← Quay lại trang sách

TƯ TƯỞNG ĐẶC SẮC CỦA MINH GIÁO KHẾ TUNG -

Minh Giáo Khế Tung là thiền sư trứ danh thuộc Vân Môn tông, hoạt động mạnh vào thời Tống Nhân Tông. Trong toàn bộ trước tác hơn trăm quyển, bộ Phụ Giáo Biên, 3 quyển, thể hiện rõ nhất điểm đặc sắc của tư tưởng Khế Tung, đó là "Tam giáo hợp nhất".

"Tam giáo hợp nhất" tư tưởng là điều hòa, thống nhất Nho giáo, Phật giáo và Đạo giáo. Trọng tâm của Phụ Giáo Biên là "dẫn rộng khắp các kinh sách điển tịch, để chứng minh tam giáo là nhất trí, hổ trợ giáo nghĩa lẫn nhau". Khế Tung cho rằng, tam giáo tuy có tên gọi khác nhau, nhưng mục đích nhất trí, chỉ khác nhau ở chỗ sâu cạn và công dụng.

Tư tưởng Tam giáo hợp nhất của Khế Tung đặc biệt nhấn mạnh quan niệm về trung hiếu. Trong Phụ Giáo Biên có phần "Hiếu luận" gồm 12 chương, được viết nhằm vào quan niệm luân lý của các nhà lý học và ngôn luận bài Phật của những người như Hàn Dũ đời Đường, Âu Dương Tu đời Tống, dùng sự nhất trí ở mặt lý luận về đạo hiếu của Nho, Phật để điều hòa, thống nhất. Trong phần "Nguyên giáo", Khế Tung thuyết minh tính nhất trí giữa trung và hiếu, và tính tất yếu của sự tận trung đối với vua, tận hiếu đối với cha mẹ, đặc biệt chỉ ra "đạo của Phật cũng có ý ở quốc gia thiên hạ". Trong "Trung Dung Giải" cho rằng, tu dưỡng phải bắt đầu từ "Trung dung", từ đó tu tập nhân nghĩa ngũ thường, từ sự chính tâm, thành ý, tu thân của cá nhân mới có thể đạt đến lý tưởng tề gia, trị quốc, bình thiên hạ. Đây là quan điểm lấy nguyên tắc luân lý của Nho gia làm chuẩn tắc của sinh hoạt thiền.

Trong đời Tống, đề xướng hợp nhất Tam giáo, đưa Nho vào Phật, ngoài Khế Tung còn có nhiều thiền sư khác như Vĩnh Minh Diên Thọ, Đại Giác Hoài Liên, Phật Ấn Liễu Nguyên, Viên Ngộ Khắc Cần, Đại Huệ Tông Cảo. Phật Ấn Liễu Nguyên trực tiếp nêu khẩu hiệu dung hợp tam giáo cho Vương An Thạch là: "Mũ Đạo, giày Nho, Cà-sa Phật, hòa hợp ba nhà thành một nhà" (Đạo quan, Nho lý, Phật cà-sa, Hòa hợp tam gia tác nhất gia).

Tư tưởng và hoạt động của Khế Tung vào thời đó được hưởng ứng rất mạnh và tạo ảnh hưởng lớn đối với Phật giáo đời sau. Danh tiếng Khế Tung vang dội khắp nơi, trước tác cũng được Tống Nhân Tông sắc nhập Đại Tạng Kinh.

Với Khế Tung là đại biểu, tư tưởng Tam giao hợp nhất trong Thiền tông đời Tống là kết quả của sự phát triển trong mối quan hệ lâu dài của tam giáo trong lịch sử. Trước đời Tống, tư tưởng Tam giáo hợp nhất, chủ yếu đề xướng về mặt lý luận, lấy Tam giáo để thực hiện một số so sánh, đối chiếu giản đơn. Đến đời Tống, các thiền sư đã tiến hành điều hòa, dung hợp tư tưởng Phật giáo với tư tưởng Nho giáo, Đạo giáo một cách sâu sắc hơn, toàn diện và tập trung trọng điểm hơn. Điểm đặc sắc của tư tưởng Khế Tung phản ánh sự thỏa hiệp của Phật giáo đối với Nho giáo. Đồng thời, do ra đời vào lúc Lý học được kiến lập nên tư tưởng Khế Tung chịu sự ảnh hưởng mạnh của quan niệm luân lý đạo đức (như trung hiếu) của Lý học. Các thiền sư cần phải thay đổi phong cách để thích ứng với thế hệ lý luận của triết học thế tục. Trong đời Tống, theo sự lớn mạnh của nền chính trị tập quyền trung ương và sự củng cố, xác lập địa vị triết học quan phương của Lý học, Phật giáo ngày càng biểu hiện đặc điểm như một thành phần phụ trợ. Tương ứng với điều này, nét đặc sắc của tư tưởng Thiền tông cũng phát sinh thay đổi.

ĐẠI HUỆ TÔNG CẢO VÀ THUYẾT "TÂM TRUNG NGHĨA"

Đại Huệ Tông Cảo là nhân vật tiêu biểu của Thiền tông thời Lưỡng Tống, ngoài đề xướng Khán thoại thiền còn đưa ra thuyết "Tâm trung nghĩa". Tông Cảo cho rằng tín đồ Phật giáo cũng phải có phẩm cách tư tưởng trung quân ái quốc như kẻ sĩ trung nghĩa trong thế tục. Tông Cảo hợp luận việc học Phật và trung quân, nêu lên sự thống nhất giữa Bồ-đề tâm của Phật giáo và trung nghĩa tâm của Nho giáo.

Tông Cảo nói: "Bồ-đề tâm là Trung nghĩa tâm, khác tên những đồng thể", và nói: "Không có người trung quân mà bất hiếu, cũng không có người hiếu mà không trung quân, chỉ cần y theo thánh nhân khen ngợi mà thực hành, không dám vi phạm điều thánh nhân la mắng thì đối với người Trung, Hiếu, đối với Sự, Lý, trị thân trị người, không gì không chu toàn, không gì không sáng rõ". Tông Cảo còn tự nói: "Ta tuy là người học Phật, nhưng lòng ái quân ưu quốc cũng như sĩ đại phu trung nghĩa, nhưng lực bất tòng tâm mà tuổi đã xế chiều". (Đại Huệ Ngữ Lục, quyển 24). Sau khi Tông Cảo qua đời, Trương Tuấn soạn bài minh khắc trên tháp có xưng tụng: "Sư tuy là phương ngoại sĩ, mà tận nghĩa với vua, mỗi khi đề cập thế sự, lòng yêu vua lo lắng thế sự có thể thấy trong ngữ khí".

Thực sự trong cuộc đời tu hành của mình, Tông Cảo cũng từng thực hành tư tưởng "trung quân ưu thời". Theo Tống Sử, phần truyện Trương Cửu Thành có chép: "Thiền sư Tông Cảo ở Kính Sơn, giỏi bàn thiền lý, người theo rất đông, Trương Cửu Thành thỉnh thoảng vãng lai. Tần Cối e sợ Trương Cửu Thành bàn luận về mình nên lệnh cho Tư gián Chiêm Đại Phương luận tội Cửu Thành và Tông Cảo chế giễu triều chính, đày đi Nam An Quân". Trương Tuấn trong bài minh khắc cũng nói: "Những người Tông Cảo kết giao đều là bậc hiền tài, quan danh tiếng đương thời như Thị lang Trương Công Tử Thiều (Cửu Thành) là bạn thân thiết, Sư cũng vì thế mà gặp họa... Bị đày đi Hoành Châu mười năm, rồi chuyển qua Mai Châu năm năm". Trương Cửu Thành do trong triều bàn luận về thời cuộc nghịch ý với Tần Cối, tán đồng với Triệu Đỉnh phản đối hòa Kim, nên Tần Cối căm hận, hạch tội làm mất chức. Tông Cảo giao du với Trương Cửu Thành, không hùa theo Tần Cối nên cũng trở thành đối tượng công kích của Tần Cối.

Mộ Nhạc Ngạc vương (Nhạc Phi) ở Hàng Châu, Chiết Giang.

Nguyên nhân trực tiếp của sự kiện này là vụ "Thần Tý Cung". Năm Thiệu Hưng thứ mười một đời Nam Tống (1141), Trương Cửu Thành đến Kính Sơn tham bái Tông Cảo, nói chuyện liên quan đến "Thần Tý Cung" (tượng trưng thắng địch), trong "Vân Ngọa Thư" có chép: "Nay sơn tăng (Tông Cảo tự xưng) gọi thiền của Thị lang (Trương Cửu Thành) là Thần Tý Cung". Không lâu sau, Trương Cửu Thành bị xử phạt, Tông Cảo cũng dính lây, bị đày đến Hoành Dương vì tội lúc triều đình đang nghị binh lại bàn luận lung tung về Thần Tý Cung. Tần Cối cho rằng đây là ám chỉ ý kiến phản chiến cầu hòa của mình. Tông Cảo bị lưu phóng ở Hoành Châu, Mai Châu mười lăm năm, tăng cũng như tục vẫn theo như trước, nói "dù chết không hối hận". Có thể thấy Đại Huệ Tông Cảo trong mắt người đương thời là một vị tăng ái quốc giàu tinh thần dân tộc.

.

Đình chuông Lục hòa ở Hàng Châu. Thời Bắc Tống, Võ Tòng sau khi theo Tống Giang, đánh dẹp khởi nghĩa Phương Lạp, ở bên sông Tiền Đường nghe tiếng chuông Lục hòa, bèn xuống tóc đi tu, được hưởng thọ cao.

Trước đời Tống, Nho gia giảng về "hiếu", chú trọng ở "chuyển hiếu thành trung", vấn đề trung hiếu rơi vào sự phục tùng tuyệt đối với vua, nhưng bắt đầu từ đời Tống, "trung quân" và "ái quốc" thường được đưa ra cùng bàn luận. Trong đời Tống, dù là lý học gia chính thống (như Chu Hy) hay phái phản đối trong nội bộ lý học (như Trần Lượng, Diệp Thích), đều xem "trung quân ái quốc" là tiêu chuẩn tối cao để làm người. Phật giáo vốn thoát tục, lìa xa thế sự, khi đã xuất gia, mang họ Thích, cũng cắt đứt quan hệ với cha mẹ, không bị ràng buộc bởi những quan niệm luân lý theo như thế tục. Tông Cảo dung hợp mật thiết thực tiễn tôn giáo của mình với lý tưởng "trung quân ái quốc" của thế tục, điều này phản ánh sâu sắc sự ảnh hưởng của hiện thực xã hội đầy lo lắng bất an đương thời đối với Phật giáo. Để thích hợp với nhu cầu thực tế của đời sống thế tục, Phật giáo đời Tống đã trực tiếp hấp thụ quan niệm "trung hiếu tiết nghĩa" như một phần của giáo nghĩa Phật giáo.