← Quay lại trang sách

HOA NGHIÊM THIỀN

Khuê Phong Tông Mật là danh tăng đời Đường, vốn xuất thân từ gia đình giàu có, thời thiếu niên nghiên cứu Nho thư, đến 28 tuổi theo thiền sư Đạo Viên thuộc Hà Trạch tông xuất gia tu thiền. Về sau, Tông Mật đọc Hoa Nghiêm kinh sớ của Thanh Lương Trừng Quán thuộc Hoa Nghiêm tông hết sức thâm cảm nên đến Trừng Quán cầu học vài năm. Do trải qua quá trình tu học như vậy, Tông Mật dựa trên nền tảng Thiền tông và Hoa Nghiêm tông, sáng lập ra "Hoa Nghiêm thiền" hợp nhất Thiền và Hoa Nghiêm.

Tông Mật một đời viết rất nhiều luận thư Phật học, chủ yếu là về Hoa Nghiêm tông và Thiền tông, trong các trước tác luận về Thiền tông lại thể hiện tư tưởng Hoa Nghiêm. Trong Nguyên nhân luận, Tông Mật đề xuất thuyết phán giáo "Ngũ giáo", trong đó giáo thứ năm "Nhất thừa hiển tính giáo" chính là sự hợp nhất Hoa Nghiêm và Thiền.

Để dung hợp thống nhất rộng rãi và hữu hiệu hơn giữa Thiền tông và các tông phái khác, và để dung hòa mâu thuẫn giữa các phái hệ, thiền Hoa Nghiêm của Tông Mật trên cơ sở dung hợp Thiền và Hoa Nghiêm đã tiến thêm một bước thống nhất các phái Thiền tông với Thiên Thai, Hoa Nghiêm, Duy Thức, đưa ra tư tưởng Giáo thiền hợp nhất. Như vậy, dù Thiền tông có bao nhiêu phái hệ, và ngoài Thiền có bao nhiêu giáo phái, trong hệ thống tư tưởng của Tông Mật cũng hợp nhất thành một. Đương nhiên, trung tâm của thuyết Giáo Thiền hợp nhất vẫn là sự dung hợp của Thiền tông và Hoa Nghiêm.

Tông Mật cho rằng: "Tổ của các tông, tức là Thích Ca. Kinh là lời Phật, Thiền là ý Phật, tâm khẩu của chư Phật tất không trái ngược nhau". (Chư tông thủy tổ, tức thị Thích Ca. Kinh thị Phật ngữ, Thiền thị Phật ý, chư Phật tâm khẩu tất bất tương vi). Kinh giáo là văn tự ghi chép đạo lý Phật nói, mà thiền là thực tiễn tu hành đạo lý đó. Kinh giáo và thiền hoàn toàn thống nhất nhau, đều là phó chúc của chính Phật. Từ khi Thiền tông hưng khởi, tự xưng là "giáo ngoại biệt truyền" (truyền riêng ngoài giáo) đã hình thành sự đối lập với các tông phái chú trọng nghiên cứu giảng giải kinh luận, xuất hiện tình thế "người tu tâm (chỉ Thiền tông) cho kinh luận là biệt tông, người giảng thuyết (chỉ Thiên Thai, Hoa Nghiêm, Duy Thức...) xem Thiền môn là biệt pháp", không lợi cho sự phát triển của Phật giáo. Trước khuynh hướng Thiền tông đương thời xa rời kinh luận, Tông Mật nhấn mạnh: "Kinh luận không phải là thiền, những người truyền thiền cần phải lấy kinh luận làm chuẩn".

Đầu tượng Bồ-tát của tháp "Vạn bộ Hoa Nghiêm kinh" (thường gọi là Bạch tháp).

Ở nghĩa rộng hơn, Thiền Hoa Nghiêm là tư tưởng Tam giáo hợp nhất. Thời kỳ Tùy Đường, tam giáo Nho, Phật, Đạo hình thành thế chân vạc. Tông Mật quan niệm tam giáo đều vì phục vụ chế độ xã hội cộng đồng, có mối liên hệ lợi hại thống nhất. Ở phương diện giáo nghĩa, Tông Mật cho rằng tam giáo (nhất là Nho, Phật) về mặt xem trọng hiếu đạo đều có chung quan niệm, ngũ giới của Phật giáo cũng tương đồng với ngũ thường của Nho gia.

.

Sơn Môn của chùa Thảo Đường ở huyện hộ, tỉnh Thiểm Tây. Chùa Thảo Đường được xây từ năm 401, là nơi dịch kinh Phật quốc lập qui mô lớn nhất trong lịch sử Phật giáo Trung Quốc. Cưu-Ma-La-Thập trường kỳ ở đây. Do ba bộ "Trung quán tam luận" là Trung luận, Bách luận và Thập nhị môn luận đều do Ngài dịch ở đây, cung cấp kinh điển để Tam luận tông được sáng lập, nên Ngài được tôn làm Tổ khai sáng của tông này, chùa Thảo Đường cũng do vậy trở thành Tổ đình của Tam luận tông.

Thiền Hoa Nghiêm của Tông Mật là một dấu mốc quan trọng trong quá trình Trung Quốc hóa Phật giáo, có ý định từ hợp nhất tư tưởng Thiền tông và Hoa Nghiêm hướng đến điều hòa mâu thuẫn giữa các tông phái Phật giáo và mâu thuẫn giữa Nho, Phật, Đạo. Phương pháp căn bản và hình thức lý luận của tư tưởng này có ảnh hưởng quan trọng đối với Lý học thời Tống, Minh.

Thiền tông hậu kỳ phát triển theo hướng của thiền Hoa Nghiêm, dung nạp quan hệ Lý Sự thể hiện trong thuyết Tứ pháp giới, Lục tướng viên dung, Thập huyền duyên khởi là những giáo nghĩa căn bản của Hoa Nghiêm tông. Trong Ngũ gia thiền, Pháp Nhãn tông giảng về "Thập huyền", "Lục tướng", Tào Động tông giảng về "Ngũ vị quân thần" sự hấp thu thuyết quan hệ Lý Sự của Hoa Nghiêm. Đời Ngũ Đại, Tống sơ, thiền sư Vĩnh Minh Diên Thọ kế thừa thuyết Giáo thiền hợp nhất của Tông Mật, chiêu tập các đại sư của Thiên Thai, Hoa Nghiêm, Duy Thức cùng biện luận, sau đó dung hòa hợp nhất với tư tưởng Thiền tông. Diên Thọ cho rằng, gần với thiền ý nhất là Hoa Nghiêm tông, vì vậy lấy viên tu của Hoa Nghiêm và đốn ngộ của Thiền tông dung hợp nhau là lẽ đương nhiên. Tư tưởng Giáo Thiền hợp nhất của Diên Thọ tạo ảnh hưởng đến toàn bộ Phật giáo đời Tống.