← Quay lại trang sách

SƠ LƯỢC VỀ CÁC BẢN ĐÀN KINH -

Văn bản Thiền tông quan trọng nhất còn tồn tại đến nay ghi chép nội dung thuyết pháp của Huệ Năng là Đàn Kinh. "Đàn" là giới đàn, chữ "Kinh" vốn chỉ được dùng để gọi những tác phẩm ghi chép lời giảng của Phật được dùng ở đây có ý nghĩa tôn sùng lời thuyết pháp của Huệ Nặng như là lời của Phật.

Lúc đầu, chỉ có hàng đệ tử nhập thất của Huệ Năng mới được chép và truyền thụ Đàn Kinh. Nhưng theo sự phát triển hưng thịnh nhanh chóng của Thiền tông, Đàn Kinh được lưu truyền rộng rãi ra ngoài và cũng phát sinh nhiều thay đổi về nội dung. Theo nghiên cứu của học giả Nhật Bản Liễu Điền Thánh Sơn, đến nay đã phát hiện được khoảng mười mấy bản Đàn Kinh, trong đó quan trọng có bản Đôn Hoàng, bản Huệ Hân (bản Hưng Thánh tự, bản Kim Sơn Thiên Vũ tự, bản Đại thừa tự), bản Đức Dị (bản Cao Ly), bản Tông Bảo (Minh bản), bản Tào Khê nguyên bản. Một học giả Nhật Bản khác là Vũ Tỉnh Bá Thọ thì thống kê khoảng hơn 20 bản Đàn Kinh. Những dị bản này, phần chinh văn rất không thống nhất, có chỗ tư tưởng hoàn toàn ngược nhau, thậm chí có chỗ thấy rõ là không phải chủ trương của Huệ Năng. Sự khác biệt của các bản Đàn Kinh phản ánh sự biến đổi của tư tưởng Thiền tông trong các thời kỳ khác nhau.

Tuy Đàn Kinh có nhiều bản khác nhau, nhưng tiêu biểu và chân xác nhất là bốn bản: Đôn Hoàng, Huệ Hân, Khế Tung và Tông Bảo.

Bản Đôn Hoàng là bản cổ nhất, do học giả Nhật Bản Thỉ Xuy Khánh Huy phát hiện vào năm 1923 trong văn thư Đôn Hoàng của viện bảo tàng Anh quốc ở Luân Đôn, năm 1927 được hiệu đính rồi đưa vào Đại Chính Tạng, ảnh ấn của bản này in trong sách Minh Sa Dư Vận. Sự kiện phát hiện bản Đôn Hoàng đã mở màn cuộc nghiên cứu Thiền tông thời cận đại có giá trị học thuật quan trọng. Năm 1943, giáo sư Hướng Đạt ở Đại học Bắc Kinh đến Đôn Hoàng nghiên cứu bản chép cổ, phát hiện trong các bộ kinh chép tay do người địa phương tên là Nhiệm Tử Nghi thu tàng có chép bốn bộ văn hiến Thiền tông, một trong số đó là Đàn Kinh, đây là bản sao vào khoảng đời Ngũ Đại hoặc đầu đời Tống. Bản này hiện lưu trữ ở Viện bảo tàng Đôn Hoàng, có đề mục và nội dung tương đồng với bản Đôn Hoàng, được xem là cùng hệ thống với bản Đôn Hoàng được hoàn thành vào giữa đời Đường, nguyên bản là tập ký lục lời Huệ Năng thuyết pháp của đệ tử Pháp Hải.

.

Cây Bồ-đề ở chùa Quang Hiếu, Quảng Châu. Tương truyền do Phạn Tăng Trí Dược đời Lương đem từ Ấn Độ qua trồng, và lập bia tiên tri Lục tổ Huệ Năng sẽ ở dưới cây Bồ-đề này thọ giới hoằng pháp. Hiện nay cây vẫn cành lá sum suê tươi tốt.

Để phù hợp với sự biến đổi của tư tưởng Thiền tông, thiền sư đời sau đã mượn danh Huệ Năng thay đổi một số nội dung trong Đàn Kinh. Bản cải biên của Huệ Hân thời văn Đường đề là "Lục Tổ Đàn Kinh", bản này có phụ thêm tự văn của Huệ Hân, Đàn Kinh tán của Khế Tung, bài tự của Lang Giản đều nói thẳng lý do cải biên là để thích hợp hơn nhu cầu của giới Thiền tông đương thời. Bản này chia thành 2 quyển, 11 môn, tổng cộng 1.4 vạn chữ, nhiều hơn bản Đôn Hoàng 2000 chữ.

.

Tượng Bồ-tát mạ vàng ở Thanh Châu, Sơn Đông, đời Nam Bắc Triều. Tượng Phật được khai quật ở Thanh Châu là một phát hiện lớn trong những năm gần đây của ngành khảo cổ Trung Quốc.

Bản cải biên Khế Tung hoàn thành vào khoảng năm 1056 (năm Chí Hòa thứ ba đời Nhân Tông, Bắc Tống) theo khảo chứng của Quách Bằng tiên sinh, bản này là bản "Lục tổ đại sư pháp bảo đàn kinh Tào Khê nguyên bản" chưa đề tên người soạn, chỉ 1 quyển gồm 10 phẩm, tổng cộng hơn 2 vạn chữ.

Bản cải biên Tông Bảo hoàn thành khoảng năm 1291, tên là "Lục tổ đại sư pháp bảo đàn kinh", 1 quyển 10 phẩm, hơn 2 vạn chữ. Đây là bản được lưu truyền phổ biến nhất.

Người đời sau căn cứ vào nhu cầu đương thời tự cải biên thay đổi Đàn Kinh là một sự thực đã diễn ra ngay giữa thế kỷ 8 chỉ khoảng hơn 50 năm từ ngày Huệ Năng qua đời. Theo Cảnh Đức Truyền Đăng Lục, quyển 28, đệ tử của Huệ Năng là Huệ Trung từng than thở trước tình hình cải biên Đàn Kinh là "tước bỏ Thánh ý, mê loạn người học đạo". Tông Bảo trong lời bạt bản Đàn Kinh cải biên của mình có nói vì thấy ba bản bất đồng, thiếu đủ khác nhau nên hiệu chỉnh, "chỗ sai thì sửa cho đúng, chỗ sơ lược thì làm cho rõ, và thêm phần đệ tử thỉnh ích".

NỘI DUNG CHỦ YẾU CỦA ĐÀN KINH

Trong các bản Đàn Kinh hiện tồn, bốn bản quan trọng nhất là bản Đôn Hoàng, bản Huệ Hân, bản Khế Tung, bản Tông Bảo. Trong đó, bản Đôn Hoàng là chân xác nhất dù cũng đã có một số thay đổi. Hiện nay nghiên cứu về Thiền tông sơ ký với trung tâm là Huệ Năng chủ yếu căn cứ vào bản Đôn Hoàng.

D.T. Suzuki, trên cơ sở nghiên cứu bản Đôn Hoàng của Đàn Kinh, vào năm 1934, xuất bản quyển "Đôn Hoàng xuất thổ Lục tổ Đàn Kinh", chia toàn thư thành 57 tiết, thêm tiêu đề riêng và soạn văn dẫn giải. Cách phân chia này được giới học thuật rất tán thành. Tiết thứ nhất là "Tự phẩm", đây là phần Pháp Hải thuật lại cảnh tượng chùa Đại Phạn ở nội thành Thiều Châu trong buổi thuyết pháp của Huệ Năng. Từ tiết thứ 2 đến tiết 11 là phần Huệ Năng tự thuật thân thế, nhân duyên cầu pháp, quá trình đắc pháp và tình hình sau khi đắc pháp quay về phương nam. Tiết 12 đến tiết 33 là phần ghi chép nội dung thuyết pháp ở chùa Đại Phạn, đây là bộ phận chủ thể của Đàn Kinh, phản ánh tư tưởng căn bản của Huệ Năng. Tiết 34 đến tiết 44 ghi chép vấn đáp giữa Huệ Năng và đệ tử. Tiết 45 đến 47 thuật lại Huệ Năng giảng pháp môn "Tam khoa", "Tam thập lục đối" cho các đại đệ tử. Tiết 48 đến tiết 54 là phó chúc của Huệ Năng với đệ tử. Tiết 55 đến tiết 56 là phần Pháp Hải thuật tình hình truyền thừa Đàn Kinh sau khi Huệ Năng qua đời. Tiết 57 chủ yếu là tụng dương và lễ tán của Pháp Hải đối với Huệ Năng.

Theo quyển "Trung Quốc Thiền tông sử" của pháp sư Ấn Thuận, nội dung của Đàn Kinh về tổng thể bao gồm hai phần, một là phần ghi chép lời khai pháp ở chùa Đại Phạn, là tư liệu đáng tin cậy nhất, chủ thể của Đàn Kinh, hai là phần phụ gồm vấn đáp với đệ tử và phó chúc lúc lâm chung. Tư tưởng căn bản của những lời thuyết pháp ở chùa Đại Phạn bao gồm: Định Tuệ vi bản, Nhất hạnh tam muội, Vô tướng vi thể, Vô niệm vi tông, Vô trụ vi bản, Đốn ngộ Bồ-đề.

Huệ Năng nói: "Pháp môn này của ta, lấy Định Tuệ làm căn bản. Thứ nhất đừng bao giờ nói mê là Định Tuệ khác biệt nhau. Định Tuệ là nhất thể chứ không phải là hai, Định là thể của Tuệ, Tuệ là dụng của Định, lúc có Tuệ thì Định hiện hữu trong Tuệ, lúc có Định thì Tuệ hiện hữu trong Định" (Tiết 13). Qua đó có thể thấy, Huệ Năng xem Thiền tông và trí tuệ Bát-nhã là hai phương diện của đồng nhất sự vật, nếu có phân biệt chỉ là kết quả của phân biệt chủ quan. Tư tưởng này phủ định tọa thiền. Huệ Năng có kiến giải độc đáo đối với "Nhất hạnh tam muội", xem đó là hành vi tự giác nội tâm "Trong tất cả mọi lúc, đi đứng ngồi nằm, thường hành trực tâm". "Vô tướng" nghĩa là "ở nơi tướng mà lìa tướng", vô tướng là không chấp trước vào tướng (tướng, sự vật, sự tướng). "Vô niệm" là "ở niệm mà không niệm", "không nhiễm tất cả các cảnh", là không khởi tập niệm mà duy trì chính niệm. "Vô trụ" là "ở tất cả các pháp mà không trụ", không chấp trước. Tư tưởng lấy Vô tướng làm thể, Vô niệm làm tông, Vô trụ làm bản đã khai mở một phương pháp tu hành hoàn toàn mới, đề xướng phát huy năng lực trực giác, làm đơn giản hóa trình tự tu hành thành Phật, dùng trí Bát-nhã để kiến ngộ Phật tính tự tâm, đốn nhập Phật địa. "Bồ-đề" tức là trí, giác, chỉ sự giác ngộ đối với chân lý Phật giáo, "đốn ngộ Bồ-đề" tức là trong sát-na trực giác thấy Phật tính bản thân vốn có. Trong tư tưởng Huệ Năng, tự tính Phật tính, trí Bát-nhã và giác Bồ-đề là ba khái niệm nhất thể, mọi chúng sinh đều có, bản lai vốn đủ, nếu lập tức thấy được thì "phiền não là Bồ-đề", đây là lý luận căn bản của thuyết đốn ngộ thành Phật.

.

Bích họa Phật giáo đời Liêu ở chùa Hoa Nghiêm, Sơn Tây. Tuy rất nhiều chi tiết nhưng bố cục mạch lạc, không mất cân bằng, miêu tả nhiều sự tích Phật giáo, toàn bộ cuộc đời Thích-ca Mâu-ni từ khi ra đời đến khi thành Phật.

Một điểm đặc sắc của bản Đôn Hoàng là sự đề cao địa vị Kinh Kim Cương, có đoạn như: "Ngũ tổ lúc canh ba, gọi Huệ Năng vào phòng giảng Kinh Kim Cương. Huệ Năng vừa nghe qua liền đại ngộ". Hoằng Nhẫn dùng Kinh Kim Cương để khai thị Huệ Năng có nghĩa là lấy bộ Kinh này làm tông kinh của pháp môn đốn ngộ. Huệ Năng về sau nói: "Chỉ trì tụng một quyển Kinh Kim Cương thì có thể kiến tính nhập Bát-nhã tam muội". Sự đề cao địa vị Kinh Kim Cương của bản Đôn Hoàng khác biệt với quyển "Tào Khê đại sư biệt truyện" (soạn sau khi Huệ Năng qua đời khoảng 70 năm) nhấn mạnh tư tưởng Phật tính của Kinh Niết-Bàn. Nhưng khảo sát kỹ Đàn Kinh bản Đôn Hoàng, tư tưởng đốn ngộ trong đó vẫn không thể tách rời với Phật tính luận. Do đó, từ quyển Đàn Kinh bản Khế Tung bắt đầu dung hợp thống nhất tư tưởng của Đàn Kinh bản Đôn Hoàng và Tào Khê đại sư biệt truyện, điều này không có gì là bất hợp lý. Mỗi bản Đàn Kinh đều có giá trị sử liệu riêng, vấn đề quan trọng là khi sử dụng cần phải phân tích chọn lọc xác đáng.