← Quay lại trang sách

TƯ TƯỞNG THIỀN HỌC CỦA VIÊN TRUNG LANG-

Viên Hoằng Đạo, tự Trung Lang, cùng với anh là Bá Tu (Viên Tông Đạo) và em là Tiểu Tu (Viên Trung Đạo) trong văn học phản đối phục cổ, chủ trương diễn tả tính linh, người đương thời gọi là phái Công An (họ là người ở đất Công An, Hồ Bắc), chiếm một vị trí trong văn học sử cổ đại Trung Quốc. Ba anh em Viên Trung Lang có trình độ tu dưỡng thiền học rất cao, điều này ảnh hưởng rất lớn đến văn phong của họ.

Thời đại của Viên Trung Lang là thời kỳ trung hưng của Phật giáo cuối đời Minh với "tứ đại cao tăng" và cũng là thời kỳ hoạt động sôi nổi của những học giả tiếp nối học phái Thái Châu là Lý Chí, Quản Chí Đạo, Phan Sĩ Tảo, Đào Vọng Linh, Tiêu Hoành. Viên Trung Lang chịu sự ảnh hưởng mạnh từ họ, đạt trình độ cao trong thiền học hẳn không phải là sự ngẫu nhiên. Thiền sư Tử Bá Chân Khả trong giới tư tưởng đương thời cùng với Lý Chí được xưng tụng là "hai đại giáo chủ", kết giao rộng rãi với văn nhân sĩ đại phu, với Viên Trung Lang có thể nói là rất thân thiết. Lý Chí rất mê thiền học, có thể gọi là tín đồ cuồng nhiệt của Thiền tông, ông từng ở trong tự viện tham thiền học Phật hai mươi năm, Viên Trung Lang suốt đời dùng lễ thầy trò đối với ông, chịu ảnh hưởng rất sâu sắc. Những người của học phái Thái Châu đa số đều kết duyên mật thiết với Phật học, vừa bàn Nho lại luận thiền, Viên Trung Lang giao vãng với họ với quan hệ bằng hữu hoặc theo lễ thầy trò, nên tự nhiên ảnh hưởng lẫn nhau, về tư tưởng thiền học ông hấp thụ được nhiều lợi ích.

Viên Trung Lang cũng từng đi thi, làm qua chức huyện lệnh, nhưng thấy thế sự ô trọc nên từ bỏ chốn quan trường, cùng với hai anh em nghiên cứu kinh Phật, đặc biệt là thiền học. Sau khi được Lý Chí ấn khả, Viên Trung Lang muốn lập công tích, nên mua 300 mẫu đất trong thành, ở giữa xây mấy trường đê, xung quanh trồng vạn gốc liễu, đặt tên là Liễu Lãng (Sóng liễu), từ đó ngày đêm tham cứu, không màng đến thế sự. Về sau tuy có mấy độ bất đắc dĩ phải ra làm quan nhưng cuối cùng ông đều tìm đủ lý do để từ khứ.

Viên Trung Lang tự nói về trình độ tu dưỡng thiền học của mình như sau: "Ta tự biết thi văn thì một chữ cũng không thông, duy chỉ có Thiền tông là không dám quá khiêm nhường. Hiện nay, kình địch chỉ có mỗi một Lý Hoằng Phủ (Lý Chí) tiên sinh, còn những thiền sư tinh luyện, những bậc thiền bá tham thiền lâu năm khác, đều thường bại trong tay Trung Lang này". (Thư cho Trương Ấu Vu). Ý tự phụ của ông rất rõ ràng qua những dòng chữ trên. Nhưng Viên Trung Lang quan niệm thế nào về thiền? Ông nói: "Thiền là Định, nhưng thiền lại mang nghĩa không ngừng nghỉ, như thiền xuân mà là thu, thiền ngày mà là đêm, chính là thế vậy. Đã gọi là thiền thì thiên lưu không ngừng, biến huyễn vô thường, sao mà có lề lối cố định được? Học thiền há lại có định pháp để theo ư? Vả lại thiền vốn bất tất thoái thì cần gì phải tiến?", "Tiến thoái là sự, không tiến thoái là lý. Tiến thoái, không tiến thoái, là sự lý vô ngại. Tiến không ngại thoái, thoái không ngại tiến, là sự sự vô ngại". (Thư cho Tào Lỗ Xuyên).

Phong hạ túy ngâm đỗ, tranh của Từ Bôn, đời Minh.

Đây là thiền học được kiến lập trên cơ sở thuyết "viên dung vô ngại" của Hoa Nghiêm, đại ý là nói tham thiền bất tất phải câu nệ hình thức, phép tắc, mà cần phải có kiến giải độc sáng riêng. Từ quan điểm này, Viên Trung Lang phản đối các thiền gia đương thời xem tọa thiền là công phu hoặc suốt ngày tham công án, hoặc dùng kiểu cơ phong gây kinh ngạc có vẻ đúng mà lại sai. Ông nói: "Trên đời há có thiền có thể tham rõ ràng minh bạch sao? Nếu thiền có thể tham rõ ràng minh bạch, thì hiện nay mắt thấy tai nghe, tóc xuôi mày ngang, đều có thể tham minh bạch được. Phải biết tóc không vì không tham mà không xuôi, mày không vì không tham mà không nằm ngang, thì thiền không vì không tham mà không sáng rõ, rõ ràng như vậy". Đây có thể nói là một kiến giải độc đáo. Thiền tông xưa nay thường lấy sự khác biệt giữa thiền Huệ Năng "bản lại vô nhất vật" (bản lai không một vật) và thiền Thần Tú "thời thời cần phất thức" (luôn siêng năng lau chùi) mà chia ra đốn tiệm, cao thấp, thì Viên Trung Lang lại cho rằng đây là kiến giải của kẻ phàm phu kém cỏi". Đây cũng là một quan điểm độc lập không hùa theo quan điểm phổ biến.

Bát nhã ba la mật đa tâm kinh, thư pháp của Chu Thiên Cầu, đời Minh.

Ngoài ra, ông cũng bất mãn trước hiện tượng quá lạm giữa Nho và Thiền, cho rằng thiền sở dĩ có tệ hại này là bắt đầu từ Vương Dương Minh lấy Nho làm Thiền, sau đó sĩ đại phu lấy Thiền làm Nho, kết quả là "không độc một mình Thiền thì chẳng thành Thiền, mà Nho cũng không thành Nho".

Cho dù Viên Trung Lang hết sức tự phụ về thiền học, nhưng thiền học của ông cũng không thuần túy, mà thường bộc lộ tư tưởng tình cảm và chí hướng cuộc sống của văn nhân sĩ đại phu. Huynh trưởng Bá Tu nhìn thấy điều này rất rõ ràng: "Thạch Đầu cư sĩ (Viên Trung Lang) thiếu thời dốc chí tham thiền, căn tính rất thông minh, trong mười năm, có phần thấu triệt, cơ phong nhạy bén, ngôn ngữ viên chuyển, tự cho là liễu ngộ. Tuy tình cảm thế tục đã giảm ít, không nhập trần lao, nhưng trào phong lộng nguyệt, đăng sơn ngoạn thủy (ý nói viết lách vô liêu, vớ vẩn), sa đà trong trường văn tửu, say sưa trong nghiệp tao nhã, ngạo mạn ngang tàng, chưa bỏ được phóng túng. Những bệnh như hiện nay, khó có thể thoát hết". (Bài tựa trong Tây Phương Hợp Luận). Trong nội tâm sâu xa của Viên Trung Lang đầy những mâu thuẫn sâu sắc. Đối với thế sự tuy rất ưu phẫn nhưng cũng mặc nhiên chấp nhận, tuy nhất ý tham thiền học Phật nhưng lại không chịu rời bỏ cuộc sống thế tục. Sự kết hợp Nho Phật làm cho tư tưởng của Viên Trung Lang biểu hiện sắc thái chủ nghĩa cá nhân mãnh liệt. Ông phản bác sự pha trộn quá lạm giữa Nho và Thiền, nhưng thực tế chính ông lại là sự dung hợp của Nho và Thiền. Như vậy cầu giải thoát làm sao được?