← Quay lại trang sách

ĐỊA VỊ CỦA THIỀN SƯ ẨN NGUYÊN TRONG LỊCH SỰ THIỀN TÔNG NHẬT BẢN

Phật giáo Nhật Bản vào thời đại Giang Hộ ở trong trạng thái đình trệ, lễ nghi quy chế của tự viện Thiền tông ngày càng sa sút. Sự xuất hiện thiền sư Ẩn Nguyên đã cứu vãn tình hình này, Hoàng Bá tông do Ẩn Nguyên sáng lập trở thành một sự kiện trọng đại trong lịch sử Phật giáo Nhật Bản.

Ẩn Nguyên, tên Long Kì, người Phúc Thanh, Phúc Kiến, Trung Quốc. Ẩn Nguyên, nhiều năm theo Mật Vân Viên Ngộ tham học. Năm Sùng Trinh thứ 7 đời Minh (1634), Ẩn Nguyên được Phí Ẩn Thông Dung ấn khả chính tông Lâm Tế. Về sau Ẩn Nguyên tiếp nhận thỉnh cầu của tăng chúng, trở thành trụ trì núi Hoàng Bá.

Năm 1654 (niên hiệu Thuận Trị thứ 11 đời Thanh), Ẩn Nguyên dẫn hơn hai mươi đệ tử đến Nhật Bản, được tăng chúng Nhật Bản nghênh tiếp long trọng. Nhiều thiền sư thuộc tông Tào Động Nhật Bản như Thiết Tâm, Độc Đầu, thuộc tông Lâm Tế như Độc Chiếu đều lần lượt đến thụ giáo, tăng tục nam nữ kéo đến đảnh lễ cầu học liên miên không dứt, cực thịnh một thời. Không đến một năm, danh tiếng của Ẩn Nguyên ở Nhật Bản đã vang lừng khắp nơi, tín đồ Phật giáo tôn xưng là "Cổ Phật Tây Lai".

Đại điện chùa Toshodaiji ở Nại Lương (Nara), Nhật Bản.

Cống hiến lớn nhất của Ẩn Nguyên đối với Phật giáo Nhật Bản là sáng lập tông Hoàng Bá. Năm 1659, chùa Vạn Phúc được kiến thành với Ẩn Nguyên là Tổ khai sơn, có tên trùng với chùa Ẩn Nguyên trụ trì ở Phúc Kiến, Trung Quốc, vì vậy người đời sau gọi chùa ở Phúc Kiến là "Cổ Hoàng Bá" hoặc "Đường Hoàng Bá", còn chùa ở Nhật là "Tân Hoàng Bá". Vài năm sau đó, Ẩn Nguyên lại lập ra Thiền đường, Phuơng trượng, Trúc lâm tinh xá, mời nghệ nhân ở Tuyền Châu, Phúc Kiến là Phạm Đạo Sinh tạc tượng Phật, Quán Thế Âm, Thập Bát La Hán, tái hiện lại diện mạo của thiền lâm Trung Quốc. Ẩn Nguyên lập tông truyền pháp ở Nhật Bản được sự trọng vọng và ủng hộ của Pháp hoàng Hậu Thủy Vĩ, nhiều lần được ban tặng, sau khi qua đời được ban thụy hiệu là "Đại Quang Phổ Chiếu quốc sư".

SỰ GIAO LƯU GIỮA THIỀN SƯ TRUNG QUỐC VÀ NHẬT BẢN

Lịch sử giao lưu văn hóa Trung - Nhật kéo dài hơn 1400 năm, trong đó sự giao lưu giữa các thiền tăng là một bằng chứng lịch sử quan trọng của mối quan hệ hữu hảo của hai nước.

Vào khoảng những năm 650-654, tăng nhân Nhật Bản là Đạo Chiếu đến Trung Quốc theo Huyền Trang học Pháp tướng tông (Duy thức tông), về sau đến chùa Long Hóa ở Tương Châu (nay là Hà Nam) theo thiền sư Huệ Mãn học thiền. Sau khi về nước, Đạo Chiếu ở chùa Nguyên Hưng lập ra thiền viện. Năm 736 (niên hiệu Khai Nguyên thứ 24 đời Đường), thiền sư Trung Quốc là Đạo Toàn sang Nhật Bản, ở chùa Đại An truyền thiền Bắc tông. Đệ tử Đạo Toàn là Hành Biểu kế tục thiền pháp này, truyền cho "Truyền Giáo đại sư" Tối Trừng. Tối Trừng đến Trung Quốc vào năm Diên Lịch thứ 23 (năm Trinh Nguyên thứ 20 đời Đường, năm 804), theo Tiêu Nhiên ở núi Thiên Thai học thiền pháp Ngưu Đầu, sau khi về nước ở núi Tỉ Duệ truyền dạy bốn tông Viên, Mật, Thiền, Giới. Sau đó không lâu, thiền sư Đường triều là Nghĩa Không, Đạo Phưởng đến Nhật Bản, bắt đầu truyền bá Thiền tông.

Thời kỳ Nam Tống, giới Phật giáo Nhật Bản ngưỡng mộ thiền học đời Tống nên nhiều người đến Trung quốc cầu học liên miên không dứt, một số thiền sư Trung Quốc cũng phấn khích trước sự hứng khởi của thiền học ở Nhật Bản, phát chí "du hành hóa đạo". Vào nửa sau thế kỷ 13, mâu thuẫn giai cấp và mâu thuẫn dân tộc trong xã hội Trung Quốc hết sức khốc liệt, thiền tăng tộc Hán quyết "sống không ăn gạo nhà Nguyên, chết không chôn đất nhà Nguyên" nên quyết ý Đông độ. Vì vậy sự giao vãng giữa thiền tăng hai nước tiến vào cao trào lịch sử. Tăng nhân Nhật Bản Minh Am Vinh Tây hai lần đến Trung Quốc, sau khi về nước thành lập Lâm Tế tông. Năm 1235, Viên Nhĩ Biện Viên đến Trung Quốc tham học thiền pháp Vô Chuẩn Sư Phạm, sau khi trở về Nhật ra sức truyền bá thiền Lâm Tế, phát dương Thiền tông thịnh hành khắp kinh kỳ. Năm 1246 đời Tống, thiền sư Lan Khê Đạo Long ở núi Thiên Đồng sang Nhật, trở thành vị khai sơn chùa Kiến Trường ở Liêm Thương. Không lâu sau, thiền tăng Nhật Bản là Tâm Địa Giác Tâm sang Trung Quốc đến tham học ở núi Kinh sơn, A Dục Vương sơn, Ngũ Đài sơn, rồi về nước truyền bá thiền pháp Lâm Tế, sau khi qua đời được ban tên thụy là "Pháp Đăng Viên Minh quốc sư".

Năm 1259, Nam Phổ Thiệu Minh đến Trung Quốc, học thiền sáu năm, được thiền sư Kính sơn Hư Đường ấn khả, về nước trú tại chùa Kiến Trường ở Liêm Thương, môn hạ đệ tử hơn ngàn người. Trong thời này, các thiền sư trứ danh tông Lâm Tế như Ngột Am Phố Ninh là pháp tự của Vô Chuẩn Sư Phạm, từng là thủ tọa ở chùa Linh Ẩn, Hàng Châu và chùa Thiên Đồng, Tứ Minh. Vô học cũng là pháp tự của Vô Chuẩn, từng vân du Linh Ẩn tự, A Dục Vương sơn. Khi quân Nguyên xuống phương nam, Vô Học bị bắt, trước khi bị xử chém thản nhiên đọc bài thơ:

"Càn khôn không đất dung thân trúc,

Vui đắc người Không, pháp cũng Không.

Thân trọng Đại Nguyên ba thước kiếm,

Vung trong ảo ảnh chém xuân phong."

Quân Nguyên nghe xong kinh dị bèn thả đi. Vô Học qua Nhật bản trở thành vị khai sơn chùa Viên Giác ở Liêm Thương, sau khi qua đời được ban thụy hiệu "Phật Quang quốc sư", "Viên Mãn Thường Chiếu quốc sư".

Sau khi Hoàng Bá tông được thành lập, các vị trụ trì Hoàng Bá sơn qua 12 đời tiếp theo (Mộc Am, Huệ Lâm, Độc Trạm, Cao Tuyền, Thiên Ngai, Duyệt Sơn, Duyệt Phong, Linh Nguyên, Húc Như, Độc Văn, Cảo Đường, Trúc Am) đều là thiền sư Trung Quốc, đến đời thứ 14 (kể từ Ẩn Nguyên) là Long thống thì vị trụ trì mới là thiền sư Nhật Bản, nhưng khi Long Thống rời pháp tịch thì tiến cử thiền tăng đời Thanh là Đại Bằng trụ trì, sau Đại Bằng các vị kế tiếp là Bách Si, Bá Hống, Đại Thành đều là người Trung Quốc, Tổ Nhãn là người Nhật.

Sự giao vãng giữa thiền tăng Trung Quốc và Nhật Bản không những chỉ có ý nghĩa ở sự truyền bá trao đổi tư tưởng Thiền tông, mà còn đẩy mạnh sự giao lưu toàn diện văn hóa của hai nước. Nghệ thuật kiến trúc, thủ công, lịch pháp truyền thống Trung Quốc và hội họa, thư pháp từ Đường Tống về sau trong quá trình này cùng đã được dân tộc Nhật Bản hấp thu.