← Quay lại trang sách

THỜI KỲ TRUYỀN THỪA KINH LĂNG GIÀ

Từ Đạt-ma đến Hoằng Nhẫn vẫn chưa chính thức dùng hai chữ Thiền tông để gọi tên tông phái. Thời kỳ này truyền thụ thiền pháp chủ yếu dựa vào bốn quyển Kinh Lăng-già. Do vậy, bộ Lăng-già sư tư ký gọi các thiền sư qua 5 đời (cùng với Thần Tú đời thứ sáu) là "Lăng-già sư". Giai đoạn thiền học trước khi Thiền tông thành lập nay được gọi là thời kỳ truyền thừa Lăng-già.

Đạt-ma đến Trung Quốc truyền thiền pháp Ấn Độ, chủ trương "tá giáo ngộ tông" - dựa vào giáo để ngộ vào tông. "Giáo" ở đây là Kinh Lăng-già, "tông" là "tự tông thông" được nói trong Kinh Lăng-già. Đạt-ma cho rằng, tự chứng Thánh trí tự giác cần phải dựa vào "giáo" để ngộ nhập. Rõ ràng, chính Đạt-ma xem Kinh Lăng-già là kinh điển nền tảng. Trong Lăng-già sư tư ký có nói đệ tử là Đàm Lâm chép ngôn hành của Đạt-ma, tập thành một quyển gọi là Đạt-ma luận và Bồ-đề Đạt-ma có giải thích yếu nghĩa Kinh Lăng-già thành một quyển, cũng gọi là Đạt-ma luận. Sau này, Đạt-ma truyền Tứ quyển Lăng-già cho đệ tử Huệ Khả, bảo rằng: "Ta xem ở đất Hán, chỉ có kinh này, nếu y theo tu tập sẽ tự đắc ngộ cứu độ thế gian". Huệ Khả sau này cũng dạy đệ tử là Na thiền sư và Mãn thiền sư lấy Kinh Lăng-già làm tâm yếu. Huệ Khả dùng Kinh Lăng-già với quan điểm giải thích tự do, không câu chấp vào văn tự. Đệ tử của Huệ Khả cũng hết sức chú trọng nghiên cứu Kinh Lăng-già.

Tam tổ Tăng Xán có phải là nhân vật có thực trong lịch sử hay không là vấn đề gây tranh cãi không ít, nhưng qua phân tích căn cứ theo Tục cao tăng truyện, Truyền pháp bảo ký, Lịch đại pháp bảo ký, Lăng-già sư tư ký, Pháp Như hành trạng, Đại Thông thiền sư bi thì Tăng Xán là nhân vật có thực. Vào cuối thế kỷ 7, pháp hệ truyền thừa năm đời Đạt-ma - Huệ Khả - Tăng Xán - Đạo Tín - Hoằng Nhẫn đã được công nhận phổ biến. Tăng Xán kế thừa Huệ Khả tiếp tục trì phụng Kinh Lăng-già, nhưng chỉ thuyết giảng huyền lý mà không ghi chép thành văn" (Lăng già sư tư ký).

Đạo Tín và Hoằng Nhẫn kiến lập Đông Sơn pháp môn, đẩy thiền học Lăng-già tiến thêm một bước lớn. Đạo Tín thừa nhận "nói đến pháp môn này của ta, phải dựa vào Kinh Lăng-già, chư Phật Tâm đệ nhất", kiên trì dựa vào Kinh Lăng-già để ngộ vào tông, "nội ngoại tương xứng, lý và hạnh không trái ngược nhau". Hoằng Nhẫn trên nguyên tắc vẫn lấy Kinh Lăng-già làm kinh điển nền tảng, như "Lăng-già sư tư ký" có nói Hoằng Nhẫn dùng Kinh Lăng-già khai thị môn đồ: "Ta luận Kinh Lăng-già với Thần Tú, huyền lý thông đạt nhanh, tất nhiều lợi ích". Trong Đàn Kinh bản Đôn Hoàng có nói Hoằng Nhẫn định cho vẽ biến tướng Lăng-già ở hành lang phía nam nhưng sau đó thấy bài kệ của Thần Tú nên thôi. Có thể thấy, Đạo Tín và Hoằng Nhẫn vẫn tiếp tục truyền thống từ Đạt-ma lấy Kinh Lăng-già làm kinh điển căn bản, nhưng đồng thời đã bắt đầu có xu hướng chuyển sang Kinh Kim Cương.

Bắc tông trong lịch sử Thiền tông là sự kế tục truyền thống thiền học Lăng-già. Thần Tú tự xưng là xuất thân từ Đông sơn pháp môn, thiền pháp Thần Tú vẫn mang nét đặc sắc là lấy Kinh Lăng-già làm tâm yếu. Một đệ tử của Hoằng Nhẫn là Huyền Di đã đặc soạn quyển Lăng-già nhập pháp chí để phổ biến thiền học Lăng-già. Đệ tử của Huyền Di là Tịnh Giác trên cơ sở này biên soạn Lăng-già sư tư ký, đưa ra hệ truyền thừa Lăng-già, hệ truyền thừa này không chỉ xem Thần Tú là truyền nhân của Lăng-già sư mà còn xem các đệ tử của Thần Tú là Phổ Tịch, Cảnh Hiền, Nghĩa Phúc là đời tiếp theo, điều này là hợp lý.

.

Đại điện của Ngũ Tổ thiền tự ở Hoàng Mai, Hồ Bắc. Ngũ Tổ thiền tự được xây vào năm 654 (năm Vinh Huy thứ 5 đời Đường), là đạo trường của Tổ thứ năm Hoằng Nhẫn, cũng là nơi Lục tổ Huệ Năng đắc pháp, từng được vua ban tên là "Thiên hạ Tổ đình". Đại điện có kiến trúc hai mái chồng kiểu yết sơn, lợp ngói xanh, tường sơn vàng. Phía trước có bia đá chạm bốn chữ "Thiên hạ tùng lâm" là ngự bút của Tống Huy Tông, cho thấy uy vọng của Đông Sơn pháp môn do Ngũ tổ sáng lập.

Có học giả cho rằng thời kỳ truyền thừa Lăng-già trước khi Thiền tông thành lập là thời kỳ lịch sử Lăng-già tông, từ Đạt-ma đến Thần-Tú đều là Lăng-già tông chính thống" (Hồ Thích - Lăng-già tông khảo). Đây là quan điểm không chính xác, trong lịch sử thực sự không hề tồn tại tông phái được gọi là Lăng-già tông.

NHỮNG TRƯỚC TÁC CHỦ YẾU NGHIÊN CỨU CỦA TƯ TƯỞNG LĂNG-GIÀ SƯ

Tư tưởng của Đạt-ma thiền và Lăng-già sư trong quá khứ được biết đến chủ yếu dựa vào trước tác của môn hạ phái thiền Hồng Châu do Mã Tổ Đạo Nhất sáng lập, rất giới hạn và phiến diện. Từ đầu thế kỷ 20, sự kiện phát hiện lần lượt các tư liệu Thiền tông từ trong di thư ở động Đôn Hoàng đã giúp cho việc nghiên cứu thiền học thời kỳ này tiến một bước lớn, dần dần tiếp cận đến diện mạo chân thực.

Trong các thư tịch về thiền ở Đôn Hoàng có không ít quyển đề tên tác giả là Bồ-đề Đạt-ma, nhưng qua nghiên cứu phân tích của các học giả, thực sự là tác phẩm của Đạt-ma có lẽ chỉ là một phần trong Nhị thập Tứ hạnh luận (do đệ tử chép lại lời của Đạt-ma). "Nhị thập" tức Lý nhập và Hạnh nhập, là hai con đường để nhập đạo. Lý nhập là ngộ thiền lý, nương theo kinh điển, dùng trí tuệ để nhập vào Phật đạo. Hạnh nhập là thông qua thực tiễn tu hành để đạt đến giải thoát. Tứ hạnh là Báo oán hạnh, Tùy duyên hạnh, Vô sở cầu hạnh, Xứng pháp hạnh. Ba hạnh đầu là sự tu trì đối với các loại khổ, Xứng pháp hạnh là dùng "vô sở đắc làm phương tiện" thực hành lục độ Đại thừa.

.

Mặt lưng của tấm gương soi bằng đồng đời Đường có chạm hình Đạt-ma vượt biển. Thiền pháp Đạt-ma đến Trung Quốc truyền bá chủ yếu dựa vào King Lăng-già, là bộ kinh tiêu biểu cho tư tưởng Phật giáo Đại thừa của hậu ký Phật giáo Ấn Độ.

Về tư tưởng của Hoằng Nhẫn, có Tu tâm yếu luận (còn có tựa là Tối thượng thừa luận) 1 quyển. Nhưng quyển này thực ra do đệ tử Hoằng Nhẫn ghi chép, chủ yếu nói về những chủ trương thiền học của Đông Sơn pháp môn như "thủ tâm là đệ nhất", "chỉ cần giữ chân tâm, trừ tận vọng niệm... giống như lau kính, hết bụi thì tự nhiên kiến tính".

Trước tác của Thần Tú có Quán tâm luận 1 quyển và Đại thừa vô sinh phương tiện môn 1 quyển. Quán tâm luận chủ trương "duy chỉ có một pháp quán tâm, thu nhiếp hết vạn hạnh là quan trọng nhất", cho rằng vạn vật thế giới chỉ do tâm sinh ra, do đó phải tọa thiền quán tâm để đối trị "tà mê", đạt đến cảnh giới "dứt tâm", "vô tâm" đạt đến giải thoát. Đại thừa vô sinh phương tiện môn còn có tên là Đại thừa ngũ phương tiện Bắc tông, chủ trương "tịnh tâm", "lìa niệm", "khán tâm", cho rằng "nhất niệm tịnh tâm, đốn siêu Phật địa" (một niệm tịnh tâm thì lập tức đạt đến quả vị Phật).

Trong di thư Đôn Hoàng có Truyền pháp bảo ký tịnh tự 1 quyển do Đỗ Phỉ đời Đường soạn vào năm 713. Quyển này ghi chép lược truyện và tư tưởng thiền pháp của Đạt-ma, Huệ Khả, Tăng Xán, Đạo Tín, Hoằng Nhẫn, Pháp Như, Thần Tú. Điểm đặc biệt của quyển này là xem Pháp Như là đệ tử nói pháp của Hoằng Nhẫn, đồng thời chỉ rõ từ Đạt-ma đến Tăng Xán dùng Kinh Lăng-già truyền thừa, nhưng trong chú văn phần lược truyện Đạt-ma thì phê bình bích quán và tứ hạnh, cho rằng đó chỉ là thuyết phiến diện, "không phải là luận tột cùng".

.

Tượng Bồ-tát đời Đường ở chùa Nam thiền tự, Ngũ Đại sơn, Sơn Tây. Nam thiền tự được xây dựng vào đời Đường, là một trong những ngôi chùa có lịch sử cổ xưa nhất Trung Quốc. Pho tượng có thân hình và khuôn mặt đầy đặn, tươi nhuận, phong thái điềm nhiên tự như, trang phục mềm mại uyển chuyển thể hiện rõ phong cách đời Đường, là một trong những tinh phẩm của điêu khắc cổ đại Trung Quốc.

Lăng-già sư tư ký do đệ tử tái truyền của Hoằng Nhẫn là Tịnh Giác biên soạn vào năm 720 chép tư tưởng của 13 thiền sư qua 8 đời lấy Kinh Lăng-già làm tông chỉ, là Cầu-na Bạt-đà-la, Bồ-đề Đạt-ma, Huệ Khả, Tăng Xán, Đạo Tín, Hoằng Nhẫn và Thần Tú, Huyền Di, Huệ An cùng với Phổ Tịch, Nghĩa Phúc, Cảnh Hiền, Huệ Phúc. Chữ "sư tư" nghĩa là thầy và đệ tử, tên bộ sách có nghĩa là "chép về tư tưởng các vị thầy và đệ tử dùng Kinh Lăng-già truyền thừa". Trong sách có chép nội dung chủ yếu của quyển Nhập đạo an tâm yếu phương tiện pháp môn của Đạo Tín. Do Cầu-na Bạt-đà-la là người dịch Kinh Lăng-già nên tác giả tôn làm sơ tổ, cho thấy địa vị tối cao của Kinh Lăng-già trong hệ truyền thừa này.

Lịch Đại pháp bảo ký 1 quyển do đệ tử của Vô Trú ở chùa Bảo Đường, Thành Đô biên soạn khoảng năm 760, là quyển sử thư tuyên truyền hệ thiền lấy chùa Bảo Đường làm trung tâm. Quyển này chủ yếu ghi chép truyền thừa của hệ Tư Châu Trí Sằn là môn hạ Hoằng Nhẫn, hệ truyền thừa này là: Trí Sằn truyền Xứ Tịch, Xứ Tịch truyền Vô Tướng, Vô Tướng truyền Vô Trú. Về các đời trước, quyển này cũng thuật về tư tưởng của sáu đời Tổ sư từ Đạt-ma đến Huệ Năng.