CỐNG HIẾN CỦA HỒ THÍCH ĐỐI VỚI THIỀN HỌC
Từ năm 1924, Hồ Thích khởi soạn quyển Trung Quốc Thiền Tông Sử, lập tức cảm thấy hứng thú đặc biệt đối với một vài nhân vật và sự kiện quan trọng trong thời kỳ đầu của Thiền tông và ông đã tiến hành nhiều khảo cứu công phu. Cho đến vãn niên, nghiên cứu lịch sử Thiền tông vẫn chiếm một vị trí quan trọng. Trong toàn bộ tác phẩm của Hồ Thích, nghiên cứu liên quan đến thiền học chiếm một số lượng không ít.
Tháng 9 năm 1926, Hồ Thích tham gia hội nghị ở Châu Âu, phát hiện trong Thư viện quốc gia Paris bản chép tay (tả bản) ba quyển ngữ lục của Thần Hội mà Paul Pelliot lấy từ động Đôn Hoàng, sau đó lại phát hiện ở Viện bảo tàng Anh quốc (The British Museum, London), quyển Đốn Ngộ Võ Sinh Bát Nhã Tụng của Thần Hội cũng là tả bản ở Đôn Hoàng do Aurel Stein lấy đi. Năm 1927, Hồ Thích về nước, lúc đến Tokyo, qua các học giả Nhật Bản, ông biết được tả bản Đôn Hoàng quyển Đàn Kinh được lưu trữ ở Viện bảo tàng Anh quốc. Sau đó, Hồ Thích tiến hành hiệu chỉnh, so sánh Thần Hội Ngữ Lục và Đàn Kinh bản Đôn Hoàng, đến năm 1930 cho xuất bản quyển Thần Hội Hòa Thượng Di Tập. Về sau, Hồ Thích nhớ lại giai đoạn này có nói: "Ảnh hưởng lớn lao của sự kiện phát hiện này thật không thể ngờ được, là vì nó dẫn đến việc phải viết lại toàn bộ lịch sử Thiền tông từ đầu". (Tự truyện Hồ Thích). Những lời này tuy có phần quá khích, nhưng phát hiện của Hồ Thích thật sự đã có ảnh hưởng quan trọng đối với những nghiên cứu sau này.
Trước và sau khi Hồ Thích qua đời, hàng loạt vấn đề liên quan đến ai là tác giả Đàn Kinh, địa vị của Thần Hội và lịch sử Thiền tông sơ kỳ đã được thảo luận sâu rộng. Không chỉ những học giả Trung Quốc mà các học giả Nhật Bản như Vũ Tỉnh Bá Thọ (Ui Hakuju), Linh Mộc Đại Chuyết (Daisetz Teitaro Suzuki), Liễu Điền Thánh Sơn (Yanagida Seizan), Quan Khẩu Chân Đại (Sekiguchi Shindai), Nhập Thỉ Nghĩa Cao (Iriya Yoshitaka)... cũng đưa ra những quan điểm riêng. Những năm gần đây, học giả Trung Quốc ngày càng hứng thú nghiên cứu Đàn Kinh và Thần Hội Ngữ Lục. Với nỗ lực của các học giả trong và ngoài Trung Quốc, việc nghiên cứu Thiền tông đã đạt được trình độ khá cao. Cần phải thừa nhận rằng, tình hình phát triển rực rỡ này có thể truy ngược đến sự kiện phát hiện tả bản Đôn Hoàng và công sức nghiên cứu hiệu đính bước đầu những tư liệu này của Hồ Thích. Ở phương diện này, Hồ Thích là người có công lao khai phá đầu tiên.
Hồ Thích
Sau khi quyển Thần Hội Hòa Thượng Di Tập xuất bản, một số học giả Nhật Bản dựa theo các tài liệu được cung cấp trong quyển này, lần lượt phát hiện thêm một số tư liệu mới. Năm 1932, Thạch Tỉnh Quang Hùng phát hiện một phần quyển Thần Hội Hòa Thượng Ngữ Lục tả bản Đôn Hoàng. Năm 1934, Daisetz Teitaro Suzuki, Rentaro Koda tham chiếu bản của Hồ Thích, lấy bản của Thạch Tỉnh Quang Hùng hiệu đính rồi cho xuất bản. Năm 1957, Nhập Thỉ Nghĩa Cao phát hiện một bản tương tự từ tư liệu Đôn Hoàng do Aurel Stein lấy về nước Anh, đầu bản này có một bài tự ngắn, đề là "Nam Dương hòa thượng vấn đáp tạp trưng nghĩa". Như vậy đến hiện nay, Thần Hội Ngữ Lục có tất cả ba tả bản Đôn Hoàng.
Đại bát-niết-bàn kinh, bản ở động Đôn Hoàng, tỉnh Cam Túc, là di vật đời Lục Triều.
Giới học giả khi thảo luận về thiền học, hầu như không có ngoại lệ đều phải đề cập đến quan điểm, tư liệu về Thiền tông sử của Hồ Thích. Hồ Thích để lại những tác phẩm đã dẫn đến không ít tranh luận như "Từ bản dịch nghiên cứu thiền pháp Phật giáo", "Luận về cương lĩnh Thiền tông sử", "Thế hệ Thiền tông thời đại Bạch Cư Dị", "Thiền học cổ sử khảo", "Bồ-đề Đạt-ma khảo", "Lăng-già tông khảo", "Đàn Kinh khảo", "Sự phát triển của thiền học Trung Quốc", "Một quan điểm mới về Thiền tông sử", "Hà Trạch đại sư Thần Hội truyện". Xuất phát từ "hoài nghi", dùng phương pháp "khảo chứng", những tác phẩm này đưa ra rất nhiều kết luận võ đoán rất khó được mọi người chấp nhận. Nhưng không thể phủ nhận, những khảo chứng này của Hồ Thích vẫn có giá trị học thuật nhất định, có nghĩa khải phát đối với nghiên cứu của những người đi sau.
Hồ Thích đưa ra nhiều quan điểm khác hẳn với truyền thống, chẳng hạn như qua khảo chứng cho rằng "tước bỏ thần thoại, khảo chứng sử liệu, không thể không thừa nhận Đạt-ma là một nhân vật lịch sử, nhưng sự tích của Đạt-ma hoàn toàn không quan trọng đến mức như trong truyền thuyết". Hồ Thích nói rằng vào thời Đạo Tuyên "hoàn toàn không có sự kiện Đạt-ma gặp Lương Vũ Đế, cũng không có chuyện thần thoại như bẻ một nhành lau vượt sông, có thể thấy vào giữa thế kỷ 7, những truyền thuyết này chưa từng xuất hiện". (Bồ-đề Đạt-ma khảo, Hồ Thích văn tồn tam tập, quyển 4). Ở một số vấn đề cụ thể trong nghiên cứu lịch sử Thiền tông, phần lớn quan điểm của Hồ Thích là sai lầm, nhưng cũng có vài trường hợp ông đưa ra kết luận phù hợp với sự thực. Hồ Thích từ rất sớm đã chỉ ra sự khác biệt giữa Thiền Trung Quốc và Thiền Ấn Độ, cho rằng chỉ đến thời đại Huệ Năng, Mã Tổ Đạo Nhất mới có thể nói là thực sự hình thành Thiền Trung Quốc. Hồ Thích cho rằng sự hưng khởi của Thiền tông là "một cuộc vận động rất vĩ đại" của sử Trung Quốc hóa Phật giáo. Từ góc độ tư tưởng sử, ông chỉ ra, tư tưởng Nho gia truyền thống Trung Quốc là nhập thế, khác với chủ nghĩa xuất thế của triết học Ấn Độ, do đó "sau khi Trung Quốc hóa, giản đơn hóa Phật giáo thì mới có Lý học Trung Quốc" (Một quan điểm mới về Thiền tông sử).