← Quay lại trang sách

CẢNH ĐỨC TRUYỀN ĐĂNG LỤC -

Cảnh Đức Truyền Đăng Lục do thiền sư đời Bắc Tống là Đào Nguyên biên soạn, gồm 30 quyển. Trước khi Bảo Lâm Truyện và Tổ Đường Tập được phát hiện, Cảnh Đức Truyền Đăng Lục là bộ thiền sử hoàn chỉnh cổ nhất, có giá trị sử liệu vượt xa Ngũ Đãng Hội Nguyên, là tư liệu quan trọng không thể thiếu trong việc nghiên cứu Thiền tông.

Cảnh Đức là niên hiệu thời Tống Chân Tông, chỉ thời đại hoàn thành của bộ sách. Do đèn (đăng) có thể chiếu sáng chỗ tăm tối nên Thiền tông gọi truyền pháp cũng giống như "truyền đăng", vì vậy bộ sách lấy tên là "Truyền Đăng Lục". Cảnh Đức Truyền Đăng Lục ghi chép ngữ cú vấn đáp các thế hệ truyền pháp của Thiền tông tổng công 52 đời, 1701 người, từ Phật quá khứ cho đến pháp tự Pháp Nhãn Văn Ích và phần phụ lục có 951 người. Quyển 1 và 2 chép 7 vị Tổ quá khứ, 27 vị Tổ Tây thiên; quyển 3 chép 5 vị Tổ Đông thổ (Đạt-ma là Tổ thứ 28 ở Tây thiên và là sơ Tổ ở Đông thổ); quyển 4 chép tứ Tổ Đạo Tín đến pháp hệ rẽ ra từ ngũ Tổ Hoằng Nhẫn; quyển 5 chép pháp tự Huệ Năng, bao gồm pháp hệ Qui Ngưỡng tông, Lâm Tế tông; từ quyển 14 đến 26 chép pháp tự của đệ tử Huệ Năng là Thanh Nguyên Hành Tư, bao gồm pháp hệ của Tào Động tông, Vân Môn tông, Pháp Nhãn tông. Ngoài ra còn có phần truyện những vị ngoài tông chính thống nhưng đạt ngộ ở Thiền môn, ngữ lục các thiền sư danh tiếng và thi văn tán tụng.

Sau khi hoàn thành, bộ sách được dâng lên triều đình, Tống Chân Tông gọi Hàn lâm học sĩ Dương Ức, Binh bộ viên ngoại lang Lý Duy, Thái thường thừa Vương Thự Thẩm định nhuận sắc, phê chuẩn nhập tạng. Nhờ vậy, bộ sách có địa vị đặc biệt, từ đó được lưu truyền rộng rãi nhanh chóng.

Về thể loại và nội dung, Truyền Đăng Lục thuộc thế kỷ ngôn, khác với thể "ký hành" (cũng chép lời nói nhưng chép hành vi là chính) của "tăng truyện", cũng thuộc thể loại "phổ lục thể", tục ghi chép theo thứ tự từng đời, đây cũng là điểm khác với thể truyện ký của tăng truyện. Truyền Đăng Lục chỉ giới hạn trong Thiền tông, không giống như tăng truyện gồm đủ các tông phái khác nhau. Từ khi phát hiện bộ Bảo Lâm Truyện và Tổ Đường Tập vào nửa đầu thế kỷ 20, chúng ta mới biết được Truyền Đăng Lục chịu ảnh hưởng và trích dẫn hai bộ sách này. Sự thực là trước khi Truyền Đăng Lục hoàn thành, vào thời Đường mạt, Ngũ Đại đã xuất hiện nhiều loại sử như Thiền tông, do đó về mặt nội dung, Truyền Đăng Lục dựa trên cơ sở các tác phẩm này, thu thập thêm nhiều tư liệu rồi chọn lựa tu sửa. Truyền Đăng Lục trải qua nhuận sắc của văn nhân, nên văn chương sinh động hơn, vì vậy xưa nay vẫn luôn được cả hai giới tăng tục yêu thích.

Sau khi Cảnh Đức Truyền Đăng Lục phổ biến, trong đời Tống lần lượt xuất hiện thêm nhiều bộ "đăng lục". Đến các đời Nguyên, Minh, Thanh, vẫn tiếp tục truyền thống này, biên soạn liên tiếp nhiều bộ, hiện nay có thể biết được khoảng vài chục bộ. Do ảnh hưởng của tình hình này, Nho gia cũng mô phỏng biên soạn các bộ sách tương tự, như Y Lạc Uyên Nguyên Lục của Chu Hy, Minh Nho Học Án, Tống Nguyên Học Án của Hoàng Tông Hi, Nho Lâm Tông Phái của Vạn Tư Đồng đều thuộc thể loại này.

NGŨ ĐĂNG HỘI NGUYÊN

Ngũ Đăng Hội Nguyên, 20 quyển, xuất hiện sau Cảnh Đức Truyền Đăng Lục, biên soạn trên cơ sở bốn bộ đăng lục, tổng hợp và bỏ bớt những phần rườm rà. Bộ sách này có cương mục rõ ràng, tiện lợi, vì vậy sau khi xuất hiện, địa vị của năm bộ đăng lục bao gồm cả Cảnh Đức Truyền Đăng Lục đều bị Ngũ Đăng Hội Nguyên thay thế, trở thành bộ đăng lục được lưu truyền rộng nhất.

Sau khi Cảnh Đức Truyền Đăng Lục của Đạo Nguyên ra đời, lần lượt xuất hiện thêm bốn bộ đăng lục là Thiên Thánh Quảng Đăng Lục, Kiến Trung Tĩnh Quốc Tục Đăng Lục, Liên Đăng Hội Yếu và Gia Thái Phổ Đăng Lục. Thiên Thánh Quảng Đăng Lục gồm 30 quyển do Lý Tuân Húc thuộc tông Lâm Tế soạn vào năm Thiên Thánh thứ bảy đời Tống Nhân Tông (1029); Kiến Trung Tĩnh Quốc Tục Đăng Lục, 30 quyển do thiền sư Duy Bạch thuộc Vân Môn tông soạn vào năm nguyên niên hiệu Kiến Trung Tĩnh Quốc đời Tống Huy Tông (1101); Liên Đăng Hội Yếu, 30 quyển do thiền sư Ngộ Minh thuộc Lâm Tế tông soạn vào năm Thuần Hi thứ mười đời Hiếu Tông (1183); Gia Thái Phổ Đăng Lục, 30 quyển do thiền sư Chính Thụ thuốc Vân Môn tông soạn vào niên hiệu Gia Thái đời Ninh Tông (1201-1204).

Trong bốn bộ trên, bộ đầu tiên cách bộ Cảnh Đức Truyền Đăng Lục chỉ hơn mười năm, thế hệ các tông không khác biệt, chỉ có thứ tự các chương hơi thay đổi, số người và ngũ cú vấn đáp được bổ sung nhiều hơn, nên gọi là "Quảng Đăng Lục". Kiến Trung Tĩnh Quốc Tục Đăng Lục cách bộ Cảnh Đức Truyền Đăng Lục gần trăm năm, thư mục kế tục theo Đạo Nguyên nên gọi là "Tục Đăng Lục", bộ này chia thành năm phần là Chính tông, Đối cơ, Niêm cổ, Tụng cổ, và Kệ tụng, số người khoảng hơn 1700 người. Liên Đăng Hội Yếu cách bộ Kiến Trung Tĩnh Quốc Tục Đăng Lục chỉ hơn 80 năm, người biên soạn có ý hợp nhất ba bộ đăng lục thành một, và bổ sung ngữ lục của các thiền sư thuộc hai tông Lâm Tế, Vân Môn trong vòng 80 năm chưa được đưa vào. Gia Thái Phổ Đăng Lục được soạn cách Liên Đăng Hội Yếu chỉ 20 năm, tác giả chưa từng nhìn thấy bộ Liên Đăng Hội Yếu, mà do thấy Thiên Thánh Quảng Đăng Lục và Kiến Trung Tĩnh Quốc Tục Đăng Lục không chép đế vương, công khanh, sư ni, đạo tục, thiếu ý nghĩa "phổ chiểu", nên bất luận là tăng hay tục, toàn bỏ những nhân vật quan trọng chưa có trong ba bộ đăng lục Bắc Tống đều được tác giả đưa vào.

Phù điêu gạch màu đời Bắc Tống, cảnh một vị sư và hai tín đồ đang tấu nhạc.

Tác giả Ngũ Đăng Hội Nguyên là Phổ Tế, thuộc phái Dương Kỳ của Lâm Tế tông, tam thế tôn của Tông Cảo. Phổ Tế tổng hợp 150 quyển của "Ngũ đăng" (năm bộ đăng lục), rút lại còn 20 quyển, nhưng nội dung chỉ giảm khoảng khoảng một nửa, do đó có cảm giác gọn gàng rõ ràng nhưng đủ những phần quan trọng, đối với người chỉ cần nắm sơ lược Thiền tông thì đây là bộ sách nhập môn rất thích hợp.

Tượng Thập bát La-hán (một phần) đời Tống ở chùa Linh Ẩn, Hàng Châu.

Nguyên năm bộ đăng lục bố cục theo cách phân ra hai hệ lớn là Nam Nhạc và Thanh Nguyên, sau đó không phân tông lập phái. Do trải qua nhiều đời, chi phái chia ra nhiều nên hai đại hệ khó thể thống nhiếp hết nên Ngũ Đăng Hội Nguyên thay đổi cách bố cục, dưới Nam Nhạc, Thanh Nguyên lại chia ra theo tông phái, rõ ràng dễ tra cứu, tiện lợi cho người đọc. Quyển 1 từ bảy vị Phật đến sáu vị Tổ ở Đông Thổ; Quyển 2 là pháp tự của Ngũ Tổ, Lục Tổ và thánh hiền ứng hóa; Quyển 3, 4 chép về Nam Nhạc Hoài Nhượng đến 5 đời; Quyển 5, 6 chép về Thanh Nguyên Hành Tư đến 7 đời; Quyển 7, 8 từ đời thứ 2 sau Thanh Nguyên đến đời thứ 9; Quyển 9 là Qui Ngưỡng tông từ đời thứ 3 sau Nam Nhạc đến đời thứ 8; Quyển 10 là Pháp Nhãn tông từ đời thứ 8 sau Thanh Nguyên đến đời thứ 12; Quyển 11, 12 là Lâm Tế tông từ đời thứ 4 sau Nam Nhạc đến đời thứ 15; Quyển 13, 14 là Tào Động tông từ đời thứ 4 sau Thanh Nguyên đến đời thứ 15; Quyển 15, 16 là Vân Môn tông từ đời thư 6 sau Thanh Nguyên đến đời thứ 16; Quyển 17, 18 là Hoàng Long phái từ đời thứ 11 sau Nam Nhạc đến đời thứ 17; Quyển 19, 20 là Dương Kỳ phái từ đời thứ 11 sau Nam Nhạc đến đời thứ 17.

Ngũ Đăng Hội Nguyên không chỉ là tài liệu nghiên cứu sử Thiền tông và là phương tiện tham thiền đắc ngộ của tăng đồ Phật giáo (nhất là thiền tăng) mà còn mở rộng kiến thức cho giới văn nhân sĩ đại phu. Do ngôn ngữ văn chương sinh động, tinh xảo, công án ngữ lục, vấn đáp đối ngữ độc đáo thú vị, siêu thoát thế tục, nên rất được cả hai giới tăng tục yêu thích. Như một món ăn tinh thần, từ đời Nguyên, Minh trở đi, các sĩ đại phu ưa chuộng thiền đều gia tàng bộ sách này.

Nhưng đối với việc nghiên cứu sử Thiền tông, Ngũ Đăng Hội Nguyên có những khuyết điểm của nó. Do lược bỏ khá nhiều nên tư liệu không đầy đủ như bộ Cảnh Đức Truyền Đăng Lục, hơn nữa, vì tổng hợp từ các bộ đăng lục trải qua nhuận sắc nhiều lần, lại thêm bớt hoặc lược bỏ theo ý riêng nên nguyên ý của Tổ sư các đời cũng có phần thay đổi. Vì vậy, khó có thể xem Ngũ Đăng Hội Nguyên như một tư liệu gốc để nghiên cứu, xét về giá trị học thuật, bộ sách này thấp hơn bộ Cảnh Đức Truyền Đăng Lục.