← Quay lại trang sách

NGŨ VỊ QUÂN THẦN -

Tào Động tông do Động Sơn Lương Giới và đệ tử là Tào Sơn Bản Tịch sáng lập vào cuối đời Đường. Trong Ngũ gia thiền, với tư tưởng và phong cách độc đáo, Tào Động tông trở thành tông phái có sức ảnh hưởng chỉ đứng sau Lâm Tế tông. "Ngũ vị quân thần" là giáo nghĩa quan trọng của tông phái này.

Do chịu ảnh hưởng thuyết "hồi hỗ" (đã viết rõ ở trên) trong Tham Đồng Khế của Thạch Đầu Hi Thiên, Tào Động tông đặc biệt chú trọng mối quan hệ giữa Lý (bản thể) và Sự (thế giới hiện tượng). Trên mối quan hệ hỗ tương giữa Lý và Sự, Lương Giới và Bản Tịch kiến lập các thuyết "Ngũ vị" (tức năm tầng bậc hay cảnh giới), dùng để tiếp dẫn, đánh giá đệ tử tham học. Trong các thuyết "Ngũ vị", đặc sắc nhất là "Ngũ vị quân thần".

Thuyết "Ngũ vị" dùng Thiên (lệch) và Chính (chính) để biểu thị, Thiên biểu thị cho Sự, Chính biểu thị cho Lý. Sự và Lý phối hợp nhau (Thiên Chính hồi hỗ) tạo thành năm hình thức. Bản Tịch giải thích: "Thiên vị tức sắc giới, có vạn hình tượng", "Chính vị thuộc không giới, bản lai vô vật". Tào Động tông cho rằng, trên mối quan hệ giữa Chân như bản thể và thế giới vạn vật có bốn loại nhận thức phiến diện có thể xuất hiện: Một là, tuy thừa nhận có bản thể tinh thần nhưng không hiểu vạn vật do bản thể tinh thần phái sinh, ở quan hệ Thể Dụng khuyết thiếu mặt Dụng, gọi là "Chính trung Thiên", thuộc Quân vị, cần phải dùng lý luận "Thể khởi Dụng" chỉnh sửa, để "bỏ Lý theo Sự" (bối Lý tựu Sự). Hai là, tuy thừa nhận hiện tượng là giả, nhưng không hiểu được thấu suốt hiện tượng tiến thêm một bước truy tìm bản thế tinh thần khách quan, về quan hệ Thể Dụng khuyết thiếu mặt Thể, gọi là "Thiên trung Chính", thuộc Thần vị, cần dùng lý luận "Dụng qui Thể" chỉnh sửa, để "bỏ Sự vào Lý" (xả Sự nhập Lý). Ba là, thừa nhận bản thể tinh thần và đã bắt đầu từ Thể khởi Dụng nhưng vẫn chưa hoàn thiện, gọi là "Chính trung lai" hoặc "Quân thị Thần ". Bốn là, đã thừa nhận hiện tượng là giả, và cố gắng xuyên qua cái gọi là huyễn tưởng để truy tìm bản thế tinh thần nhưng cũng chưa đạt đến hoàn thiện, gọi là "Kiêm trung chí" hoặc "Thần hướng Quân". Tào Động tông cho rằng, chỉ có kiến quyết trên lập trường chủ nghĩa duy tâm để xét vấn đề quan hệ giữa hiện tượng và bản thể, tức vừa thừa nhận vạn vật do bản thể phái sinh lại vừa thừa nhận bản chất vạn vật là không, vô tự tính, thì mới có thể khắc phục bốn trường hợp sai lầm trên, lúc này gọi là "Kiêm trung đáo" hoặc là "Quân thần đạo hợp".

.

Cầu Phủng Cừ ở chùa Phổ Lợi. Chùa Phổ Lợi xây cách nay hơn ngàn năm, lịch sử cây cầu này cũng không thể biết rõ. Tương truyền Đông Sơn Lương Giới khi bái biệt Vân Nham Đàm Thạnh, đi qua cây cầu này mà triệt ngộ thiển cơ, để lại một công án nổi tiếng.

Tào Động tông xem "Quân thần đạo hợp, Thiên Chính hồi hỗ" là thế giới quan lý tưởng, khi có được thế giới quan này thì có thể "ngầm ứng chư duyên, không theo chư hữu, không nhiễm không tịnh, không Chính không Thiên", hoặc được mô tả hình tượng là "hỗn nhiên không có trong ngoài, dung hòa trên dưới bằng nhau". Luc này đã đạt đến cảnh giới chí cực Thể Dụng viên dung, Lý Sự viên dung, nhân, tình, cảnh viên dung.

Mộ tháp của Phổ Lợi.

Thanh Lương Văn Ích trong bộ Tông Môn Thập Quy Luận đã dành cho tư tưởng "Thiên Chính hồi hỗ" (Ngũ vị quân thần) của Tào Động tông một địa vị trọng yếu và chỉ trích những người không nhận thức đúng về tông chỉ Tào Động tông, chỉ nhìn thấy mặt hồi hỗ của Thiên Chính. Sự thực thì Tào Động tông giảng về Thiên Chính, Quân Thần không chỉ nói về hồi hỗ mà còn bao hàm cả mặt không hồi hỗ, đây mới là quan hệ Thể Dụng, Lý Sự hoàn chỉnh. Do đó xưa nay Tào Động tông được khen ngợi là "Gia phong nghiêm mật, ngôn hành tương ứng", phong cách đối lập rõ với Lâm Tế tông tự do phóng khoáng.

Thác nước ở chùa Phổ Lợi.

VÂN MÔN TAM CÚ

Vân Môn tông do Văn Yển ở núi Vân Môn (nay thuộc huyện Phù Nguyên, Quảng Đông) sáng lập, đạt đến cực thịnh vào đầu đời Tống, nhưng sau Nam Tống thì suy vi. Vân Môn tông cho rằng vạn sự vạn vật đều thể hiện Chân như, đều có Phật tính, chú trọng tư tưởng "nhất thiết hiện thành", "tức sự nhi chán". "Vân môn tam cú" là giáo nghĩa căn bản của Vân Môn tông mà Văn Yển thường nói với đệ tử tham thiền, đó là ba câu: Hàm cái càn khôn (Hàm chưa bao trùm càn khôn), Tiệt đoạn chúng lưu (Chặt đứt các quan niệm thông thường), Tùy ba trục lãng (Theo sóng đuổi sóng).

Về câu "Hàm cái càn khôn", Vân Môn tông cho rằng, tất cả sự vật đều do Chân như, Phật tính phái sinh. Chân như Phật tính là bản thể của vạn hữu vũ trụ. Trong Vân Môn Ngữ Lục, Văn Yển nói: "Càn khôn tịnh vạn tượng, Địa ngục cập thiên đường, Vật vật giai chân hiện, Đầu đầu tổng bất thương" (Càn khôn và vạn tượng, Địa ngục và thiên đường, Vạn vật đều chân hiện, Mỗi mỗi không phương ngại). Trên đến thiên đường, dưới đến địa ngục, tất cả vạn tượng đều do Chân như biến hiện, do đó tất cả sự vật "bản chân bản không" (bản lai vốn là chân, là không), "nhất sắc nhất vị" (tất cả hiện tượng và bản chất đều như nhau không sai biệt), "vô phi diệu thể" (không một cái gì không là diệu thể của Chân như). Câu đầu tiên này chính là sự phát triển từ tư tưởng "tức sự nhi chân" truyền từ Thanh Nguyên Hành Tư và Thạch Đầu Hi Thiên, thể hiện thế giới quan chủ nghĩa duy tâm của Vân Môn tông.

"Tiệt đoạn chúng lưu" có thể xem là nhận thức luận của Vân Môn tông. Theo Nhân Thiên Nhãn Mục thì câu này có thể giải thích là tất cả vạn hữu vũ trụ đều không phải là đối tượng nhận thức chân chính (bản phi giải hội), chỉ cần luận cập bản thể Chân như huyền diệu thì các pháp thế gian lập tức "vạn cơ liền dứt", "băng tan ngói nát", vì về bản chất chúng không tồn tại. Do đó, Vân Môn tông phản đối ngôn ngữ văn tự, cho rằng không thể dùng ngôn ngữ ý thức để nắm bắt Chân như Phật tình mà cần phải đốn ngộ nội tâm.

Câu thứ ba "Tùy ba trục lãng" tương đương với phương pháp luận của Vân Môn tông. "Tùy ba trục lãng" có nghĩa là căn cứ vào căn cơ khác nhau của người học đạo để dùng phương pháp giáo học phù hợp. Thiền tăng Vân Môn tông gọi "Tam cú" này là "xuy mao kiếm", vì chúng như lưỡi gươm cực kỳ sắc bén có thể lập tức cắt đứt "cát đằng". "Cát đằng" là dụng ngữ của Thiền tông, ý nói ngôn ngữ văn tự như "cát đằng" - dây leo rối rắm, vốn dùng để diễn bày sự tướng nhưng ngược lại bị nó bó buộc quấn chặt, thường chỉ sự chấp trước, lạm dụng ngôn ngữ văn tự, không nhận thức chính xác chân nghĩa, cũng chỉ phiền não. Văn Yển thường chỉ dùng duy nhất một chữ để trả lời câu hỏi của người học, chẳng hạn như hỏi: "Thế nào là xuy mao kiếm?" Văn Yển đáp: "Cách" (xương). Phong cách này đương thời được gọi là "Vân Môn nhất tự quan" (Ải một chữ của Vân Môn). Do dùng phương pháp quá hiểm hóc này nên giới Thiền tông thường nói tông phong Vân Môn như ngọn núi đơn độc cao sừng sững khó lên, nếu không phải là người căn cơ thượng đẳng thì khó có thể ngộ nhập. Vì muốn hoằng dương rộng rãi, làm mạnh tông phái nên đến thời Bắc Tống, Tuyết Đậu Trùng Hiển thay đổi tông phong, dần dần dung hợp với các tông phái khác.

Bia nghìn Phật, đời Bắc Chu. Đại La tôn giả.

v