← Quay lại trang sách

TƯ TƯỞNG KHÁC BIỆT CĂN BẢN GIỮA NAM TÔNG VÀ BẮC TÔNG

Sau Ngũ tổ Hoằng Nhẫn, Huệ Năng và Thần Tú mỗi người tự truyền thiền pháp riêng, do tư tưởng khác biệt, dần dần hình thành tình thế đối lập giữa Nam tông và Bắc tông. Thiền pháp Bắc tông chú trọng "tức vọng tu tâm", tu hành tiến dần từng bước, là loại thiền pháp tiệm tu. Điểm đặc sắc lớn nhất của Nam tông chính là quy kết toàn bộ quá trình tu hành vào trong khoảnh khắc "đốn ngộ".

Thiền Nam tông căn cứ vào học thuyết Phật tính Như Lai tạng, cho rằng bất kỳ ai cũng có Phật tính thanh tịnh, nhưng bị trần cấu phiền não che phủ, do đó cần phải tu hành để trừ bỏ trần cấu, hiển lộ Phật tính giác ngộ thành Phật. Huệ Năng nói: "Tính của thế nhân thanh tịnh, như trời quang tịnh", nhưng do "vọng niệm như mây nổi che phủ nên tự tính không thể chiếu sáng". (Đàn Kinh, bản Đôn Hoàng). Đệ tử của Huệ Năng là Thần Hội cũng nói: "Vô minh và Phật tính, đều là tự nhiên sinh", "Phiền não và Phật tính, trong nhất thời đều có". (Thần Hội ngữ lục). Theo Thiền nguyên chư thiên tập đô tự, Bắc tông cũng cho rằng: "Chúng sinh tuy bản lai có Phật tính, nhưng từ vô thùy bị vô minh che lấp không sáng, nên phải luân hồi sinh tử". Nhưng trong vấn đề làm thế nào để trừ bỏ phiền não tu hành ra sao thì hai hệ Nam tông và Bắc tông lại chủ trương mâu thuẫn nhau. Theo ghi chép trong Đàn Kinh, Huệ Năng và Thần Tú khi ở chỗ Hoằng Nhẫn, mỗi người có làm bài kệ trình bày kiến giải thiền học của mình. Bài kệ của Thần Tú như sau:

"Thân thị Bồ-đề thụ

Tâm như minh kính đài

Thời thời cần phất thức

Mạc sứ nhạ trần ai."

(Thân là cội Bồ-đề

Tâm là đài gương sáng

Luôn siêng năng lau chùi

Đừng để cho bụi bám.)

Bài kệ của Huệ Năng:

"Bồ-đề bản vô thụ

Minh kính diệc phi đài

Phật tính thường thanh tịnh

Hà xứ nhiễm trần ai."

(Bồ-đề vốn không cây

Gương sáng cũng không đài

Phật tính thường thanh tịnh

Chỗ nào nhiễm trần ai!)

Hai bài kệ này thể hiện tư tưởng khác biệt giữa Huệ Năng và Thần Tú. Thần Tú cho rằng, ai cũng có Phật tính nhưng do khách trần che phủ nên phải siêng năng lau chùi, tu tập không ngừng thì mới có thể thành Phật. Còn Huệ Năng thì chỉ ra rằng tâm tính vốn thanh tịnh, bản lai là Phật, không cần phải trải qua hình thức tu tập phức tạp cũng có thể bước thẳng vào cảnh giới Phật.

Bảo vật Cà-sa đời Đường ở chùa Nam Hoa tự, Tào Khê, thêu bằng vàng một nghìn hình Phật. Cà-sa là pháp y của Thiền Tông, sư đồ truyền pháp lấy y bát làm tín vật, gọi là "y bát tương truyền", được y bát tức là được truyền tâm pháp.

Theo Đại Thông thiền sư bi của Trương Thuyết thì Thần Tú dựa vào tư tưởng Kinh Lăng-già, trong thiền quán thực hành "nhiếp tâm", "tức tâm", lìa bỏ tất cả tình, dục và quan niệm sinh diệt hữu vô của thế giới hiện tượng để đạt đến cảnh giới tinh thần tương ứng với Chân như. Thần Hội tóm lược thiền pháp Bắc tông của Thần Tú và đệ tử là Phổ Tịch vào 16 chữ: "Ngưng tâm nhập định, trụ tâm khán tịnh, khởi tâm ngoại chiếu, nhiếp tâm nội chứng". (Nam tông định thị phi luận). Tông Mật trong Thiền môn sư tư thừa tập đồ thì khái quát như sau: "Bắc tông cho rằng, bản tính chúng sinh vốn là giác ngộ, giống như kính có tính chiếu sáng, nhưng do phiền não che lấp nên không thấy, cũng giống như kính bị bụi che phủ. Nếu dựa vào ngôn giáo, diệt trừ vọng niệm, niệm dứt tận thì tâm tính giác ngộ, không gì không biết, như kính được chùi sạch bụi, hết bụi thì kính sáng, không gì không chiếu". Chính Thần Tú trong Quán tâm luận của mình cũng xem Tâm và Thân, Nội và Ngoại, Tịnh và Nhiễm là hai mặt đối lập nhau, lấy Tâm, Nội, Tịnh làm chủ đạo, cho rằng thông qua nhiếp tâm, quán tâm, "trừ tuyệt tam độc tâm, làm cho tiêu vong vĩnh viễn; đóng lục tặc môn, không cho xâm nhiễm", thì sau cùng sẽ đạt đến giải thoát.

Huệ Năng, từ tư tưởng Bát-nhã chỉ ra rằng, thiền pháp của Thần Tú vẫn còn chấp trước danh tướng, không triệt để. Bài kệ của Huệ Năng phủ nhận sự tồn tại sai biệt của thế giới khách quan, do đó cũng không thừa nhận tính tất yếu phải đoạn ác trừ nhiễm, tức phải "lau chùi bụi trần". Vì vậy, Huệ Năng "lấy vô niệm làm tông, vô tướng làm thể, vô trụ làm gốc". "Vô niệm" là "không niệm hữu vô, không niệm thiện ác, không niệm hữu biên tế vô biên tế, không niệm hữu hạn lượng vô hạn lượng, không niệm Bồ-đề". (Nam tông định thị phi luận). Tư tưởng này được lập ra để đối lại với tư tưởng "lìa niệm", "chính niệm" của Bắc tông. Thông qua trực giá "vô niệm", để phát hiện Chân như Phật tính, bất tất phải trừ bỏ vọng niệm. "Vô tướng" tức là phản đối sự chấp trước vào danh tướng (bao gồm hình tướng bên ngoài và khái niệm ngôn ngữ). "Vô trụ" là sự phản đối kiến giải cố định và xu hướng tâm lý đặc định.

Huệ Năng phản đối tọa thiền theo hình thức truyền thống của Thần Tú, đồng thời đưa ra kiến giải hoàn toàn mới đối với Thiền, Huệ Năng nói: "Trong pháp môn này, tọa thiền là như thế nào? Trong pháp môn này, tất cả vô ngại, ngoài không khởi niệm ở bất cứ cảnh giới nào là Tọa, thấy bản tính bất loạn là Thiền. Như thế nào gọi là Thiền Định? Ngoài lìa tướng gọi là Thiền, trong không loạn gọi là Định". (Đàn Kinh, bản Đôn Hoàng). Thiền sư Huệ Năng giảng giải không câu nệ ở hình thức và công phu bên ngoài mà nhiệm vận tự tại, điều quan trọng là sự thể nhận và lãnh ngộ ở nội tâm. Thần Hội cũng nói: "Nay nói tọa, niệm không khởi là tọa. Nay nói thiền, kiến bản tính là thiền. Do vậy không dạy tọa thân, trụ tâm, nhập định". (Nam tông định thị phi luận). Điều này thực tế là xóa bỏ thiền định theo như truyền thống.

"Đốn ngộ" là ngộ lập tức, không cần sự chuẩn bị, tích lũy mà đột nhiên đạt đến cảnh giới tinh thần của Phật. Huệ Năng nói: "Tất cả vạn pháp, hết thảy đều ở trong thân mình. Sao không từ tự tâm mà đốn hiện Chân như bản tính!", "Một niệm nếu ngộ, thì chúng sinh là Phật!" (Đàn Kinh, bản Đôn Hoàng). Thần Hội truyền giảng và phát dương tư tưởng đốn ngộ này, cho rằng giác ngộ được thực hiện ngay trong "một niệm", do đó là "đơn đao trực nhập, trực liễu kiến tính" (Nam tông định thị phi luận). Bắc tông tuy không phản đối đốn ngộ trên ý nghĩa thông thường, nhưng phái Thần Tú dựa vào thiền pháp truyền thống, chỉ lấy "đốn ngộ" làm một mắt xích trong toàn bộ trình tự tu hành, cần phải trải qua quá trình tiệm tu tích lũy trường kỳ mới đạt đến. Thiền Nam tông do Huệ Năng sáng lập đặc biệt nhấn mạnh tính tất yếu và tính khả năng của đốn ngộ, xem đốn ngộ là mắt xích duy nhất trong tu hành cần phải nắm bắt, tuy nhiên trong thực tế cũng không vứt bỏ tiệm tu. Do vậy, thiền Nam tông đã đưa phương thức tu hành Phật giáo vào con đường phóng khoáng, tự do, không gò bó vào trình tự hình thức, tự do kết hợp mật thiết với cuộc sống sinh hoạt thường ngày.