← Quay lại trang sách

NGUỒN GỐC THUYẾT

Người sáng lập Thiên Thai tông là Trí Khải, trong quyển Ma Ha Chỉ Quán có nói về Tây Thiên nhị thập tứ Tổ", khởi đầu từ Ca Diếp, cuối cùng là Sư Tử, thêm Mạt Điền Địa, tổng cộng 24 vị. Nhưng Thiền tông lại phủ nhận thuyết này và đưa ra hệ truyền thừa khác, là "Tây Thiên nhị thập bát Tổ".

Từ thời Đông Hán, các nhà sư từ Ấn Độ, Trung Á và vùng Tây Vực đến Trung Quốc dịch kinh truyền giáo ngày càng nhiều, họ cũng mang theo truyền thuyết về thể hệ truyền pháp Phật giáo, những sự kiện này được chép lại không it trong sử sách Phật giáo Trung Quốc. Trong đó có liên quan trực tiếp đến Thiền tông là quyển Phó Pháp Tạng Truyện, còn có tên là Phó Pháp Tạng Nhân Duyên Truyện. Quyển này được dịch 3 lần, lần đầu tiên được dịch bởi Thích Bảo Vân đời Văn Đế, Lưu Tống, có tên là Phó Pháp Tạng Kinh, lần thứ hai đó Thích Đàm Diệu dịch vào năm Hòa Bình thứ ba (462) đời Văn Thành Đế, Bắc Ngụy, lần thứ ba do sa môn Tây Vực là Cát Ca Da dịch vào năm Diên Hưng thứ hai đời Hiếu Văn Đế, Bắc Ngụy (472).

Phó Pháp Tạng Truyện ghi chép thế hệ truyền pháp tổng số 23 đệ tử đích truyền sau khi Thích Ca Mâu Ni nhập diệt, là Mà Ha Ca Diếp, A Nan, Thương Na Hòa Tu, Ưu Ba Cúc Đa, Đề Ca Đa, Di Giá Ca, Phật Đà Nan Đề, Phật Đà Mật Đa, Hiếp Tôn Giả, Phú Na Xa, Mã Minh, Tỷ La, Long Thụ, Ca Na Đề Bà, La Hầu La, Tăng Già Nan Đề, Tăng Già Đa Xá, Cưu Ma La Đa, Xà Dạ Đa, Bà Tu Bàn Đà, Tổ Ma Nô La, Hạc Lặc Na, Sư Tử.

Thuyết 28 vị Tổ bắt đầu từ Bảo Lâm truyện của Trí Cự đời Đường. Thiên Thai tông cho rằng tên bốn vị Tổ cuối cùng là bịa đặt ra, do Trí Cự thấy trong Đạt Ma Đa La Thiền Kinh có nêu ra 9 người, người thứ 8 là Đạt Ma Đa La, thứ 9 là Bát Nhã Mật Đà La, nên thêm hai chữ Bồ Đề vào phía trước chữ Dat Ma, đưa Bồ Đề Đạt Ma vào sau Bát Nhã Mật Đà La, rồi lại lấy tên hai vị Tổ ở vị trí khác là Bà Xá Tư Đa và Bất Như Mật Đa đưa vào sau Tổ thứ 24, cuối cùng thành 28 người (với Ma Ha Ca Diếp là sơ Tổ). Đến thời sơ Tống, Cảnh Đức Truyền Đăng Lục xuất hiện, thuyết 28 vị Tổ dẫn dần định hình. Trong năm Gia Hựu đời Bắc Tống, Khế Tung theo Bảo Lâm Truyện, soạn Thiền Tông Định Tổ Đồ, Truyền Pháp Chính Tông Kỳ, Truyền Pháp Chính Tông Luận, một lần nữa khẳng định thế hệ truyền pháp ở Ẩn Độ của Thiền tông là 28 người. Qua sắc nhập Đại tạng của hoàng đế Nhân Tông, thuyết này trở thành định luận. Để cho Tổ vị của Bồ Đề Đạt Ma có lý do vững chắc, bộ Cảnh Đức Truyền Đăng Lục chú thích phía dưới tên Bồ Đề Đạt Ma là "Vốn tên là Bồ Đề Đa La". Chính Tông Ký lại đổi thành "Tên ban đầu là Bồ Đề Đa La, cũng có hiệu là Đạt Ma Đa La". Trong Định Tổ Đồ, phía dưới tên Bồ Đề Đạt Ma chú là "Có tên khác nhau, như Đạt Ma Đa La, có đến ba bốn thuyết".

.

Tháp nhục thân Trí Khải (538-597) ở Trí Giả tháp viện, Thiên Thai sơn. Tháp cao 7 m, chạm trổ tinh xảo, tầng thứ nhất ở khám thờ đặt tượng Trí Khải ngồi. Trên tường của điện có tranh 17 vị Tổ sư của Thiên Thai tông: Trí Khải, Quán Đỉnh, Tri Uy, Huệ Uy, Huyền Lãng, Trạm Nhiên, Đạo Thúy, Hành Mãn, Quảng Tu, Vật Ngoại, Nguyên Tú, Thanh Tủng, Hi Tịch, Nghĩa Thông, Tri Lễ, Từ Vân, Truyền Đăng.

Bên Thiên Thai tông, những vị như Từ Phương, Tùng Nghĩa từng phản đối kịch liệt thuyết định Tổ của Thiền tông. Họ không chỉ cho rằng thuyết này vô căn cứ, mà luôn cả những câu chuyện trứ danh lưu truyền trong Thiền tông như "niêm hoa vi tiếu", Đạt Ma xách dép về Tây, Huệ Khả vì cầu pháp đứng trong tuyết chặt tay cũng là hư cấu.

Thiên Thai tông chú trọng Chỉ Quán song tu, Chỉ Quán là hợp xưng của Thiền định và Trí huệ. Trí Khải sáng lập Thiên Thai tông, chính thức xác định Chỉ và Quán không thể xem nhẹ bên nào, cho rằng "hai pháp Chỉ Quán" là "hai bánh của xe, hai cánh của chim" (Tu Tập Chỉ Quán Tọa Thiền Yếu Pháp). Để chứng tỏ sự trường lưu uyên viễn của tông phái mình, họ đã truy ngược ngọn nguồn tư tưởng lên đến Long Thụ bên Ấn Độ. Do vậy, thiền pháp và thuyết các vị Tổ của Thiên Thai tông và Thiền tông mâu thuẫn nhau là điều không khó lý giải. Sự thực thì thuyết 24 vị Tổ của Thiên Thai tông cũng như thuyết 28 vị Tổ của Thiền Tông đều thiếu căn cứ xác thực. Sự tranh luận chỉ thể hiện ý thức tông phái mãnh liệt của bản thân các vị sư, rất khó thấy được ý nghĩa thực tế gì. Hai tông phái lớn này của Phật giáo đời Tống rất quan trọng vấn đề định Tổ còn vì một nguyên nhân khác, đó là để cho địa vị của tông phái mỗi bên mạnh hơn. Trần Thuấn Du đời Tống trong quyển Minh Giáo Đại Sư Hành Nghiệp Ký cho rằng, Khế Tung soạn Chính Tông Ký và Định Tổ Đồ chính là "ngậm ngùi đau xót cho sự lăng trì Thiền môn".

GIÁ TRỊ CỦA "TỔ ĐƯỜNG TẬP"

Tổ Đường Tập, 20 quyển do hai thiền sư Tĩnh, Quân ở chùa Chiêu Khánh, Tuyền Châu thời Nam Đường Ngũ Đại biên soạn, hoàn thành vào năm Bảo Đại thứ mười (952). Về phương diện thiền sử, Tô Đường Tập chiếm một địa vị đặc biệt vì là bộ sử thư Thiền tông hoàn chỉnh được hoàn thành trước bộ Cảnh Đức Truyền Đăng Lục hơn nửa thế kỷ.

Hai thiền tăng Tĩnh, Quân là đệ tử tam truyền của Tuyết Phong Nghĩa Tồn (Nghĩa Tồn truyền Bảo Phúc Tòng Triển, Tòng Triển truyền Phúc Tiên Văn Đăng, Văn Đăng truyền Tĩnh, Quân). Nghĩa Tồn được trọng đãi trong thời Thái Tổ Vương Thẩm Tri của Mân Quốc, giảng pháp ở đất Mân (Phúc Kiến) hơn 40 năm, tăng chúng khắp bốn phương theo học rất nhiều, không dưới một nghìn năm trăm người. Đệ tử đắc pháp là Huyền Sa Sư Bị cũng được Mân vương trọng đãi, tôn làm thầy, ban cho tử y, sư hiệu. Do chiến loạn thời Đường mạt Ngũ Đại, thiền tăng trong thiên hạ kéo xuống phương nam, tập trung ở vùng Chiết Giang, Phúc Kiến, lại do con của Vương Thẩm Tri là Vương Diên sùng bái Phật, từng độ tăng hai ngàn người nên ở đất Mân có rất nhiều tăng. Thời đó, trong giới Thiền tông, có câu "Bắc có Triệu Châu, Nam có Tuyết Phong", đủ thấy nhân tài dưới cửa Tuyết Phong Nghĩa Tồn rất nhiều. Do nơi Tuyết Phong Nghĩa Tồn quy tập thiền khách đến từ khắp nơi trong nước nên số lượng dân tăng lên, thoại đề cũng ngày càng tăng. Những điều kiện này là bối cảnh để hình thành Tổ Đường Tập.

Nội dung của Tổ Đường Tập là những sự tích và ngữ cú vấn đáp của 256 vị Tổ sư Thiền tông từ Ca Diếp đến thời Đường mạt Ngũ Đại (cuối cùng là Phúc Tiên Văn Đăng), chủ yếu là hệ Tuyết Phong Nghĩa Tồn.

Học giả nghiên cứu thiền sư trứ danh người Nhật là Liễu Điền Thánh Sơn cho rằng, "khai bản của Tổ Đường Tập trải qua đến nay vẫn còn nhiều chỗ không rõ, nhưng với sự tái phát hiện vào thời cận đại, đối với việc nghiên cứu lịch sử Thiền tông sơ kỳ, Tổ Đường Tập là sử liệu quý báu chỉ đứng sau văn hiến Đôn Hoàng". Điều đáng tiếc là bộ sách này từ rất lâu im lìm biệt tích, không biết được "bản lai diện mục" thế nào, cho đến năm 1912, học giả Nhật Bản là Quan Dã Trinh, Tiểu Dã Huyền Diệu khi tra cứu Đại Tạng Kinh bản Cao Ly tàng trữ ở chùa Hải Ấn Tự, núi Ca Da sơn, nam bộ Triều Tiên đã phát hiện ra bản Tổ Đường Tập hoàn chỉnh 20 quyển. Trước thời điểm này, chúng ta chỉ biết trong Giáp Chú Phụ Giáo Biên do Khế Tung soan và tự chú có nói đến đã từng thấy qua Tổ Đường Tập, từ đó về sau không ai không biết gì về bộ sách này. Sau đại chiến thế giới lần thứ hai, đại học Hoa Viên Nhật Bản ấn hành bộ Tổ Đường Tập bản phổ cập, đến năm 1972, Liễu Điền Thánh Sơn xuất bản ở Nhật Bản ảnh ấn. Hiện nay, một số tổ chức nghiên cứu Trung Quốc đã có được bản ảnh ấn này, có giá trị rất lớn đối với nghiên cứu Thiền tông.

Quan điểm chung cho rằng, Tổ Đường Tập sau khi lưu truyền hơn nửa thế kỷ đã bị mất địa vị, nguyên nhân chủ yếu là sự lưu truyền phổ biến của bộ Cảnh Đức Truyền Đăng Lục. Bộ Truyện Đăng Lục này sau khi hoàn thành không lâu đã được sắc nhập Đại Tạng Kinh, được tôn sùng đặc biệt, dần dần phổ biến khắp hai giới tăng tục, từ đó thay thế địa vị và sự ảnh hưởng của Tổ Đường Tập.