← Quay lại trang sách

TƯ TƯỞNG CĂN BẢN CỦA QUI NGƯỠNG TÔNG -

Qui Ngưỡng tông do Linh Hựu và đệ tử là Huệ Tịch sáng lập, vì Linh Hựu trú ở núi Qui Sơn, Đàm Châu (nay ở phía tây huyện Ninh Hương, Hồ Nam) và Huệ Tịch trú ở núi Ngưỡng Sơn, Viên Châu (nay ở phía nam huyện Nghi Xuân, Giang Tây) nên có tên là Qui Ngưỡng tông. Tư tưởng căn bản của Qui Ngưỡng tông là lấy thế giới chủ quan và khách quan phân thành "Tam chủng sinh", là "Tưởng sinh", "Tướng sinh" và "Lưu chú sinh".

Qui Sơn Linh Hựu là pháp tự của Bách Trượng Hoài Hải. Sự khai ngộ của Qui Son khá đặc biệt được thuật lại trong Cảnh Đức Truyền Đăng Lục như sau: "Một hôm Qui Sơn đứng hầu Bách Trượng, Bách Trượng hỏi: "Ai?" Qui Sơn đáp: "Linh Hựu". Bách Trượng bảo: "Ngươi vạch lò xem có lửa không?" Qui Sơn vạch thử rồi nói: "Không có lửa". Bách Trượng đứng dậy đến lò vạch sâu thì được một chút lửa mới giở lên chỉ Qui Sơn xem: "Cái này không phải lửa sao?" Nghe câu nói này Qui Sơn hoạt nhiên khai ngộ liền lễ tạ.

Tư tưởng căn bản của Qui Ngưỡng tông là sự phân chia thế giới chủ quan và khách quan thành "Tam chủng sinh", là "Tưởng sinh", "Tướng sinh" và "Lưu chú sinh".

"Tưởng sinh" chỉ tư duy chủ quan, Qui Ngưỡng tông cho rằng cái tất cả cái tâm nghĩ nhớ (năng tư chi tâm) đều là trần cấu, nhiễm ô, cần phải lìa xa mới được giải thoát. Mà giải thoát chính là phát hiện Phật tính bản nguyên thường trú của chính mình, "tư dứt hoàn nguyên, tính tướng thường trụ". Đây chính là chủ trương thiền tăng phải từ bỏ một cách vô điều kiện sự nhận thức và tư duy theo thói quen.

"Tướng sinh" chỉ cảnh tâm tư nghĩ đến (sở tư chi cảnh) là thế giới khách quan. Qui Ngưỡng tông nhấn mạnh, cần phải triệt để phủ nhận thế giới khách quan, nếu không thì không thể đạt đến giác ngộ. Tư tưởng này được diễn tả một cách hình tượng là: "Hồi quang một phá liền quay lại, u mộng mở ra mắt rõ ràng" (Hồi quang nhất kích tiện qui khứ, u mộng nhất khai song nhãn minh).

"Lưu chú sinh" chỉ sự biến đổi vô thường của thế giới khách quan và chủ quan, luôn ở trong quá trình sinh diệt, vi tế lưu chú, chưa bao giờ gián đoạn, nên không thể dựa vào mà cần phải lìa bỏ. Chỉ có Chân như Phật tính mới là chân thực bất vọng.

.

Sơn môn chùa Mật Ấn. Chùa Mật Ấn ở núi Qui Sơn, huyện Ninh Hương, Hồ Nam, xây vào đời Đường, đến nay đã gần một ngàn năm, là Tổ đình của Qui Ngưỡng tông.

Nói tổng quát, Qui Ngưỡng tông cho rằng Tam chủng sinh "đều là trần cấu, nếu tịnh hết thì mới được tự tại" (câu vi trần cấu, nhược năng tịnh tận, phương đắc tự tại), phủ định và lìa bỏ chúng ta là tiền đề để thành Phật đạt đến tự tại.

Về lý luận tu hành, Qui Ngưỡng tông cũng tục thừa Bách Trượng Hoài Hải. Qui Sơn đặt sự thể nhận và phát hiện tự tâm Phật tính lên vị trí đầu, cho rằng vạn vật hữu tình đều có Phật tính, nếu mình tâm kiến tánh thì lập tức thành Phật.

Tam thế Phật trong đại điện chùa Mật Ấn.

PHÁP NHÃN TÔNG

Pháp Nhãn tông là tông phái được thành lập sau cùng trong Ngũ gia thiền. Người sáng lập là thiền sư Văn Ích, do ở viện Thanh Lương, Kim Lăng nên được gọi là Thanh Lương Văn Ích. Sau khi qua đời, Nam Đường trung chủ Lý Cảnh ban tên thụy là Đại Pháp Nhãn thiền sư, tông phái do Văn Ích sáng lập được gọi là Pháp Nhãn tông.

Pháp Nhãn tông thuộc pháp hệ Thanh Nguyên Hành Tư. Văn Ích đắc pháp nơi La Hán Quế Sâm, thiền sư có ghi chép lại như sau: Văn Ích kết bạn xuất du hành cuốc, một hôm nhân trời trở tuyết nên lưu lại Địa Tạng viện ở Thành Tây. Nhân lúc sưởi ấm, phương trượng là La Hán Quế Sâm hỏi: "Đi đến nơi nào?" Văn Ích đáp: "Đi hành cuốc". Quế Sâm lại hỏi: "Hành cuốc làm gì?" Văn Ích đáp: "Chẳng biết". Quế Sâm xưng tán: "Chẳng biết là rất chân thiết". Ngày thứ hai khi Văn Ích chuẩn bị từ biệt lên đường, Quế Sâm biết Văn Ích còn có thể thâm tạo nhưng không tiện nói rõ ý muốn giữ lại, mới chỉ tảng đá trước sân hỏi: "Ông thường ngày hay nói Tam giới duy tâm, Vạn pháp duy thức. Vậy tảng đá này ở trong tâm hay ngoài tâm?" Văn Ích trả lời: "Trong tâm", thế là Quế Sâm nói: "Người hành cuốc như ông sao lại đặt tảng đá trong tâm mà đi khắp xứ?" Văn Ích không đáp được, bèn ở lại. Nhưng hơn một tháng vẫn chưa khai ngộ, mỗi lần trình kiến giải đều bị Quế Sâm gạt đi, Văn Ích nói: "Con đã hết lời cùng ý rồi!" Quế Sâm lúc này nói: "Nếu luận Phật pháp thì tất cả hiện thành" (nhược luận Phật pháp, nhất thiết hiện thành), nghe câu này Văn Ích hoát nhiên đãi ngộ. "Nhất thiết hiện thành" về sau trở thành một điểm đặc sắc chủ yếu của Pháp Nhãn Tông.

Khi Pháp Nhãn Tông được thành lập thì các tông phái Thiền tông khác đã hình thành và bắt đầu xuất hiện những thiên lệch sai biệt, Văn Ích bèn soạn Tông Môn Thập Qui Luận chỉ trích mười điều tệ hại của Thiền tông đương thời. Trong bộ sách này, Văn Ích lấy "nhất thiết hiện thành" làm nguyên tắc, chủ trương dung hợp Lý và Sự, "Lý Sự chẳng hai, quí ở viên dung", "không cầu bên ngoài, hết thảy do tâm tạo". Văn Ích cho rằng Lý Sự viên dung chẳng phải do con người an bài mà bản lai là vậy, do đó là "nhất thiết hiện thành". Tư tưởng này chịu ảnh hưởng của Hoa Nghiêm tông khá lớn. Văn Ích từng dùng giáo nghĩa "Lục tướng viên dung" của Hoa Nghiêm tông để luận chứng thế giới không có sự đồng dị, lý sự chẳng phải là hai, phủ nhận sự mâu thuẫn và sai biệt chân thực của sự vật.

Đại điện chùa Mật Ấn.

Đệ tử của Văn Ích là Thiên Thai Đức Thiều cũng phát dương tư tưởng "nhất thiết hiện thành", cho rằng "Phật pháp hiện thành, tất cả có đủ, há không thấy Đạo viên mãn như thái hư, không thiếu không dư", khuyên đệ tử tham thiền không cần thiết phải ly khai thế gian mà tùy nơi đắc ngộ. Về sau Đức Thiều có làm một bài kệ biểu đạt tư tưởng này: "Thông Huyền phong đỉnh, Bất thị nhân gian, Tâm ngoại vô pháp, Mãn mục thanh sơn" (Tuyệt đỉnh Thông Huyền, Chẳng phải nhân gian, Ngoài tâm vô pháp, Mắt đầy núi xanh). Bài kệ nói lên rằng học thiền đạt đến đỉnh cao đương nhiên không giống với nhân gian, nhưng do ngoài tâm không có pháp gì cả nên tùy xứ đều có thể nhìn thấy thanh sơn (thiền cảnh). Văn Ích nghe xong đánh giá rất cao, cho rằng bài kệ này "có thể hưng khởi tông ta".

.

Chùa Phổ Lợi ở núi Động sơn, huyện Nghi Phong, tỉnh Giang Tây do thiền sư sáng lập Tào Động tông là Đông Sơn Lương Giới kiến lập. Tổ đình của Tào Động tông.

Pháp Nhãn tông đưa tư tưởng Hoa Nghiêm vào thiền, cho thấy thiền tông đã bắt đầu phát sinh biến đổi và xuất hiện một xu hướng mới. Xu hướng này là dung hợp kiêm trọng thiền và giáo. Sau này, thiền sư nối pháp Đức Thiều là Vĩnh Minh Diên Thọ biên soạn bộ Tông Kính Lục gồm 100 quyển, bộ sách này tiến thêm một bước phê bình tình trạng phổ biến trong Thiền tông là chỉ chú trọng trực quan mà không chú trọng kinh điển. Tông Kính Lục dẫn nhiều kinh luận, dùng kinh Phật chứng minh Phật, Bồ-tát và chúng sinh bản lai đều có sẵn đủ Phật tính thanh tịnh.