết các nhà ngoại giao Israel ở thủ đô Thái Lan. Nhưng những chuyện này không có gì là lạ. Vào tháng Bảy năm 2006, Hossein Safiadeen, người đại diện của Hezbollah ở Tehran, đã tuyên bố rằng nhóm này dự định sẽ giết chết bất cứ người Israel và Do Thái nào mà chúng bắt gặp, tuyên bố đầy đe dọa rằng, “Sẽ không có nơi nào bọn họ được an toàn.” Hiển nhiên, tuyên bố này được sự đồng ý của lãnh đạo tối cao Iran, Ayatollah All Khamenei, người từng gọi Israel là “một khối u ác tính” cần phải loại bỏ. Lời nói này xuất phát từ một kẻ đang tìm kiếm khả năng làm được điều đó bằng một cái bấm nút.

Ngọn đồi linh thiêng ở Jerusalem, mà người Do Thái gọi là Núi Đền và người đạo Hồi gọi là Haram al-sharif, quả thực đang nằm trong sự kiểm soát của tổ chức Hồi giáo Waqf. Phần tường phía nam của Núi Đền quả thực có chỗ phình lên nguy hiểm dưới tác động của việc xây dựng Đền thờ Marwani, và việc phần đất đá giàu tư liệu khảo cổ bị đổ vào thung lũng Kidron, đáng buồn thay, đúng là có thật. Tôi đã sử dụng thông tin từ tác phẩm của nhà khảo cổ học vĩ đại người Anh, Charles Warren, để viết cao trào của tiểu thuyết này, mặc dù tôi cho phép mình di chuyển các nhân vật tùy ý khi thấy cần thiết. Ví dụ, đường hầm bí mật mà Gabriel Allon và Eli Lavon sử dụng để đi vào bên trong Núi Đền là sáng tạo của tác giả, và không hề dựa trên sự thật.

Đáng tiếc thay, ta không thể nói điều tương tự về quan niệm và ý kiến của một vài kẻ đang cai quản một trong những vùng đất linh thiêng nhất thế giới. Năm 1999, Ekrima Sa’id Sabri, khi đó là đại mufti của Jerusalem, tuyên bố rằng “người Do Thái” đang âm mưu phá hủy Haram al-sharif. “Người Do Thái sẽ xui khiến người Kitô giáo làm việc đó thay họ,” Sabri nói thế. Hắn có bằng tiến sĩ của trường Đại học al-Azhar tại Cairo, trung tâm học thuật quan trọng nhất của Hồi giáo Sunni. “Đây là cách làm việc của người Do Thái. Đây là cách quỷ Satan hiện hình.” Năm 2000, không lâu trước khi Đức Giáo hoàng John Paul II thực hiện chuyến hành hương lịch sử đến Israel, trong đó bao gồm một chuyến viếng thăm Núi Đền, Sabri đã phủ nhận Holocaust, cho rằng thảm họa diệt chủng đó chưa từng xảy ra. “Sáu triệu người Do Thái mất mạng? Không đời nào. Họ ít người hơn vậy nhiều. Hãy chấm dứt câu chuyện cổ tích do người Do Thái khai thác để giành sự chú ý của đoàn kết thế giới.” Đó không phải là lời của một giáo sĩ chính thống thuộc một đền thờ

Salafi không đáng kể. Chúng được phát biểu bởi người kiểm soát địa điểm linh thiêng thứ ba trong Hồi giáo.

Vậy nên cũng không có gì đáng ngạc nhiên khi chối bỏ Holocaust đang là quan điểm phổ biến ở thế giới Ả Rập và Hồi giáo, cũng như người anh họ của nó, chối bỏ Đền Thánh. Gần như tất cả các nhà lãnh đạo của chính quyền Palestine - kể cả những người được phương Tây coi là “ôn hòa” - đều phủ nhận sự thật rằng đã từng có một ngôi đền Do Thái trên Núi Đền. Tại hội nghị Trại David năm 2000, khi Tổng thống Bill Clinton nỗ lực thương lượng cách giải quyết mâu thuẫn Ả Rập - Israel, Yasir Arafat đã thẳng thừng khẳng định rằng Đền Thánh không ở Jerusalem mà ở Nablus, cơn bột phát của ông ta làm Tổng thống Clinton kinh ngạc, và trả lời rằng, “Là một người theo Kitô giáo, tôi cũng tin rằng bên dưới bề mặt có di tích Đền thờ của Solomon.” Dennis Ross, nhà đàm phán về Trung Đông của Clinton, sau đó nói về biểu hiện của Arafat ở hội nghị như sau: “Ông ta tạo ra một huyền thoại mới bằng cách nói rằng Đền Thánh không có ở đó. Đó là ý tưởng mới duy nhất ông ta nêu ra trong mười lăm ngày ở Trại David.”

Clinton đã có những cố gắng khác nhằm mang lại hòa bình cho Trung Đông trong những ngày cuối nhiệm kỳ của ông, bao gồm Giới hạn Clinton (Clinton Parameters), mà ông đưa ra trước phái đoàn Israel và Palestine trong một cuộc họp gay cấn ở Phòng Nội các Nhà Trắng. Là một bộ các điều khoản để đạt đến thỏa thuận cuối cùng, Giới hạn kêu gọi tạo ra một nhà nước Palestine ở Dải Gaza và 96 phần trăm Bờ Tây. Cao nguyên Núi Đền, có ý nghĩa thiêng liêng với ba tôn giáo khởi nguồn từ Abraham, sẽ nằm trong nhà nước Palestine, trong khi Bức tường phía Tây và Khu Do Thái của Thành Cổ sẽ tiếp tục nằm dưới quyền kiểm soát của Israel. Thủ tướng Israel Ehud Barak đồng ý với điều khoản, nhưng Yasir Arafat, sau nhiều do dự và lời nói lập lờ, không chấp nhận. Trong hồi ký của mình, Tổng thống Clinton đặc biệt thẳng thắn về cảm nhận của ông đối với Arafat, người mà “sai lầm khổng lồ” của ông ta đã ngăn trở Clinton đạt được một chính sách đối ngoại lịch sử. “Tôi là một thất bại,” Clinton nói với Arafat trong một cuộc điện đàm chua chát, “và ông đã làm tôi thành ra thế.”

Nhưng liệu Đền thờ của Vua Solomon, được mô tả chi tiết trong kinh Các Vua I và Sử ký, có thật sự tồn tại? Cách tốt nhất để trả lời câu hỏi đó là tiến hành một cuộc khai quật thấu đáo và cẩn thận toàn bộ Núi Đền, có sự hợp tác của các học giả Israel và Palestine, có thể đặt dưới sự giám sát của Liên Hiệp Quốc. Với sự nhạy cảm Hồi giáo và các thực tại chính trị hiện nay, điều đó khó thể xảy ra. Do đó, mâu thuẫn Ả Rập - Israel cũng khó thể được giải quyết yên ổn, ít nhất là trong tương lai gần. Những người theo dõi tình hình Trung Đông đồng tình rằng, chẳng bao lâu nữa, rất có thể một đợt bạo loạn mới sẽ nổ ra. Bom sẽ nổ, đạn sẽ bay, và trẻ con cả hai bên tham gia cuộc chiến kéo dài và đẫm máu để tranh giành vùng đất hai-lần-hứa sẽ chết. Và cứ nghĩ rằng nó có thể chấm dứt từ hơn một thập kỷ trước nếu Yasir Arafat có dũng cảm để nói một từ duy nhất: “Được.”