← Quay lại trang sách

VỀ ĐỊA VỊ CỦA THẦN HỘI -TRONG LỊCH SỬ THIỀN TÔNG--

Khi còn tại thế, vì địa vị chính thống của Nam tông, Thần Hội đã không sợ gian nguy, hiên ngang chống lại Bắc tông. Sau khi qua đời, địa vị của Thần Hội được nâng cao không ngừng.

Đường Đại Tông vào năm Bảo Ứng thứ 2 (763), hạ lệnh xây chùa Bảo Ứng ở tháp Thần Hội, Long Môn, Lạc Dương. Sau đó, vào năm Đại Lịch thứ 5 (770) sắc ban Tổ đường bảng hiệu "Chân tông Bát-nhã truyền pháp chi đường". Vào năm Đại Lịch thứ 7 (772) lại hạ chiếu hoàng thái tử chiêu tập các đại thiền sư trong thiên hạ để khải định tông chỉ thiền môn, định rõ pháp hệ chính thống, quyết định lập Thần Hội làm Tổ thứ 7 và ngự chế tán văn. Nhưng do một số nguyên nhân, địa vị Thất tổ của Thần Hội không được Thiền tông đời sau thừa nhận, ngữ lục và trước tác của Thần Hội phần lớn bị thất lạc (chỉ có một thiên "Hiển Tông Ký" còn lưu truyền). Đầu thế kỷ 20, nhờ sự phát hiện và nghiên cứu chỉnh lý sơ bộ tư liệu "Thần Hội Ngữ Lục" bản chép tay ở động Đôn Hoàng, vấn đề địa vị của Thần Hội trong lịch sử Thiền tông lại được đề cập trở lại.

Hồ Thích đưa ra ý kiến đầu tiên, cho rằng cống hiến của Thần Hội trong lịch sử Thiền tông còn lớn hơn cả Huệ Năng, địa vị của Thần Hội vượt xa Huệ Năng. Hồ Thích nói, Thần Hội là "vị tiên phong của Nam tông, người hủy diệt Bắc tông, nhà kiến lập thiền học mới, là tác giả của Đàn Kinh", "trong lịch sử Phật giáo Trung Quốc, không có người thứ hai nào có công lao vĩ đại và tạo ảnh hưởng vĩnh cửu như thế". (Hà Trạch Đại Sư Thần Hội Truyện). Cho đến vãng niên, Hồ Thích vẫn kiên trì quan điểm này, xem Thần Hội là "vị tông sư chân chính sáng lập Thiền tông Trung Quốc", "Nam tông hoàn toàn do một mình Thần Hội đơn phương độc mã lập ra". Quan điểm của Hồ Thích từng gây ra phản ứng mạnh, tuy đại đa số bất đồng ý kiến nhưng số người tán thành cũng không phải là ít.

Đánh giá Thần Hội một cách toàn diện không phải là việc dễ dàng. Một mặt, chúng ta thấy Thần Hội là người tiên phong đấu tranh vì sự chính thống của Nam tông, sự đấu tranh kiên quyết đã có tác dụng quan trọng đối với việc giành lấy uy tín và nâng cao địa vị của thiền Nam tông Huệ Năng. Ở khu vực trung nguyên thịnh hành thiền Bắc tông Thần Tú và Duy Thức tông, Hoa Nghiêm tông rất phát triển, Thần Hội đã truyền bá cho mọi người biết ở phương nam còn có một phái thiền khác. Thần Hội kế thừa và phát dương thiền pháp của Huệ Năng, phê phán nhược điểm chú trọng tiệm tư của hệ thiền Thần Tú, ra sức phổ biến nội dung căn bản của thiền đốn ngộ Huệ Năng, vì tranh giành pháp thống đã xác lập y cứ thuyết phục cho thiền học. Thần Hội là người tuyên truyền tích cực giáo nghĩa Thiền tông sơ kỳ.

Bích họa mười ba vị tăng cứu vua Đường ở điện Bạch Y, chùa Thiếu Lâm, vẽ vào đầu đời Đường.

Mặt khác, cũng phải xác định Thần Hội không phải là người sáng lập Thiền tông, và sau này Nam tông thay thế Bắc tông, trở thành Thiền tông chính thống cũng không phải nhờ công lao một mình Thần Hội. Huệ Năng là người sáng lập Thiền tông đã trở thành định luận, Đàn Kinh là tác phẩm ghi chép lời thuyết pháp của Huệ Năng cũng đã thành sự thực lịch sử. Thần Hội là đệ tử của Huệ Năng, cũng không phải là đệ tử chính. Là người ủng hộ Huệ Năng, Thần Hội trong thiền học không có sự đột phá nguyên tắc căn bản của sư phụ, như Tông Mật nói: "Tông Hà Trạch toàn là thiền pháp Tào Khê, không có giáo chỉ khác". (Thiền Môn Sư Tư Thừa Tập Đồ). Thần Hội được tôn làm Thất tổ là chuyện sau khi đã qua đời 40 năm. Điều này cho thấy, Thần Hội sau khi "biện thị phi", "định tông chỉ" ở Nam Dương, Lạc Dương đã không đạt được thắng lợi thực sự. Nguyên nhân chủ yếu làm cho Thần Hội được sự trọng vọng tối cao của triều đình không phải là giáo nghĩa Nam tông do Thần Hội phát dương mà là biểu hiện chính trị trong thời kỳ loạn An Lộc Sơn, Sử Tư Minh. Vì Thần Hội chủ trì giới đàn độ tăng lập công lớn nên triều đình thay đổi thái độ, lúc trước biếm Thần Hội đi nhiều nơi đã chuyển sang ủng hộ. Việc sắc lập địa vị Thất tổ thực chất là sự ban thưởng của triều đình đối với cống hiến chính trị của Thần Hội, có dụng ý để cho tăng sư đời sau noi theo.

Nam tông có thắng thế hoặc thay thế Bắc tông hay không, điều này không thể lấy sự chìm nổi địa vị chính trị của phái Huệ Năng, Thần Hội và phái Thần Tú, Phổ Tịch làm tiêu chỉ. Sự thực là sự suy tàn của hệ Thần Tú không có liên hệ trực tiếp với việc Thần Hội lên phương bắc chống lại phái Bắc tông, và hệ thiền Thần Hội (Hà Trạch tông) cũng không trở thành dòng chủ lưu của Thiền tông.

Y BÁT TƯƠNG TRUYỀN

"Y bát tương truyền" là dụng ngữ nhà Phật thường dùng, nhưng khởi sơ đây là một vấn đề trọng đại, nghiêm túc và nhạy cảm trong tranh luận nội bộ của Thiền tông. "Y" là cà-sa, "bát" là bát đựng thức ăn. Truyền thuyết khi Thích-ca Mâu-ni trao "Chính pháp nhãn tàng" cho Ca-diếp, Phật còn trao cho áo cà-sa kim lũ và cái bát của mình, đây chính là nguồn gốc của "Y bát chân truyền".

Truyền thuyết kể rằng, để pháp nhũ trường lưu, Ma-ha Ca-diếp trao "Chính pháp nhãn tàng" và y bát cho A-nan. Hình thức đơn truyền này tiếp tục truyền qua 27 đời, lúc này y bát từ tay Bát-nhã Đa-la truyền cho Bồ-đề Đạt-ma trở thành Tổ thứ 28, cũng là Sơ tổ Đông thổ. Truyền thuyết này vô cùng huyền diệu, nhưng số người tin đó là sự thực có lẽ không nhiều.

Sau Đạt-ma, về vấn đề truyền thừa y bát trong Thiền tông đã nảy sinh tranh luận. Thần Hội khi "biện thị phi" làm rõ pháp hệ đúng sai đã kiên quyết khẳng định Huệ Năng là chính thống, một trong những lý do chính là "đời đời tương truyền lấy truyền y làm tín, làm cho người hoằng pháp được bẩm thừa, người học đạo biết tông chỉ không sai lạc". Thần Hội nói: "Đạt-ma lấy một chiếc cà-sa đề làm pháp tín truyền cho Huệ Khả. Huệ Khả truyền Tăng Xán, Tăng Xán truyền Đạo Tín, Đạo Tín truyền Hoằng Nhẫn, Hoằng Nhẫn truyền Huệ Năng. Sáu đời tương truyền, liên miên bất tuyệt". (Nam tông định thị phi luận). Việc truyền cà-sa đến Huệ Năng có độ chân thực thế nào chúng ta cũng không thể kết luận chắc chắn, nhưng trong chiếu thư mời Tào Khê Huệ Năng nhập kinh của Đường Trung Tông có một đoạn như sau: "Trẫm mỗi khi hỏi Nhất thừa (Phật thừa), An (Đạo An), Tú (Thần Tú) đều khiêm nhượng thoái thác nói: "Phương nam có thiền sư Huệ Năng, được mật thụ y pháp của đại sư Hoằng Nhẫn, có thể đến đó hỏi". (Toàn Đường Văn, quyển 17). Do đó, Thần Hội nói: "Thiền sư Thần Tú khi còn tại thế đã chỉ cà-sa truyền pháp sáu đời ở Thiều Châu, miệng không tự xưng là đời thứ sáu". Thần Hội lại nhắc chuyện Quảng Tế là đồng học với Phổ Tịch vào phòng Huệ Năng ở Thiều Châu trộm cà-sa bị Huệ Năng quát chạy, và "thuật lại" lời của Huệ Năng: "Chẳng phải đến ngày nay, áo cà-sa này lúc ở chỗ đại sư Đạo Tín cũng từng bị trộm một lần. Nhưng kẻ trộm đều không lấy được. (Đáp Sùng Viễn pháp sư vấn).

Cái bát của Lục tổ được lưu giữ ở chùa Nam Hoa, Tào Khê, tỉnh Quảng Đông.

Thần Hội còn đặc biệt nhấn mạnh: "Y là pháp tín, pháp là y tông. Y pháp tương truyền, không có pháp khác. Không y không truyền cho pháp, không pháp thì không nhận được y. Y là pháp tín, pháp là pháp vô sinh". Y nghĩa ở đây rất rõ ràng: Chiếc áo pháp ở đâu thì nơi đó chính là Thiền tông chính thống, mà cà-sa hiện đang ở Tào Khê phương nam. Nhưng sau đó cà-sa được truyền tiếp như thế nào thì Thần Hội nói rất mập mờ, điều này ít nhất cũng đã chứng tỏ Thần Hội không được truyền y. Theo các văn hiến đời Đường hiện tồn, chiếc cà-sa của Huệ Năng vào năm đầu niên hiệu Thượng Nguyên đời vua Túc Tông (760) được đưa vào cung, không lâu sau, vào năm đầu niên hiệu Vĩnh Thái, đời vua Đại Tông (765) lại được trả về lại (xem Toàn Đường Văn, quyển 47), sau đó truyền tiếp thế nào thì không rõ.

Tranh Quan Thế-Âm Bồ-tát, đời Ngũ Đại.

Vào thời đó, hệ phái Trí Sằn - Vô Trú ở chùa Bảo Đường có lưu truyền chuyện cà-sa ở trong tay họ. Sách Lịch Đại Pháp Bảo Ký nói, Võ Tắc Thiên thỉnh mời Huệ Năng không thành nên ra lệnh mang cà-sa về đạo trường cúng dường, về sau Võ Tắc Thiên ban áo cà-sa cho Trí Sằn, lệnh Trí Sằn "về cố hương cung dưỡng vĩnh viễn", và cho người đến báo chuyện này cho Huệ Năng. Truyền thuyết này càng không đáng tin cậy.

Tranh luận và truyền thuyết liên quan đến áo cà-sa chủ yếu phản ánh sự tranh giành địa vị chính thống giữa các phái hệ nội bộ của Thiền tông. Chuyện này đối với chúng ta ngày nay có phần bất khả tư nghị, nhưng đối với các thiền tăng thời đó trong tình hình phái hệ rối rắm thì đây là một đại sự lợi hại có tính chất quyết định.

Ý kiến tương đối thống nhất hiện nay là, hình thức truyền cà-sa đến đời Huệ Năng là dứt. Phật giáo đời sau mượn chuyện này để gọi việc sư phụ truyền pháp cho đệ tử là "truyền y bát".

% NGUYÊN NHÂN LỊCH SỬ DẪN ĐẾN NAM TÔNG THAY THẾ BẮC TÔNG

Trước khi Thần Hội đến Lạc Dương, hệ thiền Thần Tú đã được sự ủng hộ của Võ Tắc Thiên và Đường Trung Tông. Thế lực của hệ phái này không thể bị "hủy diệt" vì hoạt động đấu tranh của cá nhân một người. Sự thực pháp mạch hệ Thần Tú gần như kéo dài đến mạt Đường, truyền thừa lâu hơn hệ thiền Hà Trạch Thần Hội. Chỉ có đặt các vấn đề tôn giáo, thần học trên cơ sở của cuộc sống hiện thực để khảo sát thì mới có thể lý giải chính xác. Chuyển biến Nam tông thay thế Bắc tông, xét về căn bản, là sự kiện tất nhiên của lịch sử.

Sự truyền giáo và phát triển của Phật giáo Trung Quốc liên hệ mật thiết với hiện tượng lịch sử đặc định của sự hình thành chế độ sĩ tộc. Do đó, nền kinh tế sĩ tộc suy sụp kéo theo sự suy thoái của thế lực Phật giáo dựa vào cơ sở kinh tế này, và chỉ có tông phái Phật giáo nào không có liên hệ hoặc liên hệ ít với kinh tế sĩ tộc mới có thể tránh được hoạn nạn. Sau loạn An Lộc Sơn, Sử Tư Minh, phương bắc lại trải qua pháp nạn diệt Phật của Đường Võ Tông, chiến tranh nông dân vào cuối đời Đường và chiến loạn cát cứ đời Ngũ Đại. Những biến động lịch sử này đã tiêu hủy triệt để điều kiện kinh tế để tồn tại của tông phái Phật giáo phương bắc, tu viện bị thiêu, tăng ni trốn chạy, kinh sách tán lạc. Pháp nạn "Hội Xương diệt Phật" của Đường Võ Tông không chỉ khiến thiền Bắc tông không thể tiếp tục tồn tại mà hệ thiền Hà Trạch thuộc Nam tông cũng bị mất điều kiện sinh tồn tất yếu.

.

Hai chữ khắc "Tổ Nguyên". Nam Nhạc Hoành Sơn nổi tiếng với Ma Kinh đài (Đài mai kinh) trong công án Hoài Nhượng khai ngộ Mã Tổ. Hai đại tổ sư của Nam tông từng vấn đáp ở đây.

Nguyên nhân chủ yếu khiến Bắc tông tàn lụi là tiến trình lịch sử thời vãn Đường, Đường Võ Tông diệt Phật có thể xem là bước ngoặt Nam tông Huệ Năng thắng thế Bắc tông và hướng tới phồn thịnh. Loạn An Lộc Sơn, Sử Tư Minh chủ yếu ảnh hưởng lưu vực Hoàng Hà, Võ Tông diệt Phật chưa đánh trực tiếp vào các phái Thiền tông ở lưu vực Trường Giang và địa khu Lĩnh Nam, chiến loạn Ngũ Đại hủy hoại vùng này tương đối nhẹ. Các đệ tử khác của Huệ Năng ở phương nam cách xa trung tâm chính trị có điều kiện đưa Thiền tông bước vào giai đoạn phồn thịnh. Đồng thời vào lúc Thần Hội ở phương bắc tranh đoạt pháp thống với môn đồ của Thần Tú, thì Nam Nhạc Hoài Nhượng và Thanh Nguyên Hành Tư hoằng pháp ở vùng Giang Tây, Hồ Nam làm cho thiền Nam tông phát triển mạnh mẽ. Trải qua sự nỗ lực của mấy đời thiền sư, vào lúc hai hệ phái Thần Tú và Thần Hội đồng thời suy vi, thiền Nam tông nhờ điều kiện khách quan thuận lợi đã trở thành dòng chủ lưu của Thiền tông.

Nam Nhạc Hoài Nhượng truyền Mã Tổ Đạo Nhất, Đạo Nhất đào tạo ra rất nhiều môn đồ xuất sắc, mỗi người trở thành tông sư của một phương. Thanh Nguyên Hành Tư truyền Thạch Đầu Hi Thiên, môn đồ của Hi Thiên như Đan Hà Thiên Nhiên, Dược Sơn Duy Nghiễm, Thiên Hoàng Đạo Ngộ đều là những bậc thiền sư danh tiếng vang dội, phong cách độc đáo. Ho sử dụng những phương pháp truyền thụ thiền pháp linh

Ma kinh đài ở Nam Nhạc Hoành Sơn.

hoạt biến hóa hơn Huệ Năng, Thần Hội, tiến thêm một bước thay đổi diện mạo của Thiền tông. Về sau, trên cơ sở này, "Ngũ gia thiền" lần lượt được thành lập, tiếp tục tạo thêm nhưng đột phá và phát triển lớn mạnh, mỗi tông phái đều có phong cách và tư tưởng đặc sắc riêng. Điều này có lẽ Huệ Năng và Thần Hội cũng không thể dự liệu trước. Thiền Giang Tây, Hồ Nam và Ngũ gia thiền được thành lập sau này đã phát triển thiền Huệ Năng và Thần Hội ở nhiều phương diện, biểu hiện chủ yếu đầu tiên là kiến lập phân chia ra nhiều tông phái cùng "phân đàng" hoằng pháp với thế hệ truyền thụ thiền học mới, tự do khai phóng. Thể hệ này hoàn toàn không mâu thuẫn với tình hình chính trị biến động và phương thức sản xuất phân tán của phương thức kinh tế tiểu nông, nhờ đó duy trì được tiềm lực phát triển. Thứ hai là sự cực lực phản đối ngôn thuyết tri giải, cho rằng thiền phải là sự lãnh ngộ trực quan, bất kỳ ngôn ngữ văn tự nào cũng đều rơi vào sự chấp trước khẳng định hoặc phủ định. Thứ ba là sự hấp thụ sâu sắc tư tưởng Lão Trang, lấy Phật tính luận "tính tại tác dụng" làm tiền đề, chủ trương "thuận hồ tự nhiên", "nhiệm vận", siêu việt các giới đều cơ bản của Phật giáo, lật đổ các hình thức phồn tạp của Phật giáo truyền thống.