← Quay lại trang sách

TƯ TƯỞNG CĂN BẢN CỦA-HỆ THIỀN HÀ TRẠCH--

Sau đại hội ở Hoạt Đài, danh tiếng Thần Hội ngày càng cao. Năm Thiên Bảo thứ tư đời Đường (745), Binh bộ thị lang Tống Đỉnh thỉnh mời Thần Hội về Lạc Dương, trú ở chùa Hà Trạch. Từ đó Thần Hội được gọi là "Hà Trạch thiền sư" và thiền phái do Thần Hội sáng lập có tên Hà Trạch tông. Tư tưởng của Hà Trạch tông là tư tưởng thiền học với Thần Hội là trung tâm, nhưng pháp mạch của tông này chỉ truyền được bốn đời, kéo dài khoảng 100 năm.

Tông Mật, tự xưng là pháp tự đời thứ tư của Thần Hội trong Thiền Nguyên Chư Thuyên Tập Đô Tự đã khái quát tư tưởng căn bản của thiền Hà Trạch như sau:

"Các pháp như mộng, chư thánh cùng nói. Nên vọng niệm vốn tịch lặng, trần cảnh vốn là không. Tâm không tịch thì linh tri không mờ, cái Tri không tịch này là chân tính của ông. Mặc mê mặc ngộ, tâm vốn tự tri, không theo duyên mà sinh, chẳng do cảnh mà khởi. Một chữ Tri này là cửa vào mọi lẽ huyền diệu. Do mê muội từ vô thủy nên vọng chấp thân tâm là ngã, khởi niệm tham sân. Nếu được thiện hữu khai thị, đốn ngộ cái Tri không tịch, Tri mà vô niệm vô hình, thì cái gì là ngã tướng, nhân tướng? Giác ngộ các tướng không, tâm tự vô niệm. Niệm khởi tức giác, giác rồi tức không. Diệu môn tu hành chỉ tại chỗ này. Cho nên tu đủ vạn hạnh, chỉ lấy vô niệm làm tông".

Qua đoạn trên có thể thấy ba đặc điểm quan trọng của Hà Trạch tông: Thứ nhất, "Tri là cửa vào mọi lẽ huyền diệu", thứ hai là pháp môn đốn ngộ, thứ ba là "Lấy vô niệm làm tông ".

Chữ Tri trong tư tưởng của Thần Hội có hai hàm nghĩa. Đầu tiên, "tri" là linh tri, bản giác, cũng là Chân như, Phật tính. Ở nghĩa này, Tri là bản thể của tâm, là một trạng thái tồn tại của không tịch. Cái "tri không tịch" là bản nguyên của vạn hữu vũ trụ, có thể hiển hiện vô số sắc tướng sai biệt, nó lại là linh tri, có thể quán sát thấu suốt tính hư huyễn bất thực của vô số sắc tướng sai biệt. Đây là tư tưởng phản ánh Phật tính luận của Thần Hội. Nghĩa thứ hai của chữ "tri" là biết, là tri giác, tri giải, như Thần Hội nói: "Tâm vô trụ không rời tri, tri không rời vô trụ. Biết tâm vô trụ là vô dư tri". Trong Lịch Đại Pháp Bảo Ký có viết: "Hòa thượng Thần Hội chùa Hà Trạch, Đông Kinh mỗi tháng lập đàn trường vì tăng chúng thuyết pháp, phá thanh tịnh thiền, lập Như Lai thiền, lập tri kiến, lập ngôn thuyết". Chính bản thân Thần Hội rất xem trọng tri kiến, như trong Thần Hội Ngũ Lục có nói: "Chưa đắc tu hành nhưng đắc tri giải, dùng tri giải huân tập lâu ngày thì tất cả phan duyên vọng tưởng, mọi cái nặng cũng giảm nhẹ dần". Thần Hội không phản đối môn đồ đọc sâu rộng các loại kinh điển Đại thừa. Sau này, môn hạ Hồng Châu gọi Thần Hội là "tri giải tông đồ" cũng có phần hợp lý. Đây là điểm khác biệt giữa Thần Hội và Huệ Năng.

.

Bích họa đời Đường "Thuyết pháp dưới cây Bồ-đề" ở động Đôn Hoàng, tỉnh Cam Túc. Phật ngồi kiết già dưới cây Bồ-đề, mặc cà-sa màu đỏ, dáng vẻ đang thuyết pháp, hai bên bốn vị Bồ-tát, mỗi người tư thái khác nhau.

Trong hoạt động giành địa vị chính thống cho Nam tông, Thần Hội đã công kích thiền Bắc tông "pháp môn là tiệm" và phát dương thiền đốn ngộ của Nam tông. Thần Hội nói: "Đại sư đời thứ sáu của ta, nhất nhất đều nói đơn đao trực nhập, trực liễu kiến tính, không nói tiệm tu từng bậc". (Đáp Sùng Viễn pháp sư vấn). Thần Hồi còn lập pháp môn đốn ngộ của mình trên cơ sở thuyết "nhất niệm tương ưng", cho rằng Phật tính và vô minh trong nhất thời đều có, "giác ngộ là Phật tính, không giác là vô minh", giác và không giác chỉ ở một niệm, nếu "nhất niệm tương ưng" thì lập tức thành Phật. Thần Hội dùng tư tưởng này để phản đối tư tưởng chú trọng tiệm tu của Bắc tông.

Tư tưởng "lấy vô niệm làm tông" đã có từ Huệ Năng. Thần Hội cho rằng, vô niệm là then chốt để thể ngộ Phật tính, đốn ngộ thành Phật. Thần Hội nói: "Gọi niệm, tức là cái dung của Chân như, Chân như là thể của niệm. Do nghĩa này nên lập vô niệm làm tông" (Thần Hội Ngữ Lục). Niệm có phân biệt chính niệm và vọng niệm, đều thuộc tác dụng của Chân như, vô niệm là vô vọng niệm, chứ không phải là không có tất cả mọi niệm. Thông qua tu tập vô niệm để phát hiện chân tâm, lãnh ngộ "Tự tính không tịch" đạt đến tự tại giải thoát.

Tóm lại, thiền Hà Trạch có đặc điểm căn bản là phát dương tư tưởng đốn ngộ thành Phật của thiền Huệ Năng, nhưng so với thiền Huệ Năng, phái thiền này có thêm đặc điểm là xem trọng tập khí tri giải.