← Quay lại trang sách

LÝ CAO VÀ THIỀN TĂNG

Lý Cao (772-841) là văn nhân trứ danh đời Đường, từng theo Hàn Dũ học cổ văn, vừa là học trò vừa là bằng hữu của Hàn Dũ. Học thuyết của cả hai có ảnh hưởng quan trọng đối với sự hình thành Lý học đời Tống Minh.

Chịu ảnh hưởng của Hàn Dũ, Lý Cao từng cực lực công kích Phật giáo: "Phật giáo hại người, nặng hơn Dương (Chu), Mặc (Địch)", "thực là con mọt của dân chúng", "môn đồ đạo Phật, không chăn tằm mà đầy đủ quần áo, không cày ruộng mà cơm nước sung túc, ngồi rỗi mà lại được phục dịch, nhiều đến nghìn trăm vạn người, suy ra đủ biết có bao nhiêu kẻ đói rét". Ông còn nói việc xây dựng chùa điện, đúc tượng hao tốn tiền của sức lực của người dân còn hơn xây cung A Phòng. Lý Cao cho rằng, bài xích Phật giáo mà không hiểu Phật học thì khó có thể khuất phục tín đồ đạo Phật, vì vậy ông quyết định thâm nhập Phật học để đạt được mục đích chống lại Phật giáo.

Nhưng khi nghiên cứu sâu học thuyết Phật giáo thì Lý Cao bị thiền học hấp dẫn đến mức không thể cưỡng lại. Theo Tống Cao Tăng truyện, thời kỳ Lý Cao làm thứ sử ở Lãng Châu có đến yết kiến thiền sư Dược Sơn Duy Nghiễm (751-834), nhờ đó đắc ngộ, về sau được gặp Tử Ngọc Thiền Ông, mức độ lãnh ngộ càng cao. Trong Cảnh Đức Truyền Đăng Lục có chép chi tiết câu chuyện Lý Cao đến gặp Duy Nghiễm như sau: Lý Cao mời Duy Nghiễm xuống núi nhiều lần nhưng Sư không xuống nên ông lên núi tìm gặp. Khi đến, Duy Nghiễm đang ngồi dưới gốc tùng, tay cầm quyển kinh chẳng để ý gì đến, thị giả bạch: "Thái thú đã đến đây". Lý Cao tính nóng nảy bèn nói: "Gặp mặt không bằng nghe danh!" Sư gọi: "Thái thú!" Lý Cao dạ, Sư hỏi: "Sao lại quý tai khinh mắt?" Lý Cao chắp tay xin lỗi rồi hỏi: "Thế nào là đạo?" Duy Nghiễm dùng ngón tay chỉ trên chỉ dưới, hỏi: "Hiểu không?" Lý Cao đáp: "Không hiểu". Sư nói: "Vân tại thiên, thủy tại bình" (Mây trên trời, nước trong bình). Lý Cao rất mừng rỡ, tán thưởng, bèn sụp lạy, và làm một bài kệ:

Luyện đắc thân hình tự hạc hình

Thiên chu tùng hạ lưỡng hàm kinh

Ngã lai vấn đạo vô dư thuyết

Vân tại thanh thiên thủy tại bình.

Tạm dịch:

Luyện cho thân gầy như mình hạc

Dưới tùng ngàn gốc hai chồng kinh

Hỏi đạo mới hay một lời đủ

Mây tại trời xanh nước tại bình.

Hử khê thảo đường đồ, tranh của Văn Trưng Minh, đời Minh.

"Mây tại trời xanh nước tại bình" là thiền mà Lý Cao lãnh ngộ, mây trôi phù du giữa trời xanh, nước tĩnh lặng trong bình, một động một tĩnh, thiên chân tự nhiên, đừng chấp trước nơi tâm. Lý Cao lại hỏi tiếp: "Thế nào là Giới, Định, Tuệ?" Duy Nghiễm đáp: "Chỗ bần đạo đây, không có mấy thứ vô dụng đó!" Lý Cao nghe nhưng vẫn chưa lãnh ngộ được huyền chỉ, Duy Nghiễm nói tiếp: "Thái thú muốn bảo nhiệm việc này, phải lên đỉnh núi cao sừng sững mà đứng, xuống đáy biển thăm thẳm mà đi, những gì trong khuê các không bỏ được, thì là sấm lậu".

Ngoài ra, Lý Cao còn vấn đạo thiền sư Tây Đường Trí Tạng vào năm Trinh Nguyên (785-805), và thiền sư Nga Hồ Đại Nghĩa vào đầu năm Nguyên Hòa (806). Sự kết giao thân mật với các thiền sư và chịu ảnh hưởng thiền học của Lý Cao đã trở thành một sự thực mà mọi người đều biết.

Lý Cao lấy thực tiễn tham thiền và tu dưỡng tâm tính của bản thân kết hợp với tư tưởng Trung Dung của Nho gia để kiến lập Phục tính thuyết. Đây là tư tưởng kết hợp học thuyết tính thiện của Nho gia với tâm tính luận "bản tâm thanh tịnh" của Thiền tông. Lý Cao viết sách Phục Tính Thư, ba thiên, tuy không trích dẫn kinh luận của Phật giáo để biểu thị mình vẫn là tín đồ Nho giáo nhưng thực sự điều mà sách này muốn truyền bá chính là tư tưởng Phật giáo.