← Quay lại trang sách

NIỆM PHẬT THIỀN -

Thiền tông hấp thụ một cách ý thức tín ngưỡng và thực tiễn của Tịnh độ tông, tạo thành một thể hệ mới dung hợp Thiền tính được gọi là "thiền niệm Phật". Tông phái không thay đổi, nhưng trọng tâm việc tu tập thường ngày chuyển sang niệm Phật. Tình hình này từ đời Tống bắt đầu xuất hiện và phát triển, phản ánh một đặc điểm quan trọng của Thiền tông Phật giáo đời Tống.

Niệm Phật là nội dung cơ bản của phép tu hành Tịnh độ tông. Tương truyền vào đời Đông Tấn, đại sư Huệ Viễn lập "Liên xã" ở chùa Đông Lâm tự, phát nguyện vãng sinh Tây phương Tịnh độ. Thời Đông Ngụy, Đàm Loan ở chùa Huyền Trung tự, Phần Châu, chịu ảnh hưởng của Bồ-đề Lưu-chi, đề xướng nhất tâm chuyên niệm A-di-đà Phật thì có thể vào Tây phương Tịnh độ. Vào thời Tùy Đường, tăng nhân Đạo Xước đọc bia Đàm Loan ở chùa Huyền Trung sinh lòng ngưỡng mộ nên quy tâm Tịnh độ. Đạo Xước khuyên mọi người niệm danh hiệu A-di-đà-Phật, dùng hạt đậu để đếm số lần, một lần niệm bỏ một hạt đậu vào đẩu. Sau khi Đạo Xước qua đời, Thiện Đạo đến Trường An truyền pháp môn niệm Phật, hoàn thành giáo nghĩa và hành nghi của Tịnh độ tông. Tịnh độ tông có điểm đặc sắc là niệm danh hiệu Phật, chủ trương dựa vào tha lực (Di-đà nguyện lực) để vãng sinh vào thế giới cực lạc Tây phương. Do đơn giản dễ thực hiện nên pháp môn này thu hút dân chúng rất mạnh, tạo ảnh hưởng rộng lớn đối với xã hội.

Thiền sư Vĩnh Minh Diên Thọ là người từ rất sớm đã tích cực đề xướng thuyết dung hợp thống nhất Thiền Tịnh. Diên Thọ trong quyển Vạn Thiện Đồng Quy Tập có dẫn ra quan điểm về Thiền Tịnh song tu của đại sư Tịnh độ tông Huệ Nhật, cho rằng tất cả phép tu hành Phật giáo đều là thiền hành, sau cùng đều phải quy hướng Tịnh độ. Theo sách chép, Diên Thọ "lập công khóa mỗi ngày hành trì một trăm linh tám việc, chưa từng ngưng bỏ, người học tham vấn thì chỉ Tâm là tông, lấy Ngộ làm nguyên tắc. Đêm xuống thì qua gộp núi khác hành đạo niệm Phật, những người ở gần nghe tiếng loa bối thiên nhạc du dương" (Phật Tổ Thống Kỳ, quyển 26). Có thể thấy, Diên Thọ một mặt tiếp dẫn đệ tử tham học với tư cách thiền sư, một mặt lại chí lực thực hành niệm Phật. Nói theo một nghĩa nào đó thì thực tiễn tôn giáo của Diên Thọ lấy hồi hướng Tịnh độ làm mục đích căn bản, Diên Thọ thường "ban đêm cúng quỷ thần, ban ngày làm lễ phóng sinh, tất cả đều hồi hướng trang nghiêm "Tịnh độ".

.

Thời cổ đại Trung Quốc, tự viện Phật giáo đảm nhận rất nhiều chức năng xã hội. Đây là bích họa đời Đường ở Đôn Hoàng về cảnh trong "Tự học". Tự học là trường học miễn phí do chùa lập ra, chủ yếu dành cho thiếu nhi thuộc tầng lớp thấp kém trong xã hội.

Trong bài "Tứ liệu giản kệ" tham thiền niệm Phật của Diên Thọ, Thiền Tịnh song tu được xem là tầng tối cao của toàn bộ phương thức tu hành Phật giáo: "Có Thiền không Tịnh độ, Mười người, chín lạc lộ; Âm cảnh khi hiện ra, Chớp mắt đi theo nó. Không thiền có Tịnh độ, Muôn tu muôn thoát khổ; Vãng sanh thấy Di-đà, Lo gì không khai ngộ. Có Thiền có Tịnh độ, Như thêm sừng mãnh hổ; Hiện đời làm thầy người, Về sau thành Phật, Tổ. Không Thiền không Tịnh độ, Giường sắt, cột đồng lửa! Muôn kiếp lại ngàn đời, Chẳng có nơi nương tựa". (Thích Thiền Tâm dịch).

Khế Tung cũng chủ trương dung hợp thống nhất Thiền Tịnh, và thực hành "tối niệm danh hiệu Quán Thế Âm mười vạn lần mới ngủ" (Lâm gian lục, quyển thượng). Nghĩa Hoài cũng dùng tư cách thiền sư để dạy mọi người tu Tịnh độ, có soạn "Khuyến Tu Tịnh Độ Thuyết". Tông Trách lúc đầu kiêm học thiền giáo, sau chuyển sang Thiền Tịnh dung hợp, từng lập "Liên hoa thắng hội", quy định người dự hội không kể là tăng hay tục đều phải niệm danh hiệu A-di-đà Phật, căn cứ vào số lần niệm Phật để "hiện định công khóa". Ngoài ra, các thiền sư danh tiếng như Viên Thông Pháp Tú, Chiếu Viên Tông Bản cũng đều chủ trương Thiền Tịnh song tu. Tóm lại, Thiền niệm Phật đã dần dần trở thành xu hướng phát triển quan trọng của Thiền tông.

Trong quá trình hưng khởi và phát triển của Thiền niệm Phật, giới quan lại sĩ đại phu cũng có tác đụng thúc đẩy mạnh. Giới sĩ đại phu đời Tống rất hăng say tham thiền niệm Phật, họ không chỉ thù xướng thi văn với thiền tăng biểu lộ cùng chung tư tưởng mà còn thông qua các hoạt động kết xã thể hiện tín ngưỡng Tịnh độ. Như Tô Đông Pha từng cùng Đông Lâm Thường Tổng ở chùa Đông Lâm tự, Lư Sơn quy tập đạo tục hơn ngàn người lập Thiền xã. Tô Đông Pha đến vãng niên rất chuyên cần thực hành niệm Phật. Dương Kiệt quy y Thiên Y Nghĩa Hoài là người "minh ngộ Thiền tông", đồng thời "xiển dương Di-đà giáo", ông cho rằng niệm Phật vãng sinh Tây phương Tịnh độ là phép tu đơn giản để thực hành, chỉ cần "nhất tâm quán niệm, thu nhiếp tâm tán loạn" dựa vào Di-đà nguyện lực thì có thể đến thế giới cực lạc. Văn Ngạn Bác lúc kiêm nhiệm chức Dịch kinh nhuận văn (một chức quan đời Tống, nhuận sắc bản dịch kinh Phật của Phạn tăng), tại kinh đô cùng với thiền sư Tịnh Nghiêm kết tập tăng tục mười vạn người niệm Phật.

Trong các giai đoạn lịch sử khác nhau, Phật giáo biểu hiện các đặc điểm khác nhau. Nam Bắc Triều là thời kỳ các học phái phân tranh sôi nổi, đến thời kỳ Tùy Đường các tông phái lần lượt thành lập. Mỗi tông phái Phật giáo trong thời Tùy Đường đều có điểm đặc sắc riêng, dù mỗi tông cùng chia ra các phái biệt với "tông nhân" phân minh. Phật giáo đời Tống thì ra sức xóa mờ ranh giới giữa các tông phái, tiêu dùng nét đặc sắc của từng tông phái, điều hòa thống nhất quan hệ Tâm giáo (Nho, Phật, Lão). Thiền niệm Phật hưng thịnh cho thấy đặc điểm của Thiền tông thời kỳ Đường Mạt, Ngũ Đại đã được thay thế bởi thực tiễn tôn giáo bình dân thông tục.