CÁC TÔNG PHÁI THIỀN TÔNG NHẬT BẢN
Thiền tông Nhật Bản có ba tông là Lâm Tế tông, Tào Động tông và Hoàng Bá tông. Thiền tông được thành lập ở Nhật Bản hơi muộn, đến thời đại Liêm Thương (1192 - 1333), Thiền tông mới chính thức thành lập. Vào đời Đường, trong số người Nhật đến Trung Quốc cầu học tuy có không ít người học thiền (như Đạo Chiếu), và cũng có thiền sư Trung Quốc sang Nhật truyền thiền pháp (như Nghĩa Không), nhưng họ đều chưa thành lập được tông phái.
Tăng nhân người Nhật là Vinh Tây đến Trung Quốc học Phật hai lần vào năm 1168 (năm Càn Đạo thứ tư, Nam Tống) và năm 1187 (năm Thuần Hy thứ 14). Vinh Tây tham học thiền sư Hư Âm Hoài Sưởng ở chùa Vạn Niên tự, núi Thiên Thai, được truyền tâm ấn tông Lâm Tế. Về sau Hoài Sưởng dời qua Thiên Đồng, Vinh Tây đi theo hầu hạ tham học, đến năm Thiệu Hy thứ hai (1191) được y cụ ấn tín. Sau khi về nước, Vinh Tây truyền bá Thiền tông, sáng lập Lâm Tế tông Nhật Bản.
Đệ tử tái truyền của Vinh Tây là Đạo Nguyên vào năm Gia Định thứ 16 (1223) đến Trung Quốc, lần lượt đến Thiên Đồng sơn, Kính sơn, Thiên Thai sơn, được thiền sư Thiên Đồng Như Tịnh thuộc Tào Động tông ấn khả. Sau khi về nước, Đạo Nguyên hoằng dương Thiền tông, sáng lập Tào Động tông Nhật Bản.
Nhật Bản vào thời đại Nam Bắc Triều (Nambokucho) và thời đại Thất Đinh (Muromachi) (1333 - 1600) chiến tranh liên miên, xã hội loạn lạc, một số tông phái Phật giáo Nhật Bản hưng thịnh từ thời đại Liêm Thương (Kamakura) bắt đầu suy yếu, nhưng Lâm Tế tông và Tào Động tông lại phát triển và hưng khởi, những cao tăng của hai tông này được sự kính trọng và ủng hộ của giới mạc phủ tướng quân và võ sĩ.
Trong thời Nam Bắc Triều, Lâm Tế tông Nhật Bản xuất hiện hai đại cao tăng là Quốc sư Mộng Song và quốc sư Đại Đăng. Mộng Song hiệu Sơ Thạch, là cháu chín đời của Thiên Hoàng Vũ Đa, sau khi xuất gia theo thiền sư Vô Ẩn ở chùa Kiến Nhân tham thiền, về sau theo học thiền sư Cao Phong ở chùa Vạn Thọ được truyền tâm ấn. Do học thức uyên bác nên được Thiên Hoàng Đề Hồ rất kính trọng, sắc phong làm quốc sư. Đại Đăng hiệu Diệu Siêu, tự Tông Phong, năm 20 tuổi theo thiền sư Phật Quốc xuất gia, sau theo học Quốc sư Đại Ứng được đắc ngộ. Đại Đăng từng làm lễ quy y cho hai vị Thiên Hoàng là Hoa Viên và Hậu Đề Hồ. Sau khi Thiên hoàng Hậu Đề Hồ dời xuống phương nam ở Cát Dã, Đại Đăng cũng trở thành quốc sư Nam Triều, danh tiếng ngang hàng với quốc sư Mộng Song ở Bắc Triều.
Ngoài hai tông Lâm Tế và Tào Động, Thiền tông Nhật Bản vào thời đại Giang Hộ (1760 - 1868) lại có thêm Hoàng Bá tông. Người sáng lập Hoàng Bá tông là Ẩn Nguyên Long Kỳ, thiền sư Trung Quốc đời Minh. Do thiền sư Nhật Bản là Dật Nhiên ở chùa Hưng Phúc, Trường Kỳ thỉnh mời nhiều lần, vào năm Thuận Trị thứ 11 đời Thanh (1654), thiền sư Long Kỳ đến Nhật Bản. Long Kỳ kiến lập chùa Vạn Phúc, ở núi Hoàng Bá, Vũ Trị, Kinh Đô, được tôn là Sơ tổ tông Hoàng Bá. Từ khi được thành lập, Hoàng Bá tông được giới Phật giáo Nhật Bản hưởng ứng rất mạnh, ngay cả những thiền tăng thuộc hai tông Lâm Tế và Tào Động cũng chuyển sang học tông Hoàng Bá.
Thiền tông Nhật Bản bắt nguồn từ Trung Quốc, là sự nối tiếp và phát triển Thiền tông Trung Quốc. Tư tưởng và phong cách các tông phái Thiền tông Nhật Bản về cơ bản duy trì đặc trưng của Thiền tông Trung Quốc. Kiến trúc thiền tự, cách bài trí thiền đường đều mô phỏng thiền viện Trung Quốc, sinh hoạt hàng ngày của thiền tăng cũng theo như Trung Quốc. Ngữ lục khai thị của thiền sứ Nhật Bản pha lẫn những dụng ngữ thời Tống, Minh, kết hợp tham thiền và niệm Phật, hàng ngày dùng Hán ngữ, tụng kinh theo Hán âm trở thành thanh quy của tông Hoàng Bá. Những chùa thuộc tông Hoàng Bá đến hiện nay vẫn duy trì phong phạm của thiền lâm cận đại Trung Quốc.
CỐNG HIẾN CỦA MINH AM VINH TÂY VỚI THIỀN TÔNG NHẬT BẢNVinh Tây, hiệu Minh Am, được phong là "Thiên Quang quốc sư", người ở Bị Trung (Bitchu), hiện nay là Cương Sơn (Okayama), là thiền sư sáng lập Lâm Tế tông ở Nhật Bản.
Vinh Tây xuất gia từ nhỏ, thụ giới ở giới đàn núi Tỉ Duệ. Năm 19 tuổi (1159) theo pháp sư Hữu Biện ở núi Tỉ Duệ học giáo nghia Thiên Thai tông, đồng thời theo pháp sư Cơ Hảo học Mật giáo và theo pháp sư Hiển Ý thọ phép quán đảnh Mật giáo. Nhật Bản năm Nhân An thứ ba (1168), Vinh Tây đi thuyền đến Minh Châu (nay là Ninh Ba), Trung Quốc, sau đó đến núi Thiên Thai chiêm bái linh thánh cổ tích. Năm này, Vinh Tây đem về nước hơn 30 bộ điển tịch chương sớ Thiên Thai tông, sau này "Diệp Thượng phái" của Mật Giáo Nhật Bản tôn Vinh Tây làm Tổ sư. Nhật Bản năm Văn Trị thứ ba (1187), Vinh Tây lại đi Trung Quốc lần thứ hai, đến chùa Vạn Niên ở núi Thiên Thai bái kiến thiền sư Hư Am Hoài Sưởng. Hư Am là đích tôn đời thứ 8 phái Hoàng Long thuộc tông Lâm Tế, trong giới Thiền tông có danh vọng rất cao. Hư Am về sau dời qua núi Thiên Đồng, Vinh Tây cũng đi theo phụng trì. Vinh Tây quay về Nhật Bản vào năm Thiệu Hy thứ hai, Nam Tống (1191).
Sau khi về nước, Vinh Tây ra sức truyền bá thiền pháp tông Lâm Tế. Đầu tiên kiến lập chùa Báo Ân ở Trúc Tiền (nay là Phúc Cương), sau đó lập chùa Thánh Phúc ở Bác Đa Tân (cảng Hakata), người bốn phương kéo đến học thiền rất đông. Do bị tín đồ Thiên Thai tông công kích, Vinh Tây viết hai bộ Xuất Gia Đại Cương và Hưng Thiền Hộ Quốc Luận để phản bác lại, từ đó danh tiếng vang xa. Không lâu sau, thiền Lâm Tế của Vinh Tây được sự tín phụng và ủng hộ của mạc phủ Liêm Thương, tướng quân Nguyên Lại Gia kiến lập chùa Kiến Nhân ở Kinh Đô, an trí ba tông Thiền, Chân Ngôn, Thiên Thai. Vinh Tây dung hợp tư tưởng của ba tông, hình thành Lâm Tế tông Nhật Bản.
Sau khi Vinh Tây qua đời, Lâm Tế tông Nhật Bản tiến vào thời kỳ hưng thịnh. Đệ tử của Vinh Tây có Hành Dũng, Vinh Triều. Thoái Canh Hành Dũng trú ở chùa Kiến Nhân và chùa Vạn Phúc, nỗ lực phát đương sự nghiệp Vinh Tây đã khai sáng. Đệ tử của Hành Dũng là Đại Yết Liễu Tâm dựa vào quy chế Thiền tông Trung Quốc hoàn thành lễ nghi của tông Lâm tế Nhật Bản. Thích Viên Vinh Triều sau khi được truyền tâm ấn từ biệt Vinh Tây đến Quan Đông hoằng dương tông Lâm Tế, ở nơi này có danh tiếng rất cao.
Tháp xá-lị chùa A-dục Vương, ở Ninh Ba, Chiết Giang.
Khi Nam Tông sụp đổ, nhiều thiền sư Trung Quốc qua Nhật Bản để tránh loạn lạc, đây là cơ hội để Thiền tông Nhật Bản phát triển nhanh chóng, dần dần có được địa vị ưu thế trong các tông phái Phật giáo. Năm 1246, thiền sư Trung Quốc Lan Khê Đạo Long thuộc phái Dương Kỳ của Lâm Tế tông đến Nhật Bản, được sự sùng kính của cả hai giới tăng tục, rất nhiều người đến quy y, là thiền sư có công lao khá lớn đối với việc thúc đẩy Thiền tông Nhật Bản phát triển. Đạo Long qua đời, Thiên hoàng Quy Sơn ban tặng thụy hiệu là Đại Giác thiền sư. Sau Đạo Long còn có nhiều thiền sư Trung Quốc trứ danh sang Nhật truyền bá thiền pháp tông Lâm Tế, đóng vai trò quan trọng giúp Thiền tông Nhật Bản phát triển nhanh chóng.
ĐẠO NGUYÊN - TỔ KHAI SÁNG TÔNG TÀO ĐỘNG NHẬT BẢNĐạo Nguyên Hi Huyền là Tổ khai sáng Tào Động tông Nhật Bản. Đạo Nguyên xuất gia vào năm 13 tuổi (1212) tự học giáo nghĩa Thiên Thai tông. Về sau, Đạo Nguyên đến chùa Kiến Nhân bái kiến thiền sư Vinh Tây, chuyển qua tu tập Thiền tông. Sau khi Vinh Tây qua đời, Đạo Nguyên theo học đệ tử của Vinh Tây là Minh Toàn. Năm 1223, Đạo Nguyên cùng Minh Toàn đi Trung Quốc, đến núi Thiên Đồng theo học thiền sư Như Tịnh là Tổ đời thứ 13 của Tào Động tông, được truyền y pháp tông Tào Động.
Sau khi quay về Nhật Bản, Đạo Nguyên khai đường thuyết pháp, Thiên hoàng Tứ Điều ban ngạch hiệu chùa là "Hưng Thánh Bảo Lâm Thiền Tự". Sau này Đạo Nguyên kiến lập chùa Vĩnh Bình ở Việt Tiền (nay là Phúc Tỉnh) đến ngày nay là hội sở của Tào Động tông.
Thiền pháp mà Đạo Nguyên được truyền thụ ở Trung Quốc là Mặc chiếu thiền của Tào Động tông, nên Đạo Nguyên hoằng dương thiền pháp này ở Nhật Bản. Yếu quyết tọa thiền của Mặc chiếu thiền là "chỉ quản đả tọa", nghĩa là không khởi niệm gì khác, không tham công án mà chỉ nhất tâm chuyên chú ngồi thiền, từ đó có thể bất tri bất giác đạt đến cảnh giới thân tâm thoát lạc. Đạo Nguyên có viết sách Phổ Khuyến Tọa Thiền Nghi nói về phương pháp tĩnh tọa mặc chiếu và làm thế nào để khai ngộ trong khi tĩnh tọa.
Đệ tử nhập thất của Đạo Nguyên có bốn người, trong đó xuất sắc nhất là Cô Vân Hoài Trang, Hoài Trang kế thừa thiền pháp của Đạo Nguyên, tiếp tục truyền dòng thiền Tào Động sau khi Đạo Nguyên qua đời. Hoài Trang có sáu đệ tử, tiêu biểu là Triệt Thông Nghĩa Giới, Bảo Khánh Tịch Viên. Nghĩa Giới cũng từng đến Trung Quốc, chứng kiến cảnh lễ lạc thịnh vượng rất xúc động, sau khi về nước ra sức lạc quyên, nỗ lực vào sự nghiệp kiến thiết tông phái. Lễ lạc nghi quỹ Phật giáo ở chùa Vĩnh Bình vào thời của Nghĩa Giới đạt được quy mô bước đầu. Nghĩa Giới có hai đại đệ tử là Hàn Nham Nghĩa Doãn và Oánh Sơn Thiệu Cẩn. Nghĩa Doãn là con thứ ba của Thiên hoàng Thuận Đức, từng đến Trung Quốc cầu học hai lần, sau khi về nước sáng lập chùa Đại Từ ở Phì Hậu (nay là Hùng Bản), người đương thời tôn xưng là "Pháp Hoàng trưởng lão". Pháp Hoàng Quy Sơn từng ban cho tử y cà sa và ngự bút đề ngạch chùa Đại Từ. Phái thiền này về sau phát triển thành "Hàn Nham phái" (còn gọi là phái chùa Đại Từ). Tịch Viên là người Trung Quốc sau khi đến Nhật tục thừa thiền pháp Hoài Trang, khai sáng chùa Bảo Khánh ở Việt Tiền, nhiệt tâm truyện bá thiền pháp Tào Động, có đệ tử là Vĩnh Bình Nghĩa Vân kế tục, phái này được gọi là "phái chùa Bảo Khánh".Thiệu Cẩn tục thừa thiền pháp Nghĩa Giới, ra sức xây dựng tông phái, lập ra thanh quy tông môn. Trong thời kỳ này, Tào Động tông phát triển rất mạnh, người theo học ngày càng đông, từ giới hạn trong khu vực bắc bộ truyền rộng ra toàn quốc
BẠCH ẨN HUỆ LẠC - NGƯỜI TRUNG HƯNG TÔNG LÂM TẾ NHẬT BẢNSau khi truyền vào Nhật Bản, Thiền tông trở thành phương pháp tu tập của giới võ sĩ, các cao tăng Thiền tông được sự trọng vọng của giới mạc phủ tướng quân và võ sĩ. Với điều kiện này, Thiền tông dựa vào sự hưng khởi của mạc phủ Liêm Thương và mạc phủ Thất Đinh phát triển đến toàn thịnh.
Đến thời đại Giang Hộ thì Thiền tông hướng đến suy tàn. Địa vị "ngũ sơn thập sát" (năm núi mười chùa) được kiến lập trong thời đại Thất Đinh bị sa sút, một số tu viện thậm chí không thể đề cử được một vị trụ trì có thể thắng nhiệm. Hậu kỳ thời đại Giang Hộ, người gánh vác trọng trách chấn hưng Thiền tông chính là Bạch Ẩn Huệ Hạc. Bạch Ẩn chuyên cần tham hoc, thấu triệt tư tưởng Lâm Tế chính tông, được thầy ấn khả lúc 29 tuổi. Bạch Ẩn đạt ngộ sau khi trải qua một quá trình tham học gian khổ trường kỳ, điều này giúp cho Thiền học của Bạch Ẩn có một nền tảng vững chắc. Sau đó Bạch Ẩn tiếp tục vân du, danh tiếng ngày càng vang xa. Nam Hưởng Bảo thứ nhất (1716), Bạch Ẩn Huệ Hạc trú ở chùa Tùng Âm, chí lực chấn hưng tông Lâm Tế. Năm sau, Bạch Ẩn đến Kinh Đô, làm đệ nhất tọa ở chùa Diệu Tâm, lúc này ảnh hưởng của Bạch Ẩn đã lan rộng toàn quốc, người bốn phương kéo đến học rất đông. Năm Bảo Lịch thứ 8 (1758), tăng chúng tín đồ vì Bạch Ẩn kiến lập chùa Long Trạch, thỉnh làm "Khai sơn đệ nhất Tổ".
Pháp tự của Bạch Ẩn có hơn 30 người, trong đó những vị quan trọng là Đông Lĩnh Viên Từ, Túy Ông Nguyên Lư, Nga Sơn Từ Điệu. Đông Lĩnh kế thừa tông phong Bạch Ẩn giáo hóa hai giới tăng tục, Túy Ông kế tục Bạch Ẩn trụ trì chùa Tùng Âm, ra sức chấn hưng thiền pháp. Nga Sơn Từ Điệu có rất nhiều đệ tử tài năng, phân ra giáo hóa một phương, mỗi người đều hình thành lưu phái riêng, tất cả được gọi chung là "Hộc Lâm phái", tăng đồ tông Lâm Tế Nhật Bản thời cận hiện đại đa số đều thuộc vào phái này. Vì vậy, Bạch Ẩn Huệ Hạc được tôn xưng là "Trung hưng Tổ sư" của tông Lâm Tế.
Điện Tổ sư ở chùa Thiên Đồng.